Đặc điểm chung của các nước đã bị đô la hóa – một số lưu ý đối với Việt Nam

Về lâu dài, cần phải thay đổi tư duy của doanh nghiệp và người dân, bằng cách tạo lòng tin vào tiền đồng trên cơ sở ổn định vĩ mô, đặc biệt là vấn đề lạm phát, và sự nhất quán cũng như minh bạch trong các chính sách kinh tế của chính phủ. ĐLH trong nền kinh tế không phải là gốc rễ của vấn đề, đó chỉ là triệu chứng của vấn đề mà thôi. Gốc rễ của vấn đề là chúng ta đã thiếu niềm tin đối với đồng nội tệ, đồng nghĩa với việc thiếu niềm tin đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô. Cho dù Chính phủ sử dụng vũ khí độc quyền của mình là các mệnh lệnh hành chính để cấp phép hay ngăn cấm các doanh nghiệp và người dân đối với việc kinh doanh hay thanh toán bằng ngoại tệ, thì cũng chỉ cứu vãn được đồng nội trong thời ngắn mà thôi, vì một lý lẽ đương nhiên và hết sức bình thường là người dân có quyền định đoạt lợi ích kinh tế từ việc nắm giữ tài sản của mình. Vì vậy, việc tăng cường niềm tin của người dân đối với đồng nội tệ thông qua tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ổn định tỷ giá, cải cách chính sách tiền tệ và tăng cường năng lực của các thể chế tài chính là điều quan trọng cần làm./.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm chung của các nước đã bị đô la hóa – một số lưu ý đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 113 ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC NƯỚC ĐÃ BỊ ĐÔ LA HÓA – MỘT SỐ LƯU Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM ThS. Nguyễn Thị Thu Hiếu Khoa Kinh tế, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Có thể nói, đô la hóa (ĐLH) là căn bệnh không thể tránh khỏi của quá trình hội nhập. Hiện tượng này đã ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế xã hội, và đặc biệt gây rất nhiều khó khăn cho việc điều hành các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù đã có rất nhiều nhà khoa học đề xuất những giải pháp có tính thực tiễn cao, nhưng cho đến nay, ĐLH vẫn còn là tâm điểm thời sự nóng bỏng. Để góp phần tìm ra lời giải cho vấn đề này, tác giả giới thiệu khái lược những vấn đề chung về hiện tượng ĐLH và bối cảnh kinh tế đã đẩy một số quốc gia trên thế giới đi đến quyết định ĐLH hoàn toàn, từ đó rút ra những đặc điểm chung của các quốc gia này khi bị ĐLH, trên cơ sở đó gợi ý một vài điều trong điều hành chính sách kinh tế đối với Việt Nam. Từ khóa: Đô la hóa, đồng nội tệ, đồng ngoại tệ, lạm phát, tăng trưởng, khủng hoảng kinh tế, chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ (CSTT), hệ thống tài chính, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). 1. Khái lược những vấn đề chung về hiện tượng ĐLH trong nền kinh tế Về mặt lý thuyết, hiện tượng đô la hóa (ĐLH) trong nền kinh tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học viết về vấn đề này, do đó tác giả chỉ tóm lược những nội dung chính như sau: Đô la hóa (dollarization) là một hiện tượng khi dân cư một nước sử dụng rộng rãi đồng ngoại tệ song song với đồng nội tệ hoặc thay thế đồng nội tệ. Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi đồng ngoại tệ trong nền kinh tế và thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận đồng ngoại tệ mà ĐLH được chia làm 3 mức độ: ĐLH không chính thức (non- official dollarization): là trường hợp đồng ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. ĐLH bán chính thức (semiofficial dollarization): là những nước lưu hành chính thức hai đồng tiền: đồng ngoại tệ và đồng bản tệ. ĐLH chính thức (official dollarization): xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nếu một quốc gia thực hiện ĐLH chính thức có nghĩa là quốc gia đó chấp nhận đồng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán, tích trữ tài sản, và đơn vị tính toán thay cho đồng bản tệ. Bất kỳ một ngoại tệ nào (như đô la Mỹ, Euro, Yên Nhật,) có khả năng thay thế đồng nội tệ cũng dẫn đến hiện tượng “ĐLH”. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, nói đến ĐLH, hầu hết người dân chỉ nghĩ đến một đồng tiền duy nhất Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 114 đó là Đô la Mỹ (USD) bởi vì cho đến nay đồng USD vẫn chiếm hơn 70% tỷ trọng trong thanh toán quốc tế, trong khi đó tại Việt Nam khoảng 90% tổng thanh toán cho các hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp sử dụng đồng USD. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng ĐLH cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế ĐLH không chính thức với tỷ lệ hiện nay tương đối cao ở khoảng 20%. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng đồng tiền riêng của mỗi nước; ví dụ như tại Việt Nam, Pháp lệnh ngoại hối qui định “Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam”. Vậy tại sao lại có hiện tượng ĐLH? Có rất nhiều giả thuyết giải thích vấn đề này như: lạm phát cao, mất ổn định kinh tế vĩ mô, sự bất ổn về chính trị, quan điểm điều hành các chính sách kinh tế của Chính phủ,Chẳng hạn, khi một nước đang đối đầu với tỷ lệ lạm phát không thể kiểm soát và phá giá đồng nội tệ sẽ đe dọa toàn bộ nền kinh tế thì những người đang nắm giữ trong tay đồng nội tệ sẽ đòi một lãi suất cao để bù vào khoản trượt giá. Đứng trước tình trạng này, ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ tăng lãi suất huy động để bảo vệ đồng nội tệ, kéo theo lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ cũng tăng lên. Trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, rất nhiều nhà kinh doanh sẽ vay bằng ngoại tệ để được lãi suất thấp. Và chính điều này đã làm xuất hiện hiện tượng ĐLH. Mặt khác, khi một nước đang trong tình trạng lạm phát có nghĩa là đồng nội tệ của nước đó đang bị mất giá. Việc đồng nội tệ bị mất giá sẽ làm cho người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ và đổ xô đi mua đồng ngoại tệ, điều này làm cho đồng nội tệ càng bị mất giá hơn. Khi niềm tin bị đánh mất, bất chấp lãi suất đồng nội tệ có cao, người dân vẫn có xu hướng chuyển sang nắm giữ hoặc gởi tiết kiệm bằng ngoại tệ, hiện tượng ĐLH vì thế mà xuất hiện. 2. Các nước đã bị ĐLH 2.1. Panama Nước đầu tiên tiến hành ĐLH toàn phần là Panama. Từ năm 1904, sau khi tách khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng xanh. Việc này đã có ảnh hưởng rất tốt đến nền kinh tế của Panama, ví dụ trong suốt những năm 1990 lạm phát hầu như không vượt quá 1%/năm. Nhưng ĐLH vẫn không giúp Panama được hoàn toàn độc lập với trợ giúp của các tổ chức bên ngoài. Từ năm 1973 Panama tiếp nhận hơn 15 chương trình của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, và ĐLH cũng không ngăn được việc Panama mất khả năng trả nợ nước ngoài vào giữa những năm 1980. 2.2. Ecuador Ecuador bắt đầu thực hiện chuyển đổi vào đầu năm 2000. ĐLH là phương cách cuối cùng của Ecuador khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ (đồng Sucre) mất giá, và sự chống đối của người dân bản xứ. Khi Tổng thống Jamil Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 115 Mahuad thông cáo có ý định ĐLH vào tháng 1 năm 2000, quá trình này đã bắt đầu được tiến hành, đất nước đã đang trong quá trình ĐLH một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên thông cáo của Tổng thống đã dẫn đến một cuộc đảo chính, và tổng thống đã phải từ chức. Chính quyền dân sự được tái lập vào tháng 2, nghị viện Ecuador thông qua đạo luật cho phép được ĐLH toàn phần. Trước khi đổi hệ thống tiền tệ sang đô la, Ecuador đã thử tiến hành nhiều cố định, chính sách ghìm tỷ giá. Tất cả các biện pháp này đều không có hiệu quả và đến nay quyết định ĐLH vẫn được coi là hợp lý đối với Ecuador. 2.3. El Salvador Cuối tháng 11 năm 2000 nghị viện El Salvador thông qua luật thực hiện ĐLH toàn phần trong cả nước. Bắt đầu từ ngày 01/01/2001, các máy đếm tiền tự động đều được nạp chương trình để phát ra đồng đô la và tất cả các tài khoản ngân hàng đều chuyển sang đô la. Sự thay đổi này không hẳn do nguyên nhân khủng hoảng kinh tế trầm trọng như trường hợp của Ecuador. Trên thực tế, lạm phát ở Salvador thấp, chỉ khoảng 1,3% trong vòng 1 thập kỷ trước. ĐLH thật ra là để thu hút đầu tư nước ngoài vào El Salvador. Cũng như người dân Ecuador, người Salvador không ngạc nhiên mấy khi nghe quyết định ĐLH vì tỷ giá giữa đồng nội tệ Colon và đô la đã được cố định trong suốt 8 năm. NHTW Salvador ước tính gần 70% số tiền đang được sử dụng tại thời điểm đó là đô la. Như các trường hợp trên, lợi ích của ĐLH còn cần được xem xét thêm. Tuy nhiên cũng đã có những dấu hiệu tốt: ngày El Salvador tiến hành chuyển đổi sang đồng tiền mới thì lãi suất tiêu dùng và vay mua nhà giảm từ 17% xuống còn 11%. 2.4. Zimbabwe Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng rất nặng nề tới hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Zimbabwe là một nước giàu có của Châu Phi vào những năm 1980, nhưng đến tháng 7/2008 siêu lạm phát lên tới 23 triệu phần trăm (23.100.000%) tại đất nước này khiến 80% người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. NHTW liên tục phát hành giấy bạc mệnh giá cao, tháng 1/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 20 triệu đôla, đến 21/7/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 100 tỷ đôla. Thậm chí, Chính phủ Zimbabwe đã phải ngừng tính lạm phát cho đến hết năm 2008. Bởi lạm phát đã khiến rối loạn hoàn toàn hệ thống tiền tệ của đất nước này. Tờ bạc mệnh giá lên tới 100 tỷ đô la lúc bấy giờ cũng chỉ mua được 3 quả trứng gà hoặc 1 ổ bánh mì mà thôi. Thật khó tin khi chỉ sau 2 năm, Zimbabwe đã khống chế thành công siêu lạm phát. Trên thực tế, thời gian qua đã đủ để tờ 100 tỷ tỷ đô la Zimbabwe dần lấy lại được giá trị. Kể từ tháng 2 năm 2009, Chính phủ mới của Zimbabwe đã thiết lập hệ thống giao thương đa tiền tệ trong đó đồng đô la Mỹ được sử dụng phổ biến nhất. Phân bổ ngân sách quốc gia năm 2009, dự toán ngân sách 2010 đều sử dụng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ. Đối với các giao dịch dân sự, theo ước tính của các ngân hàng, 4/5 các giao dịch kể cả các giao dịch hàng hóa sản xuất trong nước hay việc trả lương cho công Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 116 nhân và các giao dịch chứng khoán đều sử dụng đồng đô la Mỹ. Trên thị trường, tất cả các cửa hàng đều niêm yết giá cả hàng hóa của họ bằng đô la Mỹ (trừ một số cửa hàng ở phía Nam nơi tiếp giáp với Nam Phi có niêm yết bằng đồng rand - đơn vị tiền tệ của Nam Phi) đã dẫn tới việc thiếu hụt các đồng xu Mỹ trong thanh toán và Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (FED) đã chính thức đồng ý cung cấp đồng xu cho Zimbabwe để khắc phục sự thiếu hụt này. Việc ĐLH nền kinh tế của Zimbabwe đã đánh bại hoàn toàn siêu lạm phát, giúp nền kinh tế hoạt động tốt nhưng vẫn có những hạn chế như không có sự đảm bảo cuối cùng cho sự ổn định của hệ thống ngân hàng; hệ thống ngân hàng phụ thuộc vào chính sách kinh tế của Mỹ và qua đó không có khả năng phản ứng lại các cú sốc của hệ thống tài chính; và trong ngắn hạn không đảm bảo được năng lực cạnh tranh quốc gia. 2.5. Một vài trường hợp khác Vài năm trước đây, Mỹ thông báo là đô la sẽ được coi là đồng tiền chính thức của Đông Timor, nước vừa tuyên bố độc lập khỏi Indonesia. Tháng 12 năm 2000, Guatemala thông qua đạo luật cho phép sử dụng đô la rộng rãi, tuy không tuyên bố hẳn là sẽ ĐLH toàn phần. Một loạt các nước khác cũng đã cân nhắc về quyết định ĐLH, ví dụ như Costa Rica, Honduras, Nicaragua. Vài người đã đề nghị ĐLH Afganistan, như một biện pháp tạm thời cho đến khi chính phủ được đặt trong một chế độ chính trị ổn định. Nhiều nước vẫn sử dụng đồng đô la là chính mà không có nước nào thay đổi chính sách ĐLH toàn phần, và đây thường được coi là một chính sách cố định. 3. Đặc điểm chung của các nước bị ĐLH 3.1. Các nước nhỏ Một đặc điểm tiêu biểu nhất của các nước bị ĐLH đó là các nước nhỏ, vừa mới được tách ra từ các nước lớn. Hầu hết, các nước này đều được Mỹ hậu thuẫn cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Và khi một đất nước chịu sự điều hành từ phía sau của Mỹ về mọi mặt thì chắc chắn đồng đô la sẽ chế ngự trên lãnh thổ của quốc gia này. 3.2. Nền kinh tế kém phát triển Ở các nước có nền kinh tế kém phát triển, các mối quan hệ thương mại quốc tế bị thu hẹp, các hoạt động sản xuất trong nước trở nên rất khó khăn. Trước một nền kinh tế yếu kém, người dân không tin tưởng vào đồng bản tệ, do đó đồng bản tệ không thể cạnh tranh nổi với đồng ngoại tệ trong thực hiện các chức năng của tiền tệ. Mặc dù, chính phủ trong nước vẫn khuyến khích (hay bắt buộc) người dân sử dụng đồng bản tệ, tuy nhiên các chủ thể kinh tế bao giờ cũng lựa chọn đồng tiền nào thực hiện tốt các chức năng của tiền tệ. Do đó, các nước bị ĐLH đa phần là các nước có nền kinh tế kém phát triển. 3.3. Kinh tế lệ thuộc vào Mỹ Một quốc gia có nền kinh tế lệ thuộc vào Mỹ thì tất cả hoạt động của các chính sách vĩ mô điều do Chính phủ Mỹ điều hành và quyết định, do đó Chính phủ Mỹ luôn đưa ra những quy định có lợi cho đất nước của họ và đồng tiền của nước họ. Vì thế, NHTW của các nước có nền kinh tế lệ thuộc vào nước Mỹ không còn khả năng điều hành CSTT, lúc này quyền điều hành thuộc về Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 117 nước Mỹ. Điều này cũng có nghĩa là giá trị đồng nội tệ của nước đó phụ thuộc vào giá trị đồng ngoại tệ của nước điều hành. Đồng nội tệ bị yếu đi, người dân không thể tin vào giá trị một đồng tiền vừa yếu vừa phụ thuộc vào giá trị đồng tiền của nước khác. Do đó, nếu kinh tế lệ thuộc vào Mỹ thì đồng nội tệ của quốc gia đó cũng bị đồng ngoại tệ lấn áp trong mọi chức năng của tiền tệ. 3.4. Giá cả không ổn định - đồng tiền mất giá kéo dài Giá cả không ổn định thì sẽ kéo theo giá trị của đồng tiền không ổn định, tức là đất nước này không kiểm soát được tỷ lệ lạm phát. Do đó, dân chúng không tin tưởng vào sự điều hành kinh tế đất nước của Chính phủ, nảy sinh tâm lý muốn chuyển sang đồng tiền có giá trị ổn định hơn. Bên cạnh đó, việc mất giá kéo dài của đồng nội tệ làm cho dân chúng không muốn nắm giữ trong nó tay mình nữa, có xu hướng chuyển sang nắm giữ một đồng tiền mạnh hơn để đảm bảo giá trị tài sản của mình. Vì vậy, một đất nước có giá cả hàng hóa không ổn định - đồng tiền mất giá kéo dài là một nước có mức độ ĐLH ngày một gia tăng. 3.5. Đang trong tình trạng khủng hoảng kéo dài Khi cuộc chiến chống lạm phát của chính phủ không thành công thì quốc gia này đang phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Nếu như chính phủ không đưa ra được những giải pháp thích hợp để vực dậy nền kinh tế, tình trạng khủng hoảng ngày một trầm trọng hơn. Hệ thống ngân hàng cũng đang trên bờ vực phá sản, lúc này việc in tiền của NHTW để cứu vãn hệ thống ngân hàng cũng không còn ý nghĩa nữa khi người dân ồ ạt rút tiền, chuyển sang một đồng tiền có giá trị ổn định hơn để đảm bảo giá trị tài sản của mình. Vì vậy, kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng kéo dài thì đất nước này không thể nào tránh khỏi bị ĐLH. 4. Một số gợi ý chính sách xử lý hiện tượng ĐLH trong thời gian tới Từ thực tiễn nền kinh tế của các nước, có thể nói, ĐLH đã giúp các nước này vượt qua khủng hoảng, khắc phục được tình trạng lạm phát cao hoặc là tạo thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài; nhưng nhìn chung, nếu không phụ thuộc vào chính trị thì nền kinh tế của các nước này cũng bất ổn, kém phát triển và lệ thuộc vào Mỹ rất nhiều. Do đó, Chính phủ của các nước này hoàn toàn bị động, trong dài hạn đây là điều bất lợi rất lớn cho đất nước. Đối với Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định một cách tự hào là Chính phủ Việt Nam hoàn toàn tự chủ; mặc dù, hiện nay tỷ lệ ĐLH ở khoảng 20% cũng đã gây ra rất nhiều khó khăn trong việc điều hành các chính sách kinh tế. Để khắc phục tình trạng ĐLH, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ các giải pháp từ hệ thống ngân hàng, mà cần có nhiều giải pháp được thực hiện bởi nhiều cơ quan chức năng của nhà nước, ý thức của từng doanh nghiệp và từng người dân, cụ thể: Trước mắt, để củng cố và giữ vững vị trí của VND trong thanh toán và giao dịch, cần tiếp tục duy trì và kiểm tra chặt chẽ việc tuân thủ các qui định trong các Nghị định 95/2011, Nghị định 24/2012 của Chính phủ, Pháp lệnh ngoại hối. Hầu hết ở các nước thành công trong việc chống ĐLH thì biện pháp hành Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 118 chính mạnh tay không thể bỏ qua, chẳng hạn như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia,Tuy nhiên, ngân hàng nhà nước cần phải hướng dẫn, phổ biến, tuyên truyền các qui định này cho người dân biết để thực hiện; niêm yết danh sách các địa điểm được cấp phép mua bán ngoại tệ tại tất cả các ngân hàng thương mại, các công ty, cửa hàng kinh doanh vàng và ngoại tệ; đồng thời cần có cuộc điều tra, khảo sát để khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi các văn bản pháp luật này đi vào thực tế. Cụ thể như, từ vụ việc tiệm vàng Hoàng Mai (TP HCM) bị khám xét, xử lý về hành vi mua, bán ngoại tệ trái phép người dân bắt đầu băn khoăn, hoang mang không biết mua bán ngoại tệ, vàng như thế nào cho hợp pháp? Về lâu dài, cần phải thay đổi tư duy của doanh nghiệp và người dân, bằng cách tạo lòng tin vào tiền đồng trên cơ sở ổn định vĩ mô, đặc biệt là vấn đề lạm phát, và sự nhất quán cũng như minh bạch trong các chính sách kinh tế của chính phủ. ĐLH trong nền kinh tế không phải là gốc rễ của vấn đề, đó chỉ là triệu chứng của vấn đề mà thôi. Gốc rễ của vấn đề là chúng ta đã thiếu niềm tin đối với đồng nội tệ, đồng nghĩa với việc thiếu niềm tin đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô. Cho dù Chính phủ sử dụng vũ khí độc quyền của mình là các mệnh lệnh hành chính để cấp phép hay ngăn cấm các doanh nghiệp và người dân đối với việc kinh doanh hay thanh toán bằng ngoại tệ, thì cũng chỉ cứu vãn được đồng nội trong thời ngắn mà thôi, vì một lý lẽ đương nhiên và hết sức bình thường là người dân có quyền định đoạt lợi ích kinh tế từ việc nắm giữ tài sản của mình. Vì vậy, việc tăng cường niềm tin của người dân đối với đồng nội tệ thông qua tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ổn định tỷ giá, cải cách chính sách tiền tệ và tăng cường năng lực của các thể chế tài chính là điều quan trọng cần làm./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đoàn Văn Tường. 2005. Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam và những giải pháp khắc phục, www.moi.gov.vn . [2] Herve Hannoun, Deputy General Manager of the BIS. 28 July 2007. Policy responses to the challenges posed by capital inflows in Asia. [3] The World Economy (Max Corden Festchrift Issue). 2003. Capital Inflows and the Real Exchange Rate: A Comparative Study of Asia and Latin America. [4] phat-01510994.html. [5] [6]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_chung_cua_cac_nuoc_da_bi_do_la_hoa_mot_so_luu_y_doi.pdf