Theo Kempson và các cộng sự thì 100%
sarcôm bao hoạt dịch hai pha dương tính với
CK và EMA, các thành phần hình thoi cũng
dương tính với CK và EMA nhưng thường
thành ổ, yếu hơn và chỉ gặp trong 3/4 các
trường hợp, trong khi chỉ 50% sarcôm bao hoạt
dịch đơn pha hình thoi dương tính với CK và
EMA. Chỉ 15-30% các trường hợp sarcôm bao
hoạt dịch hai pha có thành phần biểu mô
dương tính với vimentin, trong khi 80-90%
sarcôm bao hoạt dịch đơn pha và đa pha có
thành phần hình thoi dương tính với
vimentin(6).
Theo Brooks, gần 90% sarcôm bao hoạt
dịch đơn pha hình thoi bộc lộ CK và EMA,
thậm chí trong thực tế, sarcôm bao hoạt dịch
còn chứa một CK đặc hiệu là CK19.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 20
trường hợp được nhuộm CK đều dương tính,
nhưng không phải tất cả các tế bào u, mà chỉ
nhuộm những tế bào biểu mô hoặc có xu
hướng biệt hoá biểu mô trong biến thể tế bào
hình thoi và biến thể kém biệt hoá. Nhuộm
EMA của các tế bào trong các sarcôm BHD bắt
màu yếu hơn CK ngay cả với các sarcôm BHD
kém biệt hoá và loại hình thoi mà theo một số
tác giả trong những trường hợp này EMA lại
tỏ ra hữu dụng hơn để phát hiện sự biệt hoá
biểu mô.
Nhiều tác giả thấy rằng các sarcôm bao
hoạt dịch có thể dương tính với CD99 nhưng ở
nghiên cứu này cả 6 sarcôm BHD kém biệt hoá
nhuộm CD99 đều âm tính.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch của Sarcôm bao hoạt dịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC VÀ HÓA MÔ MIỄN DỊCH
CỦA SARCÔM BAO HOẠT DỊCH
Bùi Thị Mỹ Hạnh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm về tuổi, giới tính, vị trí u, mô bệnh học, hóa mô miễn dịch của sarcôm bọc
hoạt dịch.
Phương pháp nghiên cứu: khảo sát hồi cứu trên số lượng 44 cas có chẩn đoán sarcôm bọc hoạt dịch tại
Bv K Hà Nội.
Kết quả: thường gặp ở độ tuổi < 40, nam/nữ 0,76, vị trí u thường gặp là ở chi dưới 61,37%, có 3 loại
mô bệnh học, thường gặp nhất là loại đơn pha tế bào hình thoi, các tế bào biểu mô dương tính với CK 100%,
tế bào hình thoi dương tính với vimentin 100%.
Kết luận: Sarcôm bao hoạt dịch thường gặp ở nữ, trẻ, ở chi dưới, với loại mô bệnh học thường gặp là
loại đơn pha tế bào hình thoi, dương tính 100% với vimentin.
SUMMARY
PATHOHISTOLOGICAL AND IMMUNOHISTOCHEMICAL FEATURES
OF SYNOVIAL SARCOMA
Bui Thi My Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 – 2007: 146 - 151
Purpose: Decribes characteristies of age, gender, tumor site, pathohistology, immunohistochemistry of
synovial sarcoma.
Study methods: Retrospective study on 44 cases of synovial sarcoma from Ha Noi K hospital.
Results: Most patients with synovial sarcoma are under 40 year old (77,27%), male/female ratio is
0,76, most sites are extremities, especially in lower limbs (61,37%). There are 3 histopathologic subtypes,
most of them is monophasis spindle cell synovial sarcoma. Immunohistochemically, 100% SS having
epithelial cells stained CK, spindle cells stained vimentin in 100% cases.
Conclusion: Synovial sarcoma often occur in young female, at lower limbs with predominent subtype
is monophasis spindle cell, 100% stained in vimentin.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sarcôm bao hoạt dịch là một u ác tính hiếm
gặp với tỷ lệ mắc bệnh 2,75/100.000 dân (2).
Mặc dù tên gọi như vậy nhưng nguồn gốc tế
bào u vẫn chưa được xác định, nên sarcôm bao
hoạt dịch (BHD) được xếp vào nhóm các
sarcôm không rõ nguồn gốc và chiếm trên 10%
các sarcôm mô mềm. U có hình thái mô học
khá đa dạng và phức tạp dễ nhầm lẫn với các
sarcôm tế bào hình thoi khác như sarcôm xơ, u
vỏ thần kinh ngoại vi ác tính (UVTKNVAT), u
ngoại mạch, thậm chí có thể chẩn đoán nhầm
lẫn với các ung thư phần phụ của da hoặc di
căn ung thư biểu mô... Vì vậy để chẩn đoán
xác định sarcôm bao hoạt dịch, bên cạnh các
đặc trưng về mô học, nhiều trường hợp cần sự
hỗ trợ của các kỹ thuật bổ trợ như hoá mô
miễn dịch (HMMD) và các thông tin về lâm
sàng như tuổi bệnh nhân, vị trí u... Do tính
hiếm gặp của này, nên ở Việt Nam còn thiếu
các nghiên cứu đề cập tới. Vì vậy, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu:
- Xác định sự phân bố sarcôm BHD theo
tuổi, giới, vị trí u.
* Bộ môn Giải phẫu bệnh - Đại học Y Hà Nội
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 147
- Tìm hiểu một số đặc điểm mô học và hoá
mô miễn dịch của các sarcôm bao hoạt dịch.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Gồm 44 sarcôm bao hoạt dịch được chẩn
đoán tại khoa Giải Phẫu Bệnh bệnh viện K Hà
Nội trên các bệnh phẩm phẫu thuật, trong thời
gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm
2006 có các bệnh phẩm hoặc các khối nến.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Các bệnh phẩm phẫu thuật được cố định
trong focmol trung tính 10%, mỗi trường hợp
được lấy 3 mảnh x1cmx1cmx0,2cm tại 3 vùng
khác nhau của u. Các mẫu bệnh phẩm được
chuyển đúc trong paraffin và cắt mỏng,
nhuộm hematoxylin- eosin như thường qui.
- 20 trường hợp được nhuộm hoá mô miễn
dịch theo phương pháp miễn dịch men Avidin
Biotin Complex tại khoa GPB bệnh viện K Hà
Nội với CK, EMA, vimentin, CD34, S100,
CD99, LCA, chromoganin, synaptophysin.
Đánh giá kết quả
- Các tiêu bản mô học được quan sát dưới
kính hiển vi quang học, xem xét hình thái tế
bào, cấu trúc mô u.
- Các tiêu bản nhuộm HMMD: phản ứng
dương tính khi tế bào u bắt màu nâu. Phản
ứng âm tính khi các tế bào u không bắt màu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo giới
Trong nghiên cứu này, sarcôm bao hoạt
dịch thường gặp ở nữ hơn (56,82%) ở nam giới
(43,18%), tỷ lệ nam/nữ là 0,76.
Bảng 1. Phân bố sarcôm mô mềm theo giới
Giới Số trường hợp Tỷ lệ %
Nam 19 43,18
Nữ 25 56,82
Tổng cộng 44 100
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo nhóm tuổi
Trong nghiên cứu, chúng tôi không gặp
trường hợp nào dưới 10 tuổi, tuổi trẻ nhất là
10 tuổi (1 trường hợp, nữ), già nhất là 76 tuổi
(1 trường hợp, nam), nhóm tuổi thường gặp
nhất là 20-29 (36,36%), dưới 40 tuổi chiếm
77,27%, dưới 50 tuổi chiếm 90,91%.
Bảng 2. Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo nhóm tuổi
Tuổi Số TH Tỷ lệ %
0-9 0
10-19 8 18,18
20-29 16 36,36
30-39 10 22,73
40-49 6 13,64
50-59 3 6,82
>=60 1 2,27
Tổng cộng 44 100
Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo vị trí u
Bảng 3. Phân bố sarcôm bao hoạt dịch theo vị trí u
Vị trí Số trường hợp Tỷ lệ %
Đầu mặt cổ 5 11,36
Thân mình 1 2,27
Chi trên 11 25,00
Chi dưới 27 61,37
Tổng cộng 44 100
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, sarcôm
bao hoạt dịch hầu hết gặp ở chi, gần khớp, đặc
biệt chi dưói (27/44 trường hợp 38,84%), trong đó
chủ yếu là vùng bẹn đùi (18/44 trường hợp), chi
trên gặp 11 trường hợp (25%), thân mình chỉ gặp 1
trường hợp ở thành bụng (2,27%), khu vực đầu cổ
gặp 5 trường hợp (11,36%), trong đó 1 trường hợp
ở thái dương, 4 trường hợp ở vùng cổ trước dưới.
Mô bệnh học
Trong số 44 sarcôm bao hoạt dịch được
nghiên cứu, chúng tôi thấy 18/44 trường hợp
(40,91%) loại hai pha (biphasic), đơn pha hình
thoi gặp 20/44 trường hợp (45,45%), loại biệt
hoá kém có 6 trường hợp (13,64%), không gặp
trường hợp nào loại biểu mô đơn thuần.
Bảng 4. Sự phân bố các dưới typ mô bệnh học
Dưới typ mô bệnh học Số trường hợp Tỷ lệ %
Hai pha 18 40,91
Đơn pha hình thoi 20 45,45
Đơn pha biểu mô 0
Biệt hoá kém 6 13,64
Tổng cộng 44 100
Sarcôm bao hoạt dịch hai pha chứa cả 2
thành phần: tế bào biểu mô và tế bào hình thoi
với tỷ lệ khác nhau, đan xen vào nhau nhưng
ranh giới khá rõ ràng.
+ Thành phần biểu mô chứa những cấu
trúc ống tuyến, một số trường hợp có cấu trúc
nhú hoặc hình thành các ổ, dải đặc. Các ống
tuyến được lót bởi những tế bào biểu mô hình
khối vuông hoặc hình trụ, trong khi các cấu
trúc nhú thường được lót bởi những tế bào
biểu mô dẹt có lõi là các tế bào hình thoi. Hiện
tượng biệt hoá vảy không gặp.
Những tế bào biểu mô thường nhạt màu
hơn, bào tương rộng hơn những tế bào hình
thoi, ranh giới bào tương thường rõ. Nhân tế
bào hình tròn hoặc hình túi. Các tế bào biểu
mô chế một loại chất nhày mucicarmin ưa
acid, dạng hạt hoặc giống chất keo và được
chứa trong lòng tuyến. Số lượng thành phần
biểu mô trong sarcôm bao hoạt dịch hai pha
rất khác nhau tuỳ theo từng trường hợp.
+ Thành phần tế bào hình thoi được tạo
nên từ những tế bào hình thoi nhỏ, đồng
dạng, tỉ lệ nhân/bào tương cao, sắp xếp thành
bó giống như sarcôm xơ hoặc thành mảng.
Một số tế bào hơi tròn hơn, sáng hơn tạo thành
nhóm nhỏ hoặc đứng xen kẽ giữa các tế bào
hình thoi khác, nhưng chúng vẫn có kích
thước nhỏ, không rõ bào tương. Nhân của các
tế bào hình thoi có hình bầu dục và thường gối
lên nhau, chất nhiễm sắc đậm nhưng mịn và
phân bố đều. Hoạt động nhân chia thay đổi
tuỳ trường hợp, nhưng nhìn chung nhân chia
thường không nhiều (dưới 20 nhân chia/10 vi
trường). Bào tương dạng dải, mảnh, khó phát
hiện, ranh giới tế bào không rõ.
Sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi: Chỉ
gồm các tế bào hình thoi giống như những tế
bào hình thoi trong sarcôm bao hoạt dịch hai
pha với các tế bào nhỏ đồng dạng, một số tế
bào hơi tròn hơn, sáng hơn như được gói lại
gợi sự biệt hóa biểu mô. Các tế bào thường
vây quanh các khe mạch chia nhánh (75% các
trường hợp).
Sarcôm bao hoạt dịch kém biệt hoá: gồm
nổi trội các tế bào u kém biệt hoá, tròn nhỏ
hoặc hơi thoi, kiềm tính đậm tạo thành mảng
đặc hoặc xen kẽ với những ổ nhỏ sarcôm bao
hoạt dịch 2 pha (2 trường hợp) hoặc xen lẫn
với các thành phần tế bào hình thoi giống như
trong sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình thoi
(4 trường hợp). Một số tế bào kém biệt hoá
hình thành cấu trúc hoa hồng giả (2 trường
hợp) giống như trong u thần kinh ngoại bì
nguyên thuỷ (PNET).
Trong cả 3 dưới typ mô học, hiện tưọng
can xi hoá chỉ gặp ở 3 trường hợp (6,71%) dưới
dạng lắng đọng can xi thành ổ giữa các tế bào
hình thoi (loại hai pha gặp 1 trường hợp và
đơn pha hình thoi gặp 2 trường hợp). Mô đệm
dạng keo hầu hết có thể gặp trong các trường
hợp nhưng chỉ thực sự nổi trội thành các dải
đặc trong 5/44 trường hợp. Sự xâm nhập các tế
bào mast trong mô đệm rất hiếm gặp
(3/44trường hợp). Hoại tử u cũng ít thấy và chỉ
là những ổ nhỏ.
Hoá mô miễn dịch
20 trường hợp được nhuộm HMMD trong
đố có 4 sarcôm BHD 2 pha, 10 sarcôm BHD
đơn pha thoi, 6 sarcôm BHD kém biệt hoá đã
cho thấy:
- Sarcôm BHD 2 pha: tất cả các tế bào biểu
mô biệt hoá rõ trên mô học dương tính mạnh
với CK, dương tính yếu hơn với EMA, âm tính
với vimentin. Các tế bào hình thoi dương tính
mạnh với vimentin, CK và EMA chỉ dương
tính rải rác với 1 số tế bào có xu hướng biệt
hoá biểu mô (tế bào hoi tròn, sáng màu).
- Sarcôm BHD đơn pha thoi: các tế bào u dương
tính mạnh với vimentin (10/10), rải rác 1 vài tế bào
dương tính với CK (8/10), nhuộm EMA kết quả
không rõ ràng, âm tính với CD34, S100 dương
tính dạng ổ trong 2 trường hợp.
- Sarcôm BHD kém biệt hoá: 6/6 trường hợp
có các tế bào u âm tính với CD99, LCA,
desmin, Chromoganin, S100, dương tính với
CK thành mảng hoặc thành ổ trong những
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 149
vùng có xu hướng biệt hoá biểu mô. Nhuộm
EMA dương tính yếu hơn hoặc không rõ ràng.
BÀN LUẬN
Về tuổỉ, giới và vị trí u
Về giới
hầu hết các tác giả khác đều thấy sarcôm
bao hoạt dịch nổi trội hơn ở nam giối, tỷ lệ
nam/nữ là(1,2), nhưng trong nghiên cứu này thì
ngược lại, tỷ lệ nam/nữ là 0,76. Điều này có lẽ
do nghiên cứu của chúng tôi chỉ chọn các
sarcôm BHD được chẩn đoán tại bệnh viện K
Hà Nội trên các bệnh phẩm phẫu thuật nên
không đại diện.
Về tuổi
Sarcôm bao hoạt dịch là bệnh của thiếu
niên và người trẻ với tuổi trung bình 26,5(7).
Theo Viện Bệnh học Quân đội Mỹ (AFIP), lứa
tuổi dưới 50 chiếm 90%, dưới 40 tuổi chiếm
72%, không gặp trường hợp nào ở trẻ mới sinh
và có thể gặp ở trẻ dưới 10 tuổi(6). Theo
Cadman và cộng sự(2) lứa tuổi từ 10-50 chiếm
83,6%. Các kết quả này cũng tương tự với
nghiên cứu của chúng tôi. Theo nhiều tác giả
thì tuổi cũng là một yếu tố đánh giá tiên lượng
của sarcôm BHD. Các bệnh nhân tuổi càng trẻ,
đặc biệt trẻ em có tiên lượng tốt hơn(7).
Về vị trí u
Mặc dù tên gọi sarcôm BHD nhưng
sarcôm này có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào trên
cơ thể, thậm chí ở thận, phổi, mắt, hầu
họng<nhưng vị trí thường gặp nhất của
chúng là mô mềm gần khớp, đặc biệt các khớp
lớn. Vì vậy, các chi đặc biệt chi dưới là vị trí
hay gặp nhất của sarcôm BHD. Theo AFIP,
83% sarcôm BHD ở chi, chi trên chiếm 23%,
chi dưới 60%, 9% ở vùng đầu cổ và 8,1% ở
thân mình và các vị trí khác. Các kết quả này
cũng tương tự của chúng tôi nhưng theo họ,
vùng đùi dưới- khớp gối là vị trí thường gặp
nhất (1/3 các trường hợp) thì trong nghiên cứu
của chúng tôi vùng bẹn -đùi là vị trí hay gặp
nhất (18/44 trường hợp). Trong nhiên cứu này
cũng chưa gặp trường hợp nào ở các vị trí như
thận, phổi, sau phúc mạc..
Về đặc điểm mô bệnh học
Sarcôm bao hoạt dịch là một thuật ngữ để
chỉ những sarcôm mô mềm trước đây chỉ tìm
thấy ở các khớp và có cấu trúc giống như của
bao hoạt dịch, vì vậy chỉ có biến thể hai pha
được ghi nhận.
Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy
sarcôm bao hoạt dịch không chỉ được tìm thấy
ở các khớp mà còn có thể gặp ở những vùng
khác như mô mềm ở cổ, khoang miệng, thành
bụng trước, sau phúc mạc...(3,10). Đặc biệt, các tế
bào trong sarcôm bao hoạt dịch không có liên
quan về HMMD với các tế bào biểu mô bao
hoạt dịch bình thường (âm tính với CK, dương
tính với vimentin). Tuy vậy, hiện nay người ta
vẫn quen dùng thuật ngữ này hơn là chấp
nhận một thuật ngữ mới. Những nghiên cứu
về HMMD và di truyền tế bào đã cho thấy các
thành phần tế bào hình thoi trong sarcôm bao
hoạt dịch cũng bộc lộ dấu ấn biểu mô như CK,
EMA và cũng có sự chuyển vùng nhiễm sắc
thể đặc trưng t(X;18) giống như các thành
phần biểu mô. Do đó, các sarcôm tế bào hình
thoi có đặc điểm giống với thành phần hình
thoi trong sarcôm bao hoạt dịch cổ điển đã
được ghi nhận là biến thể hình thoi của
sarcôm bao hoạt dịch và trở thành một chẩn
đoán thường gặp hơn loại cổ điển(8). Biến thể
đơn pha biểu mô cũng đã được chấp nhận về
mặt lý thuyết, nhưng thực tế rất hiếm gặp,
biến thể này chỉ được khẳng định sau khi đã
loại trừ được các ung thư biểu mô.
Nhìn chung, chẩn đoán sarcôm bao hoạt
dịch hai pha thường không khó khăn, vì gần
như không có u nào trong cơ thể giống với
biến thể này. Tuy vậy, trong những trường
hợp thành phần tuyến nổi trội và rất ít tế bào
hình thoi, có thể chẩn đoán nhầm với một di
căn ung thư biểu mô hoặc ung thư biểu mô
phần phụ của da. Để phân biệt, cần xem xét
một cách cẩn thận để phát hiện các thành
phần tế bào hình thoi.
Những sarcôm bao hoạt dịch hai pha có sự
nổi trội của thành phần tế bào hình thoi và ít
cấu trúc tuyến cũng khó phân biệt với biến thể
tuyến của UVTKNVAT hoặc lại được chẩn
đoán là sarcôm bao hoạt dịch đơn pha hình
thoi. Cấu trúc tuyến trong sarcôm bao hoạt
dịch có đặc điểm là chứa một chất nhầy ưa
acid thường ở trong lòng ống hơn là trong bào
tương tế bào. Cấu trúc tuyến trong
UVTKNVAT thường dạng ruột.
Việc tìm kiếm thành phần biểu mô trong
một sarcôm bao hoạt dịch có sự nổi trội của
các tế bào hình thoi cũng rất quan trọng vì nó
liên quan đến tiên lượng bệnh. Trong một
nghiên cứu của Cagle và cộng sự đã cho thấy
thời gian sống thêm của bệnh nhân phụ thuộc
vào tỷ lệ nhân chia và thành phần tuyến.
Những sarcôm bao hoạt dịch hai pha có tỷ lệ
nhân chia thấp (dưới 15 nhân chia/10 vi
trường) thì tỷ lệ sống thêm 3 năm là 100%,
trong khi những sarcôm bao hoạt dịch đơn
pha hình thoi có tỷ lệ nhân chia cao (trên 15
nhân chia/10 vi trường), thời gian sống thêm 3
năm chỉ có 43%(1). Vì vậy, những mảnh sinh
thiết đủ lớn hay việc lấy bệnh phẩm ở những
vị trí khác nhau của u là rất cần thiết để không
những đủ tiêu chuẩn để khẳng định sarcôm
bao hoạt dịch mà còn xác định một cách chắc
chắn sarcôm bao hoạt dịch hai pha hay đơn
pha. Trong thực tế nghiên cứu của chúng tôi,
đã có một truờng hợp chỉ được chẩn đoán là
một sarcôm tế bào hình thoi trên bệnh phẩm
sinh thiết, nhưng sau đó trên bệnh phẩm phẫu
thuật lại là một sarcôm bao hoạt dịch hai pha
điển hình; một trường hợp khác, sarcôm bao
hoạt dịch hai pha chỉ được chẩn đoán sau khi
bệnh phẩm đã được lấy ở nhiều vị trí khác
nhau của u.
Với biến thể đơn pha hình thoi, việc chẩn
đoán gặp khó khăn hơn. Giống như một số
sarcôm khác, các tế bào hình thoi trong sarcôm
bao hoạt dịch cũng sắp xếp thành bó giống
như sarcôm xơ (trong quá khứ đã có nhiều
tranh cãi và nhiều tác giả cho rằng không thể
phân biệt được với sarcôm xơ)(1); cũng có khi
các tế bào tạo nên các vùng xoáy nhỏ hoặc
những vùng nhầy ít tế bào giống như
UVTKNVAT. Tuy vậy, các tế bào hình thoi
trong sarcôm bao hoạt dịch cũng có những đặc
điểm khá riêng biệt, có thể sử dụng để phân
biệt với các sarcôm tế bào hình thoi khác như
các tế bào khá đồng dạng, kích thước nhỏ, một
số tế bào thường tròn hơn, nhạt mầu hơn như
được "gói lại" gợi sự biệt hoá biểu mô. Ngoài
ra, còn có 3 dấu hiệu khác mà chúng tôi thấy
khá đặc trưng của tế bào hình thoi trong cả
sarcôm bao hoạt dịch đơn pha và hai pha,
cũng được một số tác giả đề cập tới:
- Những bó sợi tạo keo dầy, giống như
cuộn thừng (đôi khi kính hoá) cùng những tế
bào rất mảnh kề bên tạo hình ảnh giống như
xương hoặc những hình giả hốc.
- Sự calci hoá hoặc xương hoá.
- Mạng lưới mao mạch phong phú giống u
ngoại mạch.
Một số tác giả còn nhấn mạnh đến sự xâm
nhập của các dưỡng bào trong cả loại hai pha
và đơn pha(2,4,10). Tuy nhiên, trong nghiên cứu
của chúng tôi ít thấy sự xuất hiện của loại tế
bào này.
Gần đây biến thể sarcôm BHD kém biệt
hoá được thừa nhận, nhưng do tính hiếm gặp
và sự kém biệt hoá của nó để khẳng định cần
nhuộm HMMD để tìm sự biệt hóa biểu mô của
các tế bào u. Nhìn chung saôm BHD kém biệt
hoá có tỷ lệ nhân chia cao hơn và có thể thấy
hoại tử u trong khi các biến thể khác gần như
không gặp hoại tử u. Các tế bào kém biệt hoá
trong biến thể này rất giống với các tế bào
trong các u tế bào tròn nhỏ khác đặc biệt thần
kinh ngoại bì nguyên thuỷ (PNET), nên trên
mô học cần xác định được các thành phần của
sarcôm BHD 2 pha hoặc đơn pha(5).
Về hóa mô miễn dịch
Trong nhiều trường hợp, sarcôm bao hoạt
dịch khó phân biệt với các sarcôm tế bào hình
thoi khác, đặc biệt là sarcôm xơ, UVTKNVAT,
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 151
u ngoại mạch ác tính< Khác với các sarcôm
này, các tế bào trong sarcôm bao hoạt dịch bộc
lộ các dấu ấn của biểu mô gồm cả CK và EMA
trong khi âm tính với S-100, CD34, desmin,
actin và rất nhiều dấu ấn khác(1).
Theo Kempson và các cộng sự thì 100%
sarcôm bao hoạt dịch hai pha dương tính với
CK và EMA, các thành phần hình thoi cũng
dương tính với CK và EMA nhưng thường
thành ổ, yếu hơn và chỉ gặp trong 3/4 các
trường hợp, trong khi chỉ 50% sarcôm bao hoạt
dịch đơn pha hình thoi dương tính với CK và
EMA. Chỉ 15-30% các trường hợp sarcôm bao
hoạt dịch hai pha có thành phần biểu mô
dương tính với vimentin, trong khi 80-90%
sarcôm bao hoạt dịch đơn pha và đa pha có
thành phần hình thoi dương tính với
vimentin(6).
Theo Brooks, gần 90% sarcôm bao hoạt
dịch đơn pha hình thoi bộc lộ CK và EMA,
thậm chí trong thực tế, sarcôm bao hoạt dịch
còn chứa một CK đặc hiệu là CK19.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 20
trường hợp được nhuộm CK đều dương tính,
nhưng không phải tất cả các tế bào u, mà chỉ
nhuộm những tế bào biểu mô hoặc có xu
hướng biệt hoá biểu mô trong biến thể tế bào
hình thoi và biến thể kém biệt hoá. Nhuộm
EMA của các tế bào trong các sarcôm BHD bắt
màu yếu hơn CK ngay cả với các sarcôm BHD
kém biệt hoá và loại hình thoi mà theo một số
tác giả trong những trường hợp này EMA lại
tỏ ra hữu dụng hơn để phát hiện sự biệt hoá
biểu mô.
Nhiều tác giả thấy rằng các sarcôm bao
hoạt dịch có thể dương tính với CD99 nhưng ở
nghiên cứu này cả 6 sarcôm BHD kém biệt hoá
nhuộm CD99 đều âm tính.
KẾT LUẬN
Sarcôm bao hoạt dịch thường gặp ở người
trẻ, dưới 40 tuổi (77,27%%), nữ giới thường
gặp hơn nam giới, tỷ lệ nam/nữ là 0,76. Vị trí
hay gặp nhất của sarcôm bao hoạt dịch là ở chi
(86,37%), trong đó chủ yếu là chi dưới
(61,37%), ít gặp nhất ở thân mình (2,5%).
Sarcôm BHD đơn pha hình thoi và sarcôm
BHD kém biệt hoá thường khó chẩn đoán hơn
loại hai pha. Đặc điểm nổi bật của u là chứa
những tế bào thoi đồng dạng, nhỏ, xếp gối lên
nhau, vây quanh các khe mạch chia nhánh, ít
hoại tử u. Nhuộm HMMD, CK chứng tỏ là
một dấu ấn nhạy hơn EMA để phát hiện sự
biệt hoá biểu mô trong sarcôm bao hoạt dịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brooks SJ (1999): Disorders of soft tissue, Diagnostic
Surgical Pathology, 3th Edition, Lippincott William &
Wilkins, Philadelphia, (131 -196).
2. Cappello F; Bellafiore M; Bucchieri F; Balsano G; Palma A;
Zummo G (2001): Poorly differentiated synovial sarcoma:
a case report. Pathol-Oncol-Res; 7(1), (63-6).
3. Enzinger FM; Weiss SW (1988): Synovial sarcoma, Soft
tissue tumors, 2nd edition, Mosby Company.(659-688)
4. Enginger FM (1998): Color Atlas of Soft Tissue Tumors,
Mosby Company.
5. Fisher C, deBruijn D.R.H., van Kessel A.G. (2002):
Synovial Sarcoma, Pathology and Genetics Tumours of
soft tissue and bone, WHO Classification of Tumours,
(200-204).
6. Fletcher CDM (1995): Soft Tissue Tumors, Diagnostic
Histophathology of Tumors, 1st, Churchill Livingstone,
(1043-1264).
7. Kemson R.L; Fletcher C.D.M; Evan H.L; Hendrichson MR;
Sibley R.K (2000): Synovial sarcoma, Tumors of soft tissue
3 rd.Atlas of tumor Pathology, AFIP, Washington, DC,
(472-500).
8. Okcu MF; Despa S; Choroszy M; Berrak SG; Cangir A;
Jaffe N; Raney RB (2001): Synovial sarcoma in children
and adolescents: thirty three years of experience with
multimodal therapy, Med-Pediatr-Oncol; 37(2), (90-6).
9. Panagopoulos I; Mertens F; Isaksson M; Limon J;
Gustafson P; Skytting B; Akerman M; Sciot R; Dal Cin P;
Samson I; Iliszko M; Ryoe J; Debiec Rychter M;
Szadowska A; Brosjo O; Larsson O; Rydholm A; Mandahl
N (2001): Clinical impact of molecular and cytogenetic
findings in synovial sarcoma,Genes-Chromosomes-
Cancer, 31(4) (362-72).
10. Perlmutler A, Saunders S (2005): Primary synovial
sarcoma of the kidney, International Journal of Urology,
Vol 12, Issue 8, (760-762).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_mo_benh_hoc_va_hoa_mo_mien_dich_cua_sarcom_bao_hoat.pdf