Đa số trẻ ăn đủ đạm (khoảng 65‐70%),
nhưng có khuynh hướng nhiều và dư (>20%).
Không có khác biệt về số lượng đạm sử
dụng với nơi cư trú, số trẻ và số thế hệ trong
cùng gia đình. Trình độ văn hóa của mẹ ảnh
hưởng đến số lượng đạm ở trẻ 18‐36 tháng, nghề
nghiệp của mẹ hưởng đến số lượng đạm ở trẻ
37‐48 tháng.
Lượng đạm sử dụng có ảnh hưởng đến sự
phát triển chiều cao của nhóm trẻ 37‐60 tháng
tuổi.
Trên 80% trẻ mầm non có thói quen ăn đa
dạng thực phẩm giàu đạm và ăn như người lớn.
10% trẻ chỉ ăn 1‐2 loại thức ăn giàu đạm,
khoảng 10% chỉ ăn nước mà nhả bã và 1‐1,5%
không ăn thức ăn giàu đạm.
Nghề nghiệp mẹ, nghề nghiệp cha, số trẻ
trong gia đình (khi kiểm tra sự khác biệt theo
nhóm tuổi), nơi ở không ảnh hưởng đến mức độ
đa dạng về chất đạm trong khẩu phần
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sử dụng thức ăn giàu đạm ở trẻ em lứa tuổi mầm non nội thành TPHCM và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 12
ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG THỨC ĂN GIÀU ĐẠM Ở TRẺ EM LỨA TUỔI
MẦM NON NỘI THÀNH TPHCM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Nguyễn Thị Kim Hoàng*, Trần Thị Hoài Phương*, Nguyễn Thị Kiều Thu*, Lê Thị Kha Nguyên*,
Trần Duy Hoàng Phương*, Nguyễn Hữu Thiện*, Lê Thị Lệ Thắm*, Nguyễn Thị Thu Hậu*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định đặc điểm và những yếu tố liên quan đến việc sử dụng các thức ăn giàu đạm ở trẻ em
lứa tuổi mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang phân tích.
Kết quả: Đa số trẻ nhận được đủ lượng đạm, tuy nhiên có khuynh hướng nhiều đạm trong khẩu phần.
Không có khác biệt về số lượng đạm sử dụng với nơi cư trú và số trẻ và số thế hệ trong cùng gia đình.Trình độ
văn hóa mẹ là yếu tố liên quan đến lượng đạm sử dụng ở trẻ 18 ‐ 36 tháng tuổi và nghề nghiệp của mẹ liên quan
ở trẻ 37‐48 tháng tuổi. Lương đạm sử dụng có ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao của nhóm trẻ 37‐60 tháng
tuổi. Khoảng 50‐60% trẻ ăn đa dạng về đạm như người lớn, nhưng còn khoảng 20% kén ăn đạm. Có sự khác
biệt trong đa dạng đạm ở lứa tuổi khác nhau và chịu ảnh hưởng của số thế hệ trong cùng gia đình. Trứng, thịt
và hải sản được 2/3 số trẻ thích ăn. Đa số trẻ được uống sữa đầy đủ nhưng còn 5‐9% uống < 200 ml sữa/ ngày.
Kết luận: Trẻ mầm non nội thành TP.HCM ăn đủ thức ăn giàu đạm và khá đa dạng. Tỉ lệ sử dụng đạm từ
sữa khá tốt. Lượng đạm sử dụng ảnh hưởng đến chiều cao trung bình của trẻ.
Từ khóa: Thức ăn giàu đạm, mầm non.
ABSTRACT
PROTEIN RICH FOODS CONSUMPTION CHARACTERISTICS OF URBAN PRESCHOOL
CHILDREN IN HCM CITY AND ASSOCIATED FACTORS
Nguyen Thi Kim Hoang, Tran Thi Hoai Phuong, Nguyen Thi Kieu Thu, Le Thi Kha Nguyen,
Tran Duy Hoang Phuong, Nguyen Huu Thien, Le Thi Le Tham, Nguyen Thi Thu Hau
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 12 ‐ 19
Objective: To determine characteristics and associated factors of protein rich products consumption in
urban preschool children in Ho Chi Minh City.
Method: Analysis cross sectional.
Results: Majority of children received enough protein, but had trend to get redundant. There weren’t
different of protein rich products consumption in different living areas groups, and number of children and
generations living in the same family. Mother educated level is associated factors of protein rich products
consumption in group 18‐36 months‐age and mother carriers in 37‐48 months‐age. Protein intake impact height
growth in 37‐60 months ‐ age group. About 50‐60% of children used protein rich products like aldult but also
20% were picky. There were different in variety of protein rich products and age group,the number of generations
living in the same family. egg, meat, sea foods were the preferred food in 2/3. Almost children consump adequate
amount of milk but still less than 200 ml/day in 5‐9%.
Conclusions: The intake of protein rich products in urban preschool children in HCM city were adequate
and diversified. The rate of milk‐ origined protein consumption was good. They need nutritional support. Protein
intake impact children height.
Key words: Protein rich products, urban preschool children.
* Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Tác giả liên lạc: ĐD. Nguyễn Thị Kim Hoàng. ĐT: 0988436160, Email: phuongdinhduong2000@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 13
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đạm đóng vai trò quan trọng đối với sức
khỏe, từ vai trò cấu trúc, đến tạo nên các men
tiêu hóa, các chất xúc tác cho mọi quá trình
chuyển hóa của cơ thể đến ảnh hưởng tới khả
năng bảo vệ cơ thể và phát triển hệ miễn dịch.
Đạm, nhất là đạm trứng, sữa, và đạm động vật
là nhu cầu không thể thiếu đối với cơ thể đang
tăng trưởng của trẻ. Cả thừa và thiếu đạm đều
có tác hại trên sức khỏe. Nghiên cứu năm 2004
tại hà nội cho thấy tỉ lệ đạm trong khẩu phần ăn
của trẻ 4‐6 tuổi là 14,5‐15%(4). Theo xu hướng
chung, sử dụng đạm ở người thành phố đã tăng
hơn nhưng chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát(1).
Do đó, khoa Dinh dưỡng bệnh viện Nhi
Đồng 2 tiến hành nghiên cứu về tình hình sử
dụng các thức ăn giàu đạm ở lứa tuổi mầm non
nội thành TP.HCM, tìm ra những yếu tố liên
quan về gia đình, xã hội, địa lý. Từ kết quả
nghiên cứu này có thể ứng dụng trong tham vấn
dinh dưỡng và có kế hoạch truyền thông giáo
dục sức khỏe phù hợp, nhằm mục đích nâng cao
sức khỏe và tầm vóc cho trẻ em thành phố Hồ
Chí minh và của cả Việt Nam nói chung.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định đặc điểm và những yếu tố liên
quan đến việc sử dụng các thức ăn giàu đạm ở
trẻ em lứa tuổi mầm non nội thành thành phố
Hồ Chí Minh.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỉ lệ trẻ nhận được đủ, thiếu, dư
chất đạm trong khẩu phần ăn theo nhóm tuổi và
một số yếu tố liên quan (nơi ở, trình độ học vấn
và nghề nghiệp của mẹ).
Xác định tỉ lệ trẻ ăn đa dạng thực phẩm giàu
đạm và một số yếu tố liên quan (nơi ở, số thế hệ
trong gia đình, số trẻ em trong gia đình, trình độ
học vấn của cha, mẹ, nghề nghiệp cha, mẹ, thời
điểm ăn dặm, tình trạng dinh dưỡng, sự phát
triển chiều cao).
Xác định một số thực phẩm giàu đạm trẻ
thích ăn.
Xác định tỉ lệ sử dụng sữa theo nhóm tuổi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.
Cỡ mẫu
Theo công thức Kiểm định một tỉ lệ của dân
số.
n: Số mẫu cần lấy.
Z: Trị số từ phân phối chuẩn.
α: Mức ý nghĩa, sác xuất sai lầm loại 1, α=
0,05, Z 1‐ α/2= 1,96
β: Xác suất sai lầm loại 2, β = 0,1.
β: sức mạnh kiểm định, 1‐ β =0,90, Z 1‐ β =1,28
P0: Trị số của tỉ lệ cần kiểm định, theo
NC ở HN là 15%
: Trị số của tỉ lệ thật trong dân số, dự tính
khoảng 16%
n= 1367.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn trẻ theo 3 nhóm tuổi: 18‐36th, 37‐48th,
49‐60th tại các trường mầm non của các quận
trong thành phố, lấy ngẫu nhiên 1367 bé.
Theo kết quả điều tra dân số 2009 (5), chia
vùng dân số nội thành TP.HCM thành 3 khu
vực:
‐ Khu vực trung tâm: Quận 1,3,5,10,11, Phú
Nhuận. Tổng số dân 1173964, chiếm 16%.
‐ Khu vực gần trung tâm: Quận 4, 7, 6, 8,
Bình thạnh, Tân Bình. Tổng số dân 1962443,
chiếm 27%.
‐ Khu vực gần ngoại thành: Quận 2, 9, 12,
Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp, Thủ Đức. Tổng số
dân 2744168, chiếm 38%.
‐ Tiêu chuẩn chọn mẫu: Trong chương trình
khám sức khỏe, chọn liên tiếp 30 bé cho mỗi
nhóm đến khám đầu tiên trong ngày để đưa vào
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 14
nghiên cứu (khoảng 46 nhóm).
‐ Theo phân bố dân cư nội thành 2009, chọn
270 bé ở nhóm quận trung tâm, 456 bé ở nhóm
quận gần trung tâm, 642 bé ở nhóm quận gần
ngoại thành.
Thu thập và xử lý số liệu
Thu thập bằng bảng câu hỏi, do bà mẹ tự
điền, sau đó nhân viên khoa dinh dưỡng đã
được huấn luyện trực tiếp phỏng vấn kiểm tra
thông tin.
Số liệu được mã hóa và xử lý bằng phần
mềm SPSS 16.0 for windows.
Thời gian thực hiện: 12 tháng.
+ Viết đề cương: 9/2011‐ 11/2011.
+ Chọn mẫu, khảo sát: 12/2011 ‐ 4/2012.
+ Mã hóa, nhập và xử lý số liệu: 5/2012 ‐
6/2012.
+ Viết báo cáo: 7‐ 9/2012.
KẾT QUẢ
Xác định tỉ lệ trẻ nhận được đủ, thiếu, dư chất đạm trong khẩu phần ăn theo nhóm tuổi và
các yếu tố liên quan
3,2
23,2
42,8
24,4
6,4
2,5
28,9
39,5
21,7
7,4
2,3
23,5
45
25
4
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Biểu đồ 1. Số lượng thức ăn giàu đạm sử dụng theo nhóm tuổi.
Bảng 1. Chiều cao trung bình và lượng đạm sử dụng
ở trẻ 37‐48 tháng tuổi.
Số lượng đạm Số bé Chiều cao trung bình
Không ăn 12 96,625
50-80 g/ngày 136 97,033
100-120 g/ngày 186 98,381
150-200 g/ngày 102 98,496
200 g/ngày 35 99,614
Tổng cộng 417 97,999
Số lượng đạm và nơi cư trú: Không khác biệt
p = 0,135.
Số lượng đạm và trình độ văn hóa mẹ:
Không khác biệt p = 0,487
Bảng 2. Chiều cao trung bình và lượng đạm sử dụng
ở trẻ 49‐60 tháng tuổi.
Số lượng đạm Số bé Chiều cao trung bình
Không ăn 12 103,667
50-80 g/ngày 125 103,968
100-120 g/ngày 239 105,847
150-200 g/ngày 133 107,028
> 200 g/ngày 22 104,795
Tổng cộng 531 105,608
Số lượng đạm và nghề nghiệp mẹ: Không
khác biệt p = 0,252.
Số lượng đạm và số trẻ trong gia đình:
Không khác biệt, p = 0,102.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 15
Số lượng đạm và số thế hệ trong cùng gia
đình: Không khác biệt, p = 0,658.
Số lượng đạm và tình trạng chiều cao trung
bình theo nhóm tuổi:
‐ Nhóm tuổi 1: Không khác biệt, p = 0,703.
‐ Nhóm tuổi 2: Khác biệt có ý nghĩa thống
kê, p = 0,017.
‐ Nhóm tuổi 3: Khác biệt có ý nghĩa thống
kê, p = 0,002.
Tỉ lệ ăn đa dạng thức ăn giàu đạm theo lứa tuổi và các yếu tố liên quan
1,2
13
10
14,4
61,4
1,5
10,4
14,2
19,7
54,1
1,5
8,3 8,7
16,2
65,3
0
10
20
30
40
50
60
70
Khong an Nuoc nha ba Mot hai loai Ba den nam loai Nhu nguoi lon
18‐36th
36‐48th
48‐60th
Biểu đồ 2. Tỉ lệ sử dụng đa dạng thức ăn giàu đạm theo từng nhóm tuổi.
Đa dạng đạm và nghề nghiệp mẹ: Không
khác biệt, p = 0,344.
Đa dạng đạm và nghề nghiệp cha: Không
khác biệt, p = 0,557.
Đa dạng đạm và nơi ở: Không khác biệt, p =
0,874.
Đa dạng đạm và lứa tuổi: Khác biệt có ý
nghĩa thống kê, p = 0,01.
Đa dạng đạm và số trẻ trong gia đình: Khác
biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,042.
Phân tích nhóm tuổi riêng: không khác biệt.
‐ Nhóm tuổi 1: Không khác biệt, p = 0,838.
‐ Nhóm tuổi 2: Không khác biệt, p = 0,484.
‐ Nhóm tuổi 3: Không khác biệt, p = 0,552.
Tỉ lệ các thức ăn giàu đạm trẻ thích ăn
65,8
59,4 62,1
52,1
70,7
59,7 59,7
52
65,5
60,8 59,1
51,8
0
10
20
30
40
50
60
70
80 18‐36th 36‐4
Biểu đồ 3. Tỉ lệ các thức ăn giàu đạm trẻ thích ăn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 16
Lượng sữa sử dụng trung bình
5,4
19,1
39,6
26,7
9,
5,9
23,1
43,7
21,9
8,7
27,9
40,3
17,1
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Biểu đồ 5. Lượng sữa sử dụng trung bình theo nhóm tuổi.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng gần ½
số trẻ ăn 100 ‐120 g (khuyến cáo) và ¼ số trẻ ăn
150 ‐ 200 g (giới hạn trên cho phép) thức ăn giàu
đạm mỗi ngày. Lượng thức ăn giàu đạm không
khác biệt nhiều ở các lứa tuổi. Tỉ lệ thiếu đạm và
dư đạm nhiều không cao.
Theo tháp dinh dưỡng của trẻ 2‐6 tuổi của
Mỹ, ngoài phần tinh bột, 2 servings sữa (khoảng
500 ml), lượng thức ăn giàu đạm trong khẩu
phần 1800 kcal trung bình mỗi ngày là 60‐90 g
thịt/ cá + ½ ly đậu hay 1 trái trứng (có thể thay
bằng 30 g thịt cá) + 2 thìa canh bơ đậu phộng (có
thể thay bằng 30g thịt/ cá) hay tương đương 120‐
150 g thịt/ cá cho 1800 kcal. Như vậy, trẻ 1‐3 tuổi
sẽ cần tương đương 60‐75 g thịt/cá (1100‐1300
kcal) và 4‐5 tuổi cần 100‐120g (1400‐1500 kcal).
Theo bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị
cho người Việt Nam 2007, trẻ 1‐3 tuổi cần 35‐44
g đạm và trẻ 4‐6 tuổi cần 44‐55 g đạm. Trong đó,
trẻ nhận khoảng 15‐20 g từ sữa (tương đương
400‐600 ml sữa nguyên kem hoặc sữa công thức
3) và 10‐15g đạm từ gạo và rau, trái cây (150‐250
g gạo). Như vậy, trẻ 1‐3 tuổi cần khoảng 80‐150
g và trẻ 4‐6 tuổi cần 120‐200 g thức ăn giàu đạm.
Khuyến nghị của Việt Nam cho số lượng thức
ăn giàu đạm cao hơn do chế độ ăn của người
Việt ít bơ, sữa, phô mai hơn người Âu Mỹ nên
lượng đạm quý ít hơn, do đó khẩu phần ăn có
giá trị sinh học của đạm thấp hơn và phần thải
bỏ nhiều hơn.
So với khuyến nghị thì trẻ trong lô nghiên
cứu ăn hơi nhiều thức ăn giàu đạm, điều này
cũng phù hợp với quan niệm của nhiều phụ
huynh, cho rằng nhiều thịt cá mới đủ chất bổ
cho trẻ. Đây cũng là khuynh hướng của người
Việt nam, khi có điều kiện kinh tế sẽ ăn dư đạm,
nhất là thịt các loại(1,2,3). Theo khảo sát của Viện
Dinh dưỡng năm 2010, lượng thịt 1 người Việt
nam trưởng thành ăn trong 1 năm năm 1985 là
13 kg, năm 1990 là 24 kg, năm 2000 là 51 kg và
năm 2010 là 84 kg, trong khi người Mỹ là 84 kg,
Úc 109 kg và Nhật 26 kg. Các trẻ trong nghiên
cứu này sống ở Thành phố HCM nên có điều
kiện sống tương đối khá so với nông thôn, do đó
ăn đạm nhiều hơn. Kết quả này cũng phù hợp
với nghiên cứu về khẩu phần ăn ở Hà nội và
TP.HCM, trẻ có xu hướng sử dụng đủ và dư
đạm hơn khuyến nghị, nhất là ở nội thành so với
các xã ngoại thành(3,6,7). Tuy nhiên trong nghiên
cứu này, các vùng địa lý trong nội thành không
có sự khác biệt về lượng đạm sử dụng, chứng tỏ
mức sống và cách chăm sóc con của các bà mẹ
nội thành TPHCM tương đối đồng nhất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 17
Số lượng đạm sử dụng cho trẻ được cho là
có thể khác nhau ở những bà mẹ có trình độ văn
hóa khác nhau. Đây là lứa tuổi mẹ còn cân đong
đo đếm thức ăn của trẻ chu đáo, do đó quan
niệm và kiến thức của mẹ ảnh hưởng trực tiếp
đến lượng đạm mẹ cho con ăn. Nghề nghiệp của
mẹ có thể ảnh hưởng đến lượng đạm cho trẻ
mầm non do ở tuổi này được ăn cùng bữa, cùng
thức ăn với người lớn nhưng chịu ảnh hưởng
nhiều bởi sự chăm sóc của mẹ, tùy nghề nghiệp
mà mẹ có thời gian và quan tâm khác nhau, do
đó cho con ăn đạm nhiều hay ít. Tuy nhiên,
chúng tôi chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩa ở
đây, có thể giải thích là đặc thù công việc và
nhận thức của các bà mẹ ở thành phố Hồ Chí
Minh tương đối đồng nhất hoặc do hiệu quả của
công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe ở trẻ
em tại nội thành thành phố Hồ Chí Minh làm
khá tốt, đến được với người dân như nhau.
Số trẻ trong gia đình và số thế hệ trong gia
đình không ảnh hưởng đến số lượng đạm mà
trẻ ăn hàng ngày. Điều này có thể giải thích là
do các gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh có
điều kiện kinh tế tương đối tốt nên cho phép
cung cấp đủ lượng đạm cho các thành viên
trong gia đình, không phải do đông người phải
chia sẻ bớt mà bị giảm lượng thức ăn giàu đạm.
Trong nghiên cứu này, ở nhóm tuổi 2 và 3,
chúng ta thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
chiều cao trung bình và số lượng đạm ăn vào.
Chiều cao của trẻ chịu ảnh hưởng nhiều bởi chế
độ dinh dưỡng, trong đó có vai trò của chất
đạm. Đủ đạm giúp trẻ cao hơn. Thừa hay thiếu
đạm đều làm chiều cao không tốt. Thiếu đạm
hay liên quan đến những trẻ kén ăn nên mức
năng lượng và khóang chất thường bị thiếu hụt,
ảnh hưởng tiêu cực trên chiều cao. Quá dư đạm
làm hạn chế sự hấp thu canxi tại ruột, quá trình
này diễn tiến lâu dài sẽ làm cho trẻ phát triển
chiều cao hạn chế hơn chế độ đủ đạm, do đó
những trẻ có thói quen ăn quá dư đạm (> 200 g
thức ăn giàu đạm/ngày) có chiều cao trung bình
kém hơn. Tuy nhiên, ở nhóm tuổi 2, nhóm ăn dư
đạm vẫn có chiều cao tốt hơn, có thể do những
bé này có thời gian ăn dư đạm chưa đủ lâu gây
mất canxi nhiều, hoặc do trẻ ăn dư đạm cũng là
trẻ uống sữa và ăn các thức ăn khác nhiều hơn,
do đó phát triển thể chất tốt hơn. Cũng có thể
kết quả này là do số trẻ có tháng tuổi cao hơn
tập trung trong nhóm ăn dư đạm nên có chiều
cao trung bình vượt hơn. Kết quả này cần được
kiểm chứng thêm với thiết kế nghiên cứu tốt
hơn và dân số phân tầng nhiều hơn.
Trẻ ăn từ 3‐5 lọai thức ăn giàu đạm hoặc ăn
như người lớn được xem là có khả năng ăn đa
dạng thức ăn. Trong nghiên cứu, trên 80% trẻ
mầm non có thói quen ăn đa dạng thực phẩm
giàu đạm và ăn như người lớn. Điều này chứng
tỏ trẻ mầm non có thể ăn chung với gia đình và
thói quen ăn uống của người lớn sẽ có ảnh
hưởng rất nhiều đến sự hình thành khẩu vị của
trẻ sau này, từ đó có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ
thừa cân béo phì về sau. Do đó, người lớn trong
gia đình nên ăn đa dạng thực phẩm và tập cho
trẻ từ nhỏ sẽ giúp bé đỡ kén ăn về sau.
Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 10% trẻ chỉ ăn 1‐
2 loại thức ăn giàu đạm, khoảng 10% chỉ ăn
nước mà nhả bã và 1‐1,5% không ăn thức ăn
giàu đạm. Đây là những trẻ có nguy cơ thiếu hụt
chất dinh dưỡng và có thể suy dinh dưỡng nếu
không được điều chỉnh sớm hoặc không được
bổ sung thêm các chất dinh dưỡng cần thiết.
Nghề nghiệp mẹ, nghề nghiệp cha, số trẻ
trong gia đình (khi kiểm tra sự khác biệt theo
nhóm tuổi), nơi ở không ảnh hưởng đến mức độ
đa dạng về chất đạm trong khẩu phần. Nhóm
tuổi nhỏ có tỉ lệ ăn nước nhả bả cao nhất và
nhóm tuổi lớn có tỉ lệ ăn như người lớn cao nhất.
Như vậy với nhóm trẻ nhỏ cần chọn những thức
ăn có độ lợn cợn vừa phải và cần chế biến tương
đối mềm để trẻ có thể nhai và ăn hết phần thức
ăn giàu đạm trong khẩu phần.
Các món ăn giàu đạm mà trẻ thích nhất ở tất
cả trẻ mầm non là trứng, thịt, hải sản. Trứng có
giá trị sinh học cao, giàu đạm cũng như béo, bổ
dưỡng đối với trẻ và được trẻ ưa thích.
Cholesterol trong lòng đỏ trứng phù hợp với
nhu cầu myelin hóa dây thần kinh ở trẻ, đồng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 18
thời cholin trong trứng cao giúp trẻ phát triển tốt
thần kinh vận động và khả năng ghi nhớ. Khi trẻ
6 tuổi, trọng lượng não mới bằng của người lớn,
nhưng quá trình myelin hóa dây thần kinh vẫn
tiếp diễn. Như vậy trong chế độ ăn của trẻ có thể
sử dụng trứng thường xuyên hơn, nhất là trẻ
suy dinh dưỡng và trẻ dưới 2 tuổi, trừ ở những
trẻ béo phì sau 2 tuổi vì hàm lượng chất béo cao
trong lòng đỏ trứng và não đã đạt được khoảng
80% trọng lượng so với người lớn. Hiện nay, các
phụ huynh có sai lầm là sử dụng khuyến cáo
dành cho người lớn về số lượng trứng nên ăn
trong tuần (3‐4 trứng/ tuần theo Hiệp hội tim
mạch Hoa kỳ) nên thường giới hạn trứng cho trẻ
ăn. Cá và hải sản là thức ăn tốt cho sức khỏe và
có khoảng 60% trẻ thích.Trong nghiên cứu của
các tác giả người Nhật, lượng cá dân chúng ở
Nhật sử dụng nhiều hơn hẳn so với các nước
Âu, Mỹ và cả Việt Nam, và đây là yếu tố có lợi
cho sức khỏe, hình thành do được ăn cá thường
xuyên từ nhỏ. Để tập cho trẻ ăn cá, cha mẹ cần
cho trẻ làm quen từ lứa tuổi mầm non và sớm
hơn nữa. Số lượng trẻ thích các thức ăn giàu
đạm khác như từ đậu đỗ, hải sản khá cao, chứng
tỏ trẻ có khả năng ăn nhiều loại. Đây cũng là
thức ăn tốt cho trẻ. Các loại thịt nguội không tốt
đối với trẻ, cần được hạn chế, mặc dù hơn nửa
số trẻ khảo sát thích ăn thịt nguội như xúc xích.
Sữa là thức ăn giàu đạm quý, đồng thời giàu
canxi và khoáng chất giúp cho trẻ phát triển tốt.
Trong nghiên cứu đa số trẻ mầm non sử dụng
đủ lượng sữa được khuyến cáo (450‐600
ml/ngày). Kết quả khảo sát cho thấy ý thức của
cha mẹ tại thành phố Hồ Chí Minh trong việc
cung cấp sữa cho trẻ đã được cải thiện (1,7), giúp
trẻ có được nguồn dinh dưỡng phù hợp và dễ
hấp thu, nhờ vậy chiều cao trung bình của trẻ
em khu vực miền Đông Nam Bộ, bao gồm thành
phố Hồ Chí Minh tốt nhất và tỉ lệ trẻ thấp còi
thấp nhất trong cả nước. Xu hướng sử dụng
đạm của người Việt nam gần đây cũng đang
thiên về hướng sử dụng đạm thịt, tăng gấp 6 lần
từ năm 2000‐2010 (84 g/người/ngày so với trước
đây), trong khi đạm từ trứng sữa không tăng
nhiều (32,3 g/ngày). Lượng sữa 1 trẻ em Việt
Nam 25 tháng ‐ 6 tuổi năm 2000 sử dụng trung
bình là 14 lít/năm, bằng trẻ em các nước đã phát
triển dùng trong ½ ‐1 tháng. Do đó, khẩu phần
ăn trung bình của trẻ chỉ cung cấp khoảng 256
mg Canxi/ ngày, không đủ nhu cầu khuyến
nghị, do đó Việt Nam nằm trong tốp các nước có
tỉ lệ thấp còi nhiều nhất trên thế giới. Khuyến
cáo tăng trứng, sữa trong khẩu phần ăn của trẻ
là một biện pháp giúp cải thiện chiều cao nói
chung.
Trong khảo sát này, vẫn còn khoảng 5‐9%
trẻ lứa tuổi mần non tại nội thành TP.HCM
dùng quá ít sữa và quá dư sữa. Những trẻ này
cần được tham vấn dinh dưỡng thêm để điều
chỉnh chế độ ăn phù hợp hơn. Các nghiên cứu
trước cho thấy trẻ sử dụng dưới 200 ml sữa/
ngày sẽ có chiều cao thấp hơn. Quá dư sữa có
thể làm trẻ béo phì hoặc ảnh hưởng chế độ ăn
đặc, gây suy dinh dưỡng ở trẻ.
KẾT LUẬN
Đa số trẻ ăn đủ đạm (khoảng 65‐70%),
nhưng có khuynh hướng nhiều và dư (>20%).
Không có khác biệt về số lượng đạm sử
dụng với nơi cư trú, số trẻ và số thế hệ trong
cùng gia đình. Trình độ văn hóa của mẹ ảnh
hưởng đến số lượng đạm ở trẻ 18‐36 tháng, nghề
nghiệp của mẹ hưởng đến số lượng đạm ở trẻ
37‐48 tháng.
Lượng đạm sử dụng có ảnh hưởng đến sự
phát triển chiều cao của nhóm trẻ 37‐60 tháng
tuổi.
Trên 80% trẻ mầm non có thói quen ăn đa
dạng thực phẩm giàu đạm và ăn như người lớn.
10% trẻ chỉ ăn 1‐2 loại thức ăn giàu đạm,
khoảng 10% chỉ ăn nước mà nhả bã và 1‐1,5%
không ăn thức ăn giàu đạm.
Nghề nghiệp mẹ, nghề nghiệp cha, số trẻ
trong gia đình (khi kiểm tra sự khác biệt theo
nhóm tuổi), nơi ở không ảnh hưởng đến mức độ
đa dạng về chất đạm trong khẩu phần.
Trẻ thích nhất là trứng, thịt, hải sản.
Đa số trẻ mầm non sử dụng đủ lượng sữa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 19
được khuyến cáo (450‐600 ml/ngày).
Khoảng 5‐9% dùng quá ít sữa và quá dư sữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huynh DT, Dibley MJ, Sibbritt DW, Tran HT (2008). Energy
and macronutrient intakes in preschool children in urban areas
of Ho Chi Minh City, Vietnam. BMC Pediatr. Oct 18;8, pp.44.
2. Lê Thi Kha Nguyên, Dương Công Hoàng Như Quỳnh, Nguyễn
Thị Thu Hậu (2010). Thói quen ăn uống, vận động, yếu tố gia
đình của trẻ béo phì. Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, tập 14,
phụ bản của số 4, tr. 212‐217.
3. Mai Thị Mỹ Thiện, Lê Nữ Thanh Uyên, Trương Trọng Hoàng
(2013). Tỉ lệ thừa cân béo phì và một số yếu tố liên quan ở trẻ
mầm non nội và ngoại thành thành phố HCM năm 2010. Tạp
chí Dinh dưỡng và thực phẩm, tập 9, số 3. tr 33‐40.
4. Phí Thị Nguyệt Thanh (2004). Nghiên cứu tình trạng thừa cân ‐
béo phì ở trẻ 4‐6 tuổi nội thành Hà Nội và thử nghiệm một giải
pháp can thiệp tại cộng đồng. Báo cáo đề tài nhánh cấp nhà
nước KC100501. Đại học Y Hà Nội.
5. Tổng cục thống kê (2009). Điều tra dân số Việt Nam.
6. Trần Thắng, Lê Thị Hợp (2012). Khẩu phần ăn bổ sung của trẻ
13‐18 tháng tuổi ở một phường nội thành và một xã ngoại
thành Hà Nội. Tạp Chí Dinh dưỡng và thực phẩm, tập 8, số 4. tr
48‐55.
7. Vũ Quỳnh Hoa, Phạm Ngọc Oanh, Trần Thị Minh Hạnh, Đỗ
Thị Ngọc Diệp (2012). Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5
tuổi tại 2 quận nội thành và vùng ven TP.HCM năm 2010. Tạp
chí Dinh dưỡng và thực phẩm, tập 8, số 3, tr 59‐67.
Ngày nhận bài báo 04‐08‐2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 08‐11‐2013.
Ngày bài báo được đăng: 16‐12‐2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_su_dung_thuc_an_giau_dam_o_tre_em_lua_tuoi_mam_non.pdf