Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi

Khám và điều trị mất ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi các lí do nhập viện rất đa dạng trong nhóm mất ngủ nhưng lí do đến khám vì mất ngủ chỉ chiếm 19,9% và chỉ có 5% trước đó đã có khám chuyên khoa về RLGN. So sánh với các nghiên cứu khác Kết quả này tương đối cao hơn so với một nghiên cứu về chứng mất ngủ ở Trung Quốc của Yu-tao Xiang, MD, PhD(16) chỉ có 5,4% những bệnh nhân bị mất ngủ báo cáo triệu chứng này với Bác sỹ thực hành và cũng chỉ có 2,1% đến khám với các chuyên gia về sức khỏe tâm thần. Tỉ lệ này cũng rất thấp trong nghiên cứu của Ohayon MM(12) là 6,8%. Trong một nghiên cứu ở Mỹ của PersonNJ, Johnson LL, Nahin RL(13) thì tỉ lệ báo cáo về chứng mất ngủ với Bác sỹ là 17,4%, tương đương với nghiên cứu của chúng tôi. Theo một nghiên cứu được công bố ở tạp chí Lão khoa của Mỹ thực hiện trên 1.503 người bệnh từ 60 tuổi trở lên thì có đến 69% bệnh nhân có ít nhất một lần, 49% có hai hoặc nhiều hơn số lần phàn nàn về giấc ngủ và 45% số bệnh nhân nói rằng họ thường xuyên khó ngủ. Và mặc dù những bệnh nhân cao tuổi có phiền toái về giấc ngủ chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ có 19% số lần phàn nàn của họ được các Bác Sỹ ghi chép trên biểu đồ theo dõi bệnh. Theo tác giả Karthyn Reid, phó giáo sư Thần kinh trường đại học y ở miền bắc Feinberg nói:“Các Bác sỹ có thể cho rằng việc hỏi bệnh nhân về giấc ngủ là điều không cần thiết, theo họ những trục trặc đó là vấn đề bình thường của tuổi tác và gần như không thể làm gì nhiều để cải thiện”. Nhưng thực tế thì những vấn đề về giấc ngủ như giấc ngủ không sâu- khuynh hướng xảy ra do tuổi tác hay giấc ngủ không ngon không phải là điều không thể tránh được của tuổi tác. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy trong số những người già có sức khỏe tốt, chỉ có 1% có khó khăn về giấc ngủ

pdf8 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm về tình trạng mất ngủ ở người cao tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Lão Khoa 106 ĐẶC ĐIỂM VỀ TÌNH TRẠNG MẤT NGỦ Ở NGƯỜI CAO TUỔI Đỗ Thị Xuân Hương*, Nguyễn Minh Đức**, Nguyễn Văn Trí **, Ngô Tích Linh *** TOM TẮT Mở đầu: Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi.Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải đạt chất lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức giấc, ít mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít buồn ngủ ban ngày đồng thời hoạt động ban ngày có hiệu quả. Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm giấc ngủ của người cao tuổi. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng. Có 306 bệnh nhân tham gia nghiên cứu phân thành 2 nhóm: nhóm mất ngủ (161) và nhóm chứng (145). Các đối tượng tham gia đều được điều tra đầy đủ như nhau về các đặc điểm dịch tể học, các bệnh lý nội khoa, tâm thần, các yếu tố môi trường, các thói quen cá nhân và các đặc điểm của giấc ngủ của họ. Kết quả: Mất ngủ mãn tính, đa số từ 1 đến 5 năm. Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì giấc ngủ, tiếp đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung bình 75 phút mới đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung bình ngủ được 4 giờ 30 phút. Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, 26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 17,4% gặp khó khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ. Kết luận: Ở người cao tuổi đa số mất ngủ mãn tính, mặc dù mất ngủ nhưng đa số họ cảm giác bình thường, chỉ số ít cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, có những lúc ngủ thiếp ban ngày và gặp khó khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ. Từ khóa: mất ngủ, người cao tuổi. ABSTRACT THE CHARACTERISTICS OF INSOMNIA STATE IN THE ELDERLY Do Thi Xuan Huong, Nguyen Minh Duc, Nguyen Van Tri, Ngo Tich Linh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 106 - 113 Introduction: Today, insomnia has been acknowledged as one of the causes affecting the health and quality of life of the elderly. To determine what is enough sleep, quality of sleep means to have sufficient quantity, be less awaken, dreaming and be efficient which is less daytime sleepiness and effective daytime activities. The objective of this study is to investigate the sleep characteristics of the elderly. Research methodology: A cross-sectional study. There are 306 patients in the study divided into two groups: insomnia (161) and control group (145). The participants were equally under full investigation of the epidemiological characteristics, other medical conditions, mental, environmental factors, personal habits and characteristics of their sleep. Results: Chronic insomnia is mostly from 1 to 5 years. Quality of the sleep: the majority is difficult to * BV Nguyễn Tri Phương,** Bộ Môn Lão Khoa, ĐHYD TP. HCM,*** Bộ Môn Tâm Thần, ĐHYD TP.HCM Tác giả liên lạc: BS Đỗ Thị Xuân Hương ĐT: 0903883573 Email: thxuanh@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 107 maintain sleep, the next is insomnia at the beginning of the sleep and insomnia in the end of the sleep is at least, the patients averagely go to bed at 22 o'clock, take about 75 minutes before falling asleep, awake 3-4 times a night, then take 30 minutes to be back to sleep, wake up in the morning at around 4 am and have the duration of sleep per night of 4 hours and 30 minutes on average. - Sleep efficiency: Although insomnia happens, 82.6% of them feel normal, only 16.8% also feel sleepy after waking in the morning, 26.7% have times falling asleep during the day and 17.4% have difficulty in dealing with the daily affair because of insomnia. Conclusion: In most elderly people, chronic insomnia happens at majority, although there is insomnia, most of them feel normal, only small number also feel sleepy after waking in the morning, sometimes day-time fall asleep and feel difficult in their daily work because of the consequences of insomnia. Key words: insomnia, elderly. ĐẶT VẤN ĐỀ Giấc ngủ là trạng thái sinh lý của cơ thể nhằm cân bằng trở lại các yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Giấc ngủ có đặc trưng là nhịp điệu ngày/ đêm, đảm bảo cho sự phục hồi các chức năng của cơ thể. Hầu hết những người cao tuổi khi đến phòng khám bệnh đều phàn nàn với bác sỹ họ bị khó ngủ hoặc mất ngủ. Ngày nay, chứng mất ngủ đã được thừa nhận là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng sống của người cao tuổi. Để xác định thế nào là ngủ đủ, giấc ngủ phải đạt chất lượng tức là đủ về số lượng, ít bị thức giấc và mộng mị và phải đạt hiệu suất tức là ít buồn ngủ ban ngày đồng thời hoạt động ban ngày có hiệu quả Mục tiêu Mục tiêu bài này nghiên cứu về đặc điểm giấc ngủ của người cao tuổi bị mất ngủ. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Dân số mục tiêu Tất cả bệnh nhân cao tuổi ≥ 60 tuổi có mất ngủ và không mất ngủ đến khám và điều trị nội ngoại trú tại BV Thống Nhất và BV Nguyễn Tri Phương từ tháng 5 năm 2009 đến tháng 5 năm 2010 vì những nguyên nhân khác nhau. Tiêu chuẩn chọn mẫu Nhóm bệnh: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) có vấn đề về mất ngủ đồng ý tham gia nghiên cứu: Thời gian đi vào giấc ngủ kéo dài trên 30 phút. Trong giấc ngủ, thời gian tỉnh giấc nhiều lần, thời gian tổng cộng trên 30 phút. Thức dậy buổi sáng quá sớm. Cảm giác mệt mỏi sau khi thức dậy và ngủ ngày quá nhiều. Những rối loạn nầy xảy ra ít nhất 3 lần trong 1 tuần, kéo dài ít nhất 1 tháng, gây ra những khó chịu và biến chứng trong ngày. Khó duy trì tình trạng thức ngủ hay chu kỳ thức ngủ hằng định. Có các vấn đề khác gây cản trở giấc ngủ. Nhóm chứng: Tất cả bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) có vấn đề về nội khoa, tâm thần...đến BV khám và điều trị nhưng không bị mất ngủ. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân có rối loạn tri giác hoặc hôn mê. Bệnh nhân bệnh tâm thần thuộc nhóm loạn thần đã được chẩn đoán xác định trước đó và đang điều trị. Cỡ mẫu Được tính theo công thức sau:              2 1 1 1 1 2 21 /2 1 2 1 2 Z 2P 1 P Z P 1 P P 1 P n P P             n = 121 người cho mỗi nhóm bệnh và chứng. Thực tế chúng tôi thu thập được 161 BN nhóm mất ngủ và 145 BN nhóm chứng. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Lão Khoa 108 Nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Trực tiếp thu thập dữ liệu từ bệnh nhân đến khám tại Khoa Khám bệnh, Khoa Lão, các Khoa Nội Tổng hợp BV Nguyễn Tri Phương và BV Thống Nhất với các tiêu chuẩn chọn bệnh và các tiêu chuẩn loại trừ nêu trên. Các BN được chọn vào mẫu nghiên cứu sẽ được: * Khám lâm sàng đánh giá tình trạng mất ngủ và không mất ngủ. * Thực hiện bảng câu hỏi khảo sát về RLGN và các thang điểm đánh giá tình trạng tâm thần Hạn chế của nghiên cứu này là không thực hiện được đồng loạt các test chuyên biệt về giấc ngủ như đa miên đồ (PSG), test ghi nhận thời gian tiềm khởi đầu giấc ngủ (MSLT) để xác định chẩn đoán và mức độ nghiêm trọng của RLGN. Sau đó nhóm BN này được tiếp tục tái khám và theo dỏi ít nhất 2 lần sau đó để xác định tình trạng mất ngủ. Công cụ thu thập số liệu * Bảng câu hỏi khảo sát về RLGN. * Thang buồn ngủ EPWORTH. Phương pháp xử lý số liệu Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0 for Windows. KẾT QUẢ Đặc điểm về giấc ngủ Thời gian mất ngủ Bảng 1: Thời gian mất ngủ Thời gian mất ngủ BN Tỷ lệ % Dưới 1 năm 24 14,9 1 năm – 5 năm 86 53,4 Trên 5 năm 50 31,1 Tổng cộng 160 100 Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ) Bảng 2: Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ) Đặc điểm về kiểu mất ngủ Tỉ lệ (%) Thời gian ngủ đêm < 6 giờ 161 (100) Mất ngủ đầu giấc (thời gian vào giấc ngủ > 30’) 133 (82,6) Khó duy trì giấc ngủ (hay thức lúc ngủ) 140 (87,0) Mất ngủ cuối giấc (Thức giấc sớm buổi sáng) 111 (68,9) Bảng 3. Số loại mất ngủ trên cùng một bệnh nhân Số loại mất ngủ BN Tỷ lệ % 1 loại 15 9,3 2 loại 69 42,9 3 loại 77 47,8 Tổng cộng 161 100 Đặc điểm về chất lượng và hiệu suất giấc ngủ Bảng 4. Chất lượng giấc ngủ Thời gian Nhóm NC Nhóm chứng P Thời điểm đi ngủ 22,03  1,06 21,17  0,95 < 0,001 Đi ngủ cùng thời điểm hàng đêm 99 (60,4%) 65 (39,6%) 0,004 Thời gian đi vào giấc ngủ (phút) 74,81  47,55 13,34  3,01 < 0,001 Số lần thức dậy mỗi tối 3,51  1,41 1,70  0,45 < 0,001 Dễ ngủ lại 21 (13,4) 141 (97,2) < 0,001 Thời gian đi ngủ lại (phút) 29,71  13,24 7,96  3,84 < 0,001 Thời điểm thức giấc buổi sáng (giờ) 4,19  0,99 5,37  0,49 < 0,001 Thời gian trung bình của giấc ngủ/1 đêm 3,98  0,77 6,41  0,53 < 0,001 Bảng 5: Hiệu suất giấc ngủ Thời gian Nhóm P NC % Chứng % Cảm giác khi thức dậy buổi sáng: < 0,001 - Khỏe 1 (0,6) 1 (0,7) - Còn buồn ngủ 27 (16,8) 4 (2,8) - Bình thường 133 (82,6) 140 (96,6) Các rối loạn khác trong giấc ngủ: - Mộng du 0 1 (0,7) 0,291 - Hoảng sợ ban đêm 3 (1,9) 0 0,099 - Ác mộng 12 (7,5) 0 0,001 - Rung giật cơ về đêm 2 (1,2) 0 0,178 Ngủ thiếp ban ngày 43 (26,7) 7 (4,8) < 0,001 Mất tập trung làm việc 18(11,3) 3(2,1) 0,002 Khó khăn trong công việc hàng ngày 28 (17,4) 6 (4,1) < 0,001 Bảng 6: Buồn ngủ ban ngày (Thang EPWORTH) Buồn ngủ ban ngày Nhóm NC Nhóm chứng BN Tỷ lệ % BN Tỷ lệ % Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 109 Không 133 83,1 130 89,7 Có 27 16,9 15 10,3 Tổng 161 100,0 145 100,0 2 = 2,732, p = 0,098 Bảng 7: Mối liên quan giữa BMI và mất ngủ BMI Nhóm p OR (95%KTC) NC (%) Chứng (%) Béo phì 21 (13) 34 (23,4) 0,018 0,49 (0,27-0,9) Bình thường 140 (87) 111 (76,6) Bảng 8: Mối liên quan giữa BMI và ngủ ngày quá độ BMI Ngủ ngày quá độ p OR (95%KTC) Không% Có % Béo phì 42(16) 13(31) 0,019 0,424.(0,2 0-0,88) Bình thường 221(84) 29(69) Những rối loạn xảy ra trong lúc ngủ Bảng 9: Các rối loạn trong lúc ngủ Rối loạn Nhóm P OR (95%KTC) NC Chứng Ngáy 45 (28,0) 38 (26,2) 0,732 1,09 (0,66 - 1,81) Ngưng thở 3 (1,9) 0 0,099 1,92 (1,72 – 2,14) Ngộp thở 49 (30,4) 14 (9,7) < 0,001 4,094 (2,15 – 7,81) Nhức đầu buổi sáng 57 (35,4) 3 (2,1) < 0,001 25,94 (7,91 – 85,12) Khó khăn về tình dục 3 (1,9) 0 0,099 1,92 (1,72 – 2,14) Tiểu đêm > 2 lần 130 (80,7) 5 (3,4) < 0,001 117,42 (44,32 – 311,07) Xoay trở nhiều 133 (82,6) 16 (11,0) < 0,001 38,29 (19,79 – 74,12) Tê rần hai chân 109 (67,7) 57 (39,3) < 0,001 3,24 (2,02 – 5,17) Đá chân 19 (11,8) 11 (7,6) 0,216 1,63 (0,75 – 3,55) CG không cử động được 23 (14,3) 30 (20,7) 0,139 0,64 (0,35 – 1,16) CG nóng rát thượng vị 119 (73,9) 23 (15,9) < 0,001 15,03 (8,52 – 26,51) CG đau 108 (67,1) 52 (35,9) < 0,001 3,64 (2,27 – 5,84) Ảo giác, chiêm bao 16 (9,9) 21 (14,5) 0,223 0,65 (0,33 – 1,30) Khám và điều trị mất ngủ Bảng 10: Nguyên nhân đến khám vì mất ngủ (nhóm mất ngủ) Đặc điểm Có Không N (%) N (%) Đến khám vì mất ngủ 32 (19,9) 129 (80,1) Đã khám chuyên khoa về rối loạn giấc ngủ 8 (5,0) 153 (95,0) Bảng 11: Số bệnh nhân có điều trị mất ngủ (nhóm mất ngủ) Đặc điểm Có N (%) Không N (%) Điều trị mất ngủ 44 (27,3) 117 (72,7) Sử dụng thuốc ngủ liên tục 24 (15,0) 136 (85,0) BÀN LUẬN-KẾT LUẬN Đặc điểm về giấc ngủ Thời gian bị mất ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân mất ngủ từ 1 năm đến 5 năm 53,4% chiếm tỷ lệ cao nhất, mất ngủ dưới 1 năm chỉ chiếm 14,9% và mất ngủ trên 5 năm chiếm tỷ lệ không nhỏ 31,1%. Thời gian mất ngủ ít nhất là 2 tháng và dài nhất là 20 năm. Thời gian này cũng tương tự các báo cáo nghiên cứu khác: Nghiên cứu của F. Holagen & cs(4) (Germany) hơn 80% số bệnh nhân trong lô nghiên cứu bị mất ngủ từ 1 đến 5 năm hoặc hơn nữa. Nghiên cứu của Pearson NJ & cs(13) (Mỹ) có 17,4% mất ngủ kéo dài 1 năm. Nghiên cứu của Morrin CM & cs(11) (Canada) có đến 74% mất ngủ ít nhất 1 năm, 46% mất ngủ kéo dài dai dẳng 3 năm. Đặc điểm về kiểu mất ngủ (nhóm mất ngủ) Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, tất cả đều có thời gian ngủ một đêm ít hơn 6 giờ.Mô hình kiểu mất ngủ, các bệnh nhân có kiểu mất ngủ đầu giấc (82,6%), cao nhất là khó duy trì giấc ngủ (87%) và thấp nhất là mất ngủ cuối giấc (68,9%). So sánh với các nghiên cứu khác Mô hình này tương tự mô hình nghiên cứu của Kim K & cs(6) (Nhật) tỉ lệ khó duy trì giấc ngủ cao nhất (15%), kế đến là khó đi vào giấc ngủ (8,3%) và thấp nhất là khó ngủ cuối giấc (8%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Lão Khoa 110 Nghiên cứu của Gílason T & cs(3), tỉ lệ khó duy trì giấc ngủ cao nhất (37% ở nam, 30% ở nữ), khó khởi đầu giấc ngủ 9,6% và khó ngủ cuối giấc 16,7%. Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12), khó khởi đầu giấc ngủ (4%) khó duy trì giấc ngủ (11,5%), và mất ngủ cuối giấc 1,8%. Nghiên cứu của Li RH ở Trung Quốc(8) cũng cho kết quả tương tự là khó khởi đầu giấc ngủ 4,5%, khó duy trì giấc ngủ 6,9% và mất ngủ cuối giấc 4%. Nghiên cứu của Yu –Tao Xiang & cs(16) Trung quốc các con số tương ứng là 7%, 8% và 4,9%. Ngược lại, trong nghiên cứu của Mohamed M & cs(10) ở người cao tuổi Ai Cập thì tỉ lệ khó bắt đầu giấc ngủ chiếm cao nhất 65%, khó duy trì giấc ngủ 50,8% và mất ngủ cuối giấc chỉ chiếm 28,2%. Qua các nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng ở Việt Nam cũng như ở các nước Châu Á đa số bệnh nhân bị khó duy trì giấc ngủ, tiếp đến là khó khởi đầu giấc ngủ và ít nhất là mất ngủ cuối giấc. Nhận xét này cũng giúp các Bác sỹ lâm sàng có cơ sở chọn loại thuốc ngủ nào phù hợp với loại mất ngủ của bệnh nhân của mình. Số loại mất ngủ trên một bệnh nhân Trong nghiên cứu của chúng tôi có đến 47,8% bệnh nhân mất ngủ bị cùng lúc 3 loại mất ngủ (mất ngủ đầu giấc, khó duy trì giấc ngủ, mất ngủ cuối giấc), 42,9% bị 2 loại mất ngủ cùng lúc và chỉ 9,3% bị 1 loại mất ngủ. So sánh với các nghiên cứu khác Trong một nghiên cứu về mất ngủ ở dân số chung Trung Quốc của Yu- Tao Xiang & cs(16) thì cũng cho một tỷ lệ tương ứng theo thứ tự nhưng con số thì thấp hơn 4% bị 3 loại mất ngủ cùng lúc, 2,9% bị 2 loại và 2,4% bị 1 loại mất ngủ. Tỷ lệ thấp này là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi là người cao tuổi, lấy trong bệnh viện, còn mẫu nghiên cứu của Yu- Tao Xiang là dân số chung. Ngược lại, trong một nghiên cứu ở Mỹ(16), tỷ lệ có phần khác biệt về thứ tự so với nghiên cứu của chúng tôi và Yu- Tao Xiang là 7,4% mắc 3 loại, 9% mắc 2 loại mất ngủ cùng lúc và cao nhất 12,8% mắc chỉ 1 loại mất ngủ. Tỷ lệ này trái ngược với các nước Châu Á có lẽ do ở Mỹ người dân quan tâm đến giấc ngủ nhiều hơn không để mất ngủ tiến triển từ 1 đến 2 đến 3 loại cùng lúc. Qua nghiên cứu này, ta thấy ở người cao tuổi khả năng mắc cùng lúc 3 loại và 2 loại mất ngủ rất cao, tỷ lệ mắc 1 loại mất ngủ đơn độc ít hơn nhiều, từ đó có những biện pháp can thiệp và thuốc ngủ phù hợp. Đặc điểm về chất lượng và hiệu suất giấc ngủ Chất lượng giấc ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi: Về chất lượng giấc ngủ, trong nhóm mất ngủ trung bình đi ngủ lúc 22 giờ, 60% trong số họ đi ngủ cùng thời điểm hàng đêm, phải mất khoảng 75 phút mới ngủ được, trung bình mỗi đêm thức dậy 3-4 lần, sau khi thức giấc khoảng 30 phút sau mới ngủ lại được, thức dậy buổi sáng khá sớm lúc 4 giờ và tính trung bình mỗi đêm ngủ được 4 giờ - 4 giờ 30 phút. Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê p < 0,001. So sánh với các nghiên cứu khác Nghiên cứu của Liu X, Liu L(9) về các thói quen khi đi ngủ và mất ngủ ở người cao tuổi Trung Quốc đã nhận xét rằng thời điểm đi ngủ (lên giường ngủ) của họ là 21: 18 ± 2,2 sớm hơn so với nghiên cứu của chúng tôi 22: 03±1,06 và thời điểm thức dậy buổi sáng là 5: 42 ± 1 trễ hơn so với nghiên cứu của chúng tôi là 4: 19±0,99. Hiệu suất giấc ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi Về hiệu suất ngủ, trong nhóm mất ngủ đa số (82,6%) có cảm giác bình thường sau khi thức Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 111 dậy buổi sáng, chỉ 16,8% còn cảm giác buồn ngủ; 26,7% có ngủ thiếp ban ngày, 11,3% bị mất tập trung khi làm việc và 17,4% gặp khó khăn trong công việc hàng ngày. Các rối loạn xảy ra trong giấc ngủ chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ: mộng du 0%, hoảng sợ 1,9%, ác mộng 7,5%, rung giật cơ về đêm 1,2%. Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê p< 0,001 ở các điểm trên, trừ hoảng sợ và rung giật cơ về đêm. So sánh với nghiên cứu của các tác giả khác Nghiên của Gíslason T & cs(3) tỉ lệ ngủ thiếp ban ngày là 50% ở nam và 31% ở nữ. Tương tự, nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) tỉ lệ này là 50%. Tỉ lệ này thấp hơn trong nghiên cứu của Liu X, Liu L(9) ở Trung Quốc là 44,2% ở nam và 28% ở nữ (OR=1,5) và cũng nghiên cứu này ghi nhận 8,9% những bệnh nhân mất ngủ có những hậu quả ban ngày đáng kể. Nghiên cứu của Foley DJ & cs(2) 7%-15% trong số bệnh nhân mất ngủ hiếm khi hoặc không bao giờ có cảm giác khỏe khoắn sau thức dậy vào buổi sáng. Nghiên của Kim K & cs(7) ghi nhận những than phiền về tâm thể và tâm lý có liên quan với mất ngủ gây khó khăn cho công việc ban ngày: cảm giác yếu đuối (fatigue) (31,4%, OR=1,7), cáu gắt (OR=1,4), mất tập trung trong công việc (OR=1,8). Nghiên cứu của Ohayon MM, Hong SC(12) có đến 50% bệnh nhân mất ngủ có hậu quả ban ngày đáng kể và 20% có những hậu quả trung bình và nhẹ. Nghiên cứu của Zailinawati A & cs(16) ghi nhận rằng những bệnh nhân mất ngủ có tần suất cao cảm giác chán nản (12,7%), mất tập trung (19,1%), trí nhớ kém (9,2%), giảm năng suất làm việc (6,4%), kiệt sức (17,2%) và tình trạng sức khỏe kém (40,9%) với p<0,05. Mất ngủ kéo dài sẽ dẫn đến giảm trí nhớ, khó tập trung chú ý, giảm sút khả năng lao động và hậu quả tất yếu là giảm tính tích cực trong cuộc sống, hiệu quả lao động thấp và làm giảm chất lượng sống. Ngoài ra, mất ngủ còn có nguy cơ phát sinh một số bệnh hoặc làm nặng thêm bệnh đang mắc. Thang EPWORTH. Mối liên quan giữa mất ngủ và thang EPWORTH. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về buồn ngủ ban ngày quá độ giữa 2 nhóm mất ngủ (16,9%) và nhóm chứng (10,3%) với p=0,098. So sánh với các nghiên cứu khác Nhưng nếu tính tỉ lệ thì trong một nghiên cứu ở Malaysia của ZailinawaitiA, Ariff K, Nurjahan M, Teng C(16) tỉ lệ ngủ ngày quá độ (theo thang điểm Epworth) là 22,2% cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi (16,9%), lý do có lẽ do trong nhóm này sử dụng thuốc an thần (9,9%) thấp hơn trong nhóm của chúng tôi (27,3%), điều này dẫn đến mất ngủ ban đêm và ngủ ngày quá nhiều. Ngược lại, trong nghiên cứu của Sardar Ijlal Balar & cs(15) thì tỉ lệ ngủ ngày quá độ là 8,9% thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi và hiện tượng này được ghi nhận có liên quan đến rối loạn hô hấp về đêm, trầm cảm, bệnh Parkinson và sử dụng Digital. Một nghiên cứu về ngủ ngày quá độ trong dân số chung của Kaneita Y & cs(5) (Nhật) đã đưa ra một kết quả là tỉ lệ này chiếm 2,5% (nam 2,8%, nữ 2,2%) và có sự liên quan với những yếu tố nguy cơ như: giới nam, tuổi trẻ, thời gian ngủ ngắn, cảm giác bứt rứt 2 chân, căng thẳng tâm lý và đặc biệt là ngáy hoặc ngưng thở khi ngủ là yếu tố liên quan mạnh nhất (OR=2,46). Mối liên quan giữa BMI với mất ngủ và thang EPWORTH. Có mối liên quan giữa BMI với mất ngủ (p=0,018) và ngủ ngày quá độ (p=0,019). Theo nghiên cứu của Resta O & cs(1) (Italy), 29% các bệnh nhân béo phì cho thấy có giảm thông khí về đêm và có thể kết hợp với ngủ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Lão Khoa 112 ngày quá nhiều, ngay cả trong trường hợp không có ngưng thở khi ngủ. Những rối loạn xẩy ra trong lúc ngủ Sự khác biệt tỷ lệ các triệu chứng ngộp thở, nhức đầu buổi sáng, tiểu đêm >2 lần, xoay trở nhiều, tê rần hai chân, cảm giác nóng rát thượng vị và cảm giác đau của cơ thể giữa hai nhóm nghiên cứu có ý nghĩa thống kê p<0,001. So sánh với các nghiên cứu khác Nghiên cứu của Su TP & cs có sự tương quan mạnh giửa mất ngủ với tiểu đêm (>2 lần) (OR=20,6), cũng như với cảm giác đau của cơ thể (OR=2,6). Khám và điều trị mất ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi các lí do nhập viện rất đa dạng trong nhóm mất ngủ nhưng lí do đến khám vì mất ngủ chỉ chiếm 19,9% và chỉ có 5% trước đó đã có khám chuyên khoa về RLGN. So sánh với các nghiên cứu khác Kết quả này tương đối cao hơn so với một nghiên cứu về chứng mất ngủ ở Trung Quốc của Yu-tao Xiang, MD, PhD(16) chỉ có 5,4% những bệnh nhân bị mất ngủ báo cáo triệu chứng này với Bác sỹ thực hành và cũng chỉ có 2,1% đến khám với các chuyên gia về sức khỏe tâm thần. Tỉ lệ này cũng rất thấp trong nghiên cứu của Ohayon MM(12) là 6,8%. Trong một nghiên cứu ở Mỹ của PersonNJ, Johnson LL, Nahin RL(13) thì tỉ lệ báo cáo về chứng mất ngủ với Bác sỹ là 17,4%, tương đương với nghiên cứu của chúng tôi. Theo một nghiên cứu được công bố ở tạp chí Lão khoa của Mỹ thực hiện trên 1.503 người bệnh từ 60 tuổi trở lên thì có đến 69% bệnh nhân có ít nhất một lần, 49% có hai hoặc nhiều hơn số lần phàn nàn về giấc ngủ và 45% số bệnh nhân nói rằng họ thường xuyên khó ngủ. Và mặc dù những bệnh nhân cao tuổi có phiền toái về giấc ngủ chiếm tỷ lệ cao nhưng chỉ có 19% số lần phàn nàn của họ được các Bác Sỹ ghi chép trên biểu đồ theo dõi bệnh. Theo tác giả Karthyn Reid, phó giáo sư Thần kinh trường đại học y ở miền bắc Feinberg nói:“Các Bác sỹ có thể cho rằng việc hỏi bệnh nhân về giấc ngủ là điều không cần thiết, theo họ những trục trặc đó là vấn đề bình thường của tuổi tác và gần như không thể làm gì nhiều để cải thiện”. Nhưng thực tế thì những vấn đề về giấc ngủ như giấc ngủ không sâu- khuynh hướng xảy ra do tuổi tác hay giấc ngủ không ngon không phải là điều không thể tránh được của tuổi tác. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy trong số những người già có sức khỏe tốt, chỉ có 1% có khó khăn về giấc ngủ. Theo chúng tôi, tỷ lệ BN mất ngủ quan tâm và điều trị những vấn đề về rối loạn giấc ngủ ở nước ta cũng như ở các nước Châu Á thấp có thể do các lý do sau: Thứ nhất: bệnh nhân thường có quan niệm mất ngủ là một hiện tượng bình thường xảy ra tất yếu ở người cao tuổi nên họ không quan tâm khám và điều trị như là những vấn đề bệnh lý khác. Thứ hai: các phòng khám chuyên khoa về giấc ngủ còn quá ít, bản thân bệnh nhân và người thân có muốn khám, tư vấn và điều trị cũng không biết nơi nào. Thứ ba: các BS lâm sàng ít quan tâm hỏi về giấc ngủ của bệnh nhân, có khi lại thoải mái cho bệnh nhân một viên thuốc ngủ buổi tối để ngủ ngon hơn mặc dù họ không bị mất ngủ. Sự quan tâm của bệnh nhân đến việc điều trị mất ngủ Trong nghiên cứu của chúng tôi thì ở nhóm BN mất ngủ chỉ có 27,3% là có điều trị và 15% có sử dụng thuốc ngủ liên tục. KẾT LUẬN Ở người cao tuổi: Mất ngủ mãn tính, đa số từ 1 đến 5 năm. Chất lượng giấc ngủ: đa số là khó duy trì giấc ngủ, tiếp đến là mất ngủ đầu giấc và ít nhất là mất ngủ cuối giấc, trung bình bệnh nhân đi ngủ lúc 22 giờ, phải mất trung bình 75 phút mới đi vào giấc ngủ, thức giấc 3-4 lần một đêm, sau Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Lão Khoa 113 thức 30 phút mới ngủ lại được, sáng thức dậy khoảng 4 giờ sáng và trung bình một đêm trung bình ngủ được 4 giờ 30 phút. Hiệu suất ngủ: tuy mất ngủ nhưng 82,6% trong số họ cảm giác bình thường, chỉ 16,8% cảm giác còn buồn ngủ sau thức dậy buổi sáng, 26,7% có những lúc ngủ thiếp ban ngày và 17,4% gặp khó khăn trong công việc hàng ngày vì hậu quả của mất ngủ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Babar IS, Enright PL, et al (2000), “Sleep Disturbances and their correlates in elderly Japanese American Men residing in Hawaii”, The Journal of Gerontology series A: Biological sciences and medical sciences 55:, The Gerontological Society of America. M406-M411 2. Foley DJ, Monjan AA, Brown SL, Simonsick EM, Wallace RB, Blazer DG. (1995), Sleep complaints among elderly persons: an epidemiologic study of three communities.1995 Jul;18(6):425-32. 3. Gíslason T, Reynisdóttir H, Kristbjarnarson H, Benediktsdóttir B.(1993), Sleep habits and sleep disturbances among the elderly- an epidemiological survey. J Intern Med, 1993 Jul;234(1):31-9. 4. Hohagen F, Kappler C, et al (1994), “Prevalence of insomnia in elderly general practice attenders and the current treatment modalities”, Abstract, Acception for publication, Digital Object Identifier (DOI). pp.102-8 5. Kaneita Y, Ohida T, et al (2005), “Excessive daytime sleepiness among the Japanese general population”, Department of Public Heath, School of Medicine, Nihon University, Tokyo, Japan, kaneita@med.nihon-u.ac.jp, J Epidemiol, 15(1): 1-8. 6. Kim K, Uchiyama M, et al (2000), “An epidemiological study of insomnia among the Japanese general population”, Department of psychophysiology, National institute of mental health NCNP, Ichikawa-City, Chiba, Japan, Sleep, 23(1): 41-7. 7. Kim K, Uchiyama M, Liu X, et al (2001), “Somatic and psychological complaints and their correlates with insomnia in the Japanese general population”, Psychosom Med., 63(3): 441-6. 8. Li RH, Wing YK, et al (2002), “Gender differences I n insomnia-a study in the Hong Kong Chinese population”, Department of Psychiatry, Prince of Wales Hospital. The Chinese University of Hong Kong, Shatin, Hong Kong, China, J Psychosom Res, 53(1): 601-9. 9. Mohamed M, et al (2007), “Insomnia symptoms and their correlates among the elderly in geriatric homes in Alexandria, Egypt”, Journal Sleep and Breathing, Springer Berlin/Heidelberg, Volum 11, No. 3, 187-194. 10. Morin CM, Bélanger L, LeBlanc M, et al (2009), “The natural history of insomnia: a population-based 3-year longitudinal study”, Arch Intern Med; 169(5): 447-53. 11. Ohayon MM, Hong SC (2002), “Prevalence of insommia and associated factors in South Korea”, J Psychosom Res, 53(1):593- 600. 12. Pearson NJ, Johnson LL, Nahin RL (2006), “Insomnia, trouble sleeping, and complementary and alternative medicine: Analysis of the 2002 national health interview survey data”, Arch Intern Med, 166(16): 1775-82. 13. Resta O, Foschino-Barbaro MP, Legari G, Talamo S, Bonfitto P, Palumbo A, Minenna A, Giorgino R, De Pergola G (2001), “Sleep-related breathing disorders, loud snoring and excessive daytime sleepiness in obese subjects”, Int J Obes Relat Metab Disord, 25(5):669-75. 14. The HealthDay. Bác sỹ ít khi chú ý đến giấc ngủ ở người già. Cổng thông tin điện tử BV Bạch Mai-Hà nội. 15. Xiang YT, MD, PhD, Xin Ma MD, et al (2008), “The prevalence of insomnia, its sociodemographic and clinical correlates, and treatment in rural and urban regions of Beijing, China: A general population-based survey”, Sleep, Vol. 31, No. 12: 1655-1662. 16. Zailinawati A, Ariff K, et al (2008), “Epidemiology of insomnia in Malaysian adults: a community-based survey in 4 urban areas”, International Medical University, Jalan, Kuala Lumpur, Malaysia. zailina@nasioncom.net, Asia Pac J Public Health, 20(3): 224-33.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_ve_tinh_trang_mat_ngu_o_nguoi_cao_tuoi.pdf
Tài liệu liên quan