Theo kinh điển tổn thương mô thần kinh: sọ
não, tủy sống thì khả năng tái tạo là rất khó. Tuy
nhiên, gần đây các thử nghiệm lâm sàng, các
nghiên cứu về y học tái tạo mô thần kinh trung
ương với các bệnh lý như: Parkinson, thiếu máu
não và chấn thương tủy sống. Chấn thương tủy
sống điều trị gồm phẫu thuật và sử dụng Steroid
liều cao đã thu được kết quả làm giảm tổn
thương thứ phát mô tủy. Tuy nhiên, hiệu quả
của điều trị Steroid liều cao là một chủ đề còn
tranh luận. Việc ứng dụng y sinh học trong điều
trị chấn thương tủy sống bao gồm việc sử dụng
các yếu tố tái tạo thần kinh của các dòng tế bào
gốc hoặc cấy ghép tế bào gốc đang dần trở thành
một xu thế để tái tạo được mô thần kinh(7).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
ghép tự thân để tránh được vấn đề liên quan tới
thải ghép và đặc biệt nguồn tế bào gốc từ mô mỡ
có nhiều thuận lợi hơn từ các nguồn khác. Thứ
nhất là rất dễ lấy với kỹ thuật gây tê tại chỗ, dễ
nuôi cấy để đạt thời gian kịp thời cấy vùng tổn
thương. Thứ hai là liệu pháp tế bào không tạo ra
tế bào ung thư. Thứ ba tế bào gốc nguồn từ mô
mỡ đã được chứng minh tạo ra rất nhiều tế bào
mô khác nhau, trong đó có tế bào thần kinh hoặc
tế bào thần kinh đệm. Ngoài ra, nhiều nghiên
cứu đã chứng minh tính an toàn khi ứng dụng
trên người(10). Tại Mỹ, chi phí cho bệnh nhân
CTTS hàng năm lên đến 10 tỷ đô la, chưa bao
gồm chi phí điều trị loét tỳ đè, một biến chứng
hay gặp nhất của liệt tủy hoàn toàn, có thể thêm
hàng tỷ đô la mỗi năm(8). Để có thể đưa các
nghiên cứu về tế bào gốc và thực tiễn ứng dụng,
thông thường cần phải theo các trình tự sau:
Nuôi cấy, biệt hoá tế bào gốc thành tế bào thần
kinh trong phòng thí nghiệm, bước này có thể
tiến hành song song với các nghiên cứu cơ chế
hình thành tế bào thần kinh từ tế bào gốc và các
nhân tố ảnh hưởng tới quá trình này. Tiếp theo
sau, các sản phẩm thí nhiệm có thể được thử
nghiệm trên mô hình động vật để chứng minh
hiệu quả của quá trình cấy ghép, xác định liều
lượng tế bào cần thiết cho qúa trình điều trị, tối
ưu hoá mức độ hồi phục các phản ứng của cơ thể
sau khi cấy ghép.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chức năng bàng quang trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy cấp tính có ứng dụng ghép tế bào gốc trung mô nguồn gốc mô mỡ tự thân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 138
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG BÀNG QUANG TRONG ĐIỀU TRỊ 
CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG LIỆT TỦY CẤP TÍNH CÓ ỨNG DỤNG 
GHÉP TẾ BÀO GỐC TRUNG MÔ NGUỒN GỐC MÔ MỠ TỰ THÂN 
Nguyễn Đình Hoà*, Đỗ Đào Vũ**, Nguyễn Văn Thạch* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàng quang trong điều trị chấn thương tủy sống giai đoạn 
cấp tính bằng ứng dụng cấy ghép tế bào gốc trung mô từ mô mỡ tự thân 
Phương pháp: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc 40 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là chấn thương cột 
sống ngực – thắt lưng liệt tủy hoàn toàn được mổ tại bệnh viện Việt đức từ 10/2012 đến10/2014; được chia làm 
hai nhóm ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1. 
Kết quả: Số cơn co bóp không tự chủ của nhóm điều trị là 0,4 ± 0,221 thấp hơn nhóm đối chứng là 2,3 ± 
0,300, sự khác biệt này là có nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên, không thấy sự cải thiện có ý nghĩa về các chỉ số 
Pdetmax, MCC và độ giãn nở bàng quang tại thời điểm 6 tháng sau cấy ghép tế bào so với nhóm chứng (p>0,05). 
Pdetmax<40cmH2O tại thời điểm 3 tháng chiếm tỷ lệ cao hơn thời điểm 6 tháng nhưng sự khác biệt không có ý 
nghĩa (p>0,05). Kết quả cho thấy sự yếu kém trong chăm sóc bàng quang thần kinh sau cấy là lý do khiến một số 
thông số niệu động học không có sự cải thiện so với nhóm chứng. 
Kết luận: Ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn. 
Là phương pháp ứng dụng mới trong điều trị chấn thương cột sống đặc biệt nhằm cải thiện chức năng bàng 
quang, vấn đề vốn còn nhiều khó khăn trong điều trị và chăm sóc. Phương pháp này mang đến niềm hy vọng mới 
cho bệnh nhân và người nhà. Cần phải đánh giá thêm về tính an toàn và hiệu quả của phương pháp. Nhưng đây 
cung là một giải phápcó triển vọng cho người bệnh có rối loạn chức năng bàng quang thần kinh sau chấn thương 
cột sống có liệt tuỷ hoàn toàn. 
Từ khóa: Chấn thương tủy sống, tế bào gốc, bàng quang thần kinh 
ABSTRACT 
EVALUATING BLADDER FUNTION IN TREATMENT OF SPINAL CORD INJURY WITH ADIPOSE 
CULTURED AUTOLOGOUS MESENCHYMAL STEM CELLS 
Nguyen Dinh Hoa, Do Dào Vu, Nguyen Van Thach 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 138 - 145 
Objectives: To evaluate the effectiveness of rehabilitating bladder function in treatment of spinal cord injury 
with adipose cultured autologous mesenchyme stem cells. 
Methodology: a cross-sectional intervention study on 40 patients diagnosed with thoracolumbar injuries 
and complete paralysis. The patients were operated in Viet Duc hospital from October 2012 to October 2014. The 
subjects were classified randomly into two groups (1:1). 
Results: The number of involuntary contraction in treatment group (0.4 ± 0.221) was lower than that of the 
control group (2.3 ± 0.300); this difference was insignificant (p<0.05). There were no significant improvement in 
Pdetmax, MCC and compliance at 6 months after stem cell transplantation (p > 0.05). At 3 months after 
transplantation, the rate of patients with Pdetmax<40 cmH2O was higher than at 6 months after transplantation, 
* Bệnh viện Việt Đức ** Bệnh viện Bạch Mai 
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Đào Vũ ĐT: 0982041278 Email: dodaovurehabi@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 139
but the difference was insignificant (p > 0.05). This finding showed that the poor management of neurogenic 
bladder after transplantation caused no improvement in urodynamic parameters of the treatment group compared 
to the control group. 
Conclusion: Spinal cord injury (SCI) is a devastating condition producing great personal and societal costs 
and for which there is no effective treatment. Nowadays we can only operate the patients with fixation and 
decompression; it is difficult to recover neuron function. Stem cell transplantation is a promising therapeutic 
strategy, but much preclinical and clinical research work remains. Research in stem cell biology and cell 
reprogramming is rapidly advancing, with the hope of moving stem cell therapy closer to helping people with SCI. 
 Key words: spinal cord injury, stem cell, neurogenic bladder 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chấn thương tủy sống (CTTS) gây nên 
những thương tổn thần kinh bao gồm liệt vận 
động, cảm giác, rối loạn cơ tròn là những hậu 
quả rất phổ biến và nặng nề thường thấy trên 
lâm sàng. Liệt tủy hoàn toàn thường xảy ra khi 
tổn thương trên nón tủy, lâm sàng được biểu 
hiện mất hoàn toàn vận động và cảm giác dưới 
mức tủy tổn thương bao gồm cả cảm giác quanh 
hậu môn(8). Hàng năm có khoảng 40 ca CTTS mới 
trong một triệu dân hoặc tổng số có khoảng 
12000 ca CTTS tại Mỹ. Bệnh nhân nam giới 
chiếm đa số với tỷ lệ khoảng 77%, tuổi trung 
bình của bệnh nhân trong ba thập kỷ gần đây 
khoảng từ 28,7 đến 39,5 tuổi với nguyên nhân 
chính là tai nạn giao thông và ngã cao. Tổn 
thương đụng dập tủy chiếm 70%(8).Tại Việt Nam, 
CTTS gặp chủ yếu do tai nạn lao động và tai nạn 
giao thông với độ tuổi trung bình khoảng 35-40 
có thể chiếm đến 80%, đây là lực lượng lao động 
chính của xã hội(4,10).Bệnh nhân CTTS ngoài vấn 
đề mất sức lao động sau chấn thương, phụ thuộc 
vào người chăm sóc, bệnh nhân còn phải được 
điều trị các biến chứng như loét tỳ đè, viêm tắc 
tĩnh mạch chi, rối loạn chức năng bàng quang 
gây nhiễm trùng tiết niệu, trào ngược bàng 
quang niệu quản dẫn đến tử vong trong bệnh 
cảnh suy thận mạn tính(4,5). 
Trong vài năm trở lại đây, bàng quang thần 
kinh do CTTS là vấn đề được quan tâm vvaf có 
những phương pháp điều trị mới, song kết quá 
chưa được như mong đợi. Việc nghiên cứu về 
ứng dụng tế bào gốc (TBG) trong điều trị bệnh 
đã thu hút được sự quan tâm rất lớn trong giới y 
học trong và ngoài nước. Nhiều bệnh lý thuộc 
nhiều chuyên nghành khác nhau đã được điều 
trị bằng TBG với kết quả rất khả quan, trong đó 
có bệnh chấn thương cột sống. Với đặc tính có 
khả năng tự tái tạo và biệt hóa thành những tế 
bào chuyên biệt, đa dòng trong những điều kiện 
nhất định như tế bào cơ, xương, sụn, da, tế bào 
thần kinhTBG được xem như là nguồn 
“nguyên liệu” dự trữ, giúp cơ thể sửa chữa, tái 
tạo, thay thế những mô, tổ chức bị tổn thương từ 
đó cải thiện chức năng trong đó có bàng 
quang(9,10,8). Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu với 
Mục tiêu 
Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng bàng 
quang trong điều trị chấn thương tủy sống giai 
đoạn cấp tính bằng ứng dụng cấy ghép tế bào 
gốc trung mô từ mô mỡ tự thân. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Đối tượng hiểu và kí giấy chấp nhận tham 
gia vào nghiên cứu này; Tuổi từ 19-60, không 
phân biệt giới tính; Chuẩn đoán lâm sàng tổn 
thương tủy sống theo Hiệp hội tổn thương tủy 
sống của Hoa Kỳ (ASIA ở cấp độ A, liệt hoàn 
toàn); Khoảng thời gian tổn thương dưới 14 
ngày. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Đối tượng phải thở bằng máy; 
Đối tượng có khối u ác tính trong vòng 5 
năm; 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 140
Đối tượng bị bệnh truyền nhiễm bao gồm 
HIV và viêm gan C. 
Các đối tượng bị tổn thương ở não hoặc chấn 
thương phối hợp khác. 
Các đối tượng có nhiệt độ cơ thể cao hơn 
38℃ hoặc rối loạn cấp tính. 
Đối tượng bị thiếu máu hoặc giảm tiểu cầu; 
Đối tượng với chứng đau thắt ngực, nhồi 
máu cơ tim, bệnh tim, bệnh tắc mạch, suy thận 
mạn tính, bệnh cầu thận và bệnh tắc nghẽn phổi 
mạn tính. 
Đối tượng rối loạn suy giảm miễn dịch bẩm 
sinh hoặc mắc phải. 
Đối tượng với chứng loạn dưỡng cơ hoặc 
cứng khớp. 
Bệnh nhân không có ý thức hoặc rối loạn 
giọng nói. 
Bệnh nhân đang điều trị với các thuốc gây 
độc tế bào (thuốc ức chế miễn dịch, 
corticosteroid và thuốc gây độc tế bào) trong 
suốt các thử nghiệm lâm sàng. 
Bệnh nhân tham gia một thử nghiệm lâm 
sàng khác trong vòng 3 thángbị bệnh nghiêm 
trọng khác hoặc bị rối loạn có thể ảnh hưởng 
nghiêm trọng đến khả năng tham gia nghiên 
cứu. 
Phụ nữ có thai hay đang cho con bú. 
Bệnh nhân có tiền sử dị ứng kháng sinh, 
thuốc mê. 
Bệnh nhân không đồng ý hoặc tham gia 
nghiên cứu không đầy đủ. 
Cỡ mẫu và cách thức tiến hành 
Đối tượng nghiên cứu gồm 40 bệnh nhân 
được chẩn đoán xác định là chấn thương cột 
sống ngực – thắt lưng liệt tủy hoàn toàn được 
mổ tại bệnh viện Việt đức. Bệnh nhân đáp ứng 
đầy đủ tiêu chuẩn lựa chọn được chia làm hai 
nhóm ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1, được làm xét 
nghiệm trước khi cấy ghép. Bệnh nhân được 
phẫu thuật theo phương pháp kinh điển cố 
định cột sống giải ép, ghép xương và được 
ứng dụng ghép tế bào gốc trực tiếp vào vùng 
tổn thương theo các quy trình chuẩn với số 
lượng tế bào 4x10^6 MSCs tiêm ở 4 vị trí trên 
tổn thương, giữa tổn thương, dưới tổn thương 
và dưới màng cứng. 
Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Đề tài được thực hiện tại tại Bệnh viện Việt 
Đức và Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10 năm 
2012 đến tháng 10 năm 2014. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc 
 Chỉ định ghép tế bào gốc 
Chỉ định ghép khối tế bào gốc tủy xương tự 
thân cho những trường hợp chấn thương cột 
sống có liệt tủy hoàn toàn đã được chẩn đoán 
dựa trên lâm sàng và MRI theo những tiêu 
chuẩn lựa chọn và loại trừ như trên 
Quy trình kỹ thuật ghép khối tế bào mô mỡ 
tự thân 
Tùy vào vị trí chấn thương bệnh nhân được 
phẫu thuật và kết hợp với ghép tế bào gốc tự 
thân. Bằng 2 con đường: Bơm trực tiếp tế bào gốc 
vào vùng thương tổn (3 vị trí: trên, giữa, dưới 
thương tổn) và bơm tế bào gốc vào khoang dưới 
nhện, sau khi mở màng cứng. 
Các bước tiến hành 
Bước 1 hỏi bệnh: Khai thác bệnh sử, thời gian 
bị bệnh, nguyên nhân tai nạn. 
Bước 2 khám lâm sàng: khám dấu hiệu toàn 
thân; khám phát hiện liệt phân loại theo ASIA; 
khám các tổn thương phối hợp; đánh giá cận lâm 
sàng và hình ảnh: X quang, CT, MRI; chẩn đoán 
xác định chấn thương cột sống dựa vào lâm sàng 
và chẩn đoán hình ảnh. 
Bước 3 Điều trị phẫu thuật: Yêu cầu: XQ tăng 
sáng trong mổ, kính hiển vi phẫu thuật, phẫu 
thuật viên chuyên khoa, đặc biệt và tế bào gốc để 
ghép tự thân bằng 2 đường. 
Chỉ định mổ: Có dấu hiệu mất vững cột sống; 
Có dấu hiệu chèn ép ống tủy; Liệt tủy hoàn toàn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 141
Nguyên tắc chung: Vô cảm; Bệnh được thực hiện 
gây mê toàn thân với ống nội khí quản; Đặt ống 
thông dạ dày tránh trào ngược, nhất là với 
đường cổ trước, phẫu thuật viên cần nhận biết 
để tránh thương tổn thực quản; Có thể làm giảm 
chảy máu và dễ bóc tách bằng cách tiêm vào 
vùng mổ hỗn hợp Adrenalin/Lidocain với tỉ lệ 
1/100000. 
Tư thế bệnh nhân: Thuận lợi cho phẫu thuật 
viên vào đường mổ; Có thể sử dụng xquang, 
kính hiển vi phẫu thuật trong mổ. Xác định vị trí 
tổn thương: Chúng tôi sử dụng Xquang trong mổ 
để xác định vị trí thương tổn và vùng tiêm 
truyền tế bào gốc. 
Thực hiện phẫu thuật cho bệnh nhân 
Các phương pháp phẫu thuật: Bệnh nhân chấn 
thương cột sống thắt lưng – thắt lưng: Bệnh 
nhân nằm sấp, kế gối độn ở vai và hông, các thì 
phẫu thuật gồm có:Tê tại chỗ; Rạch da tương 
ứng vùng thương tổn; Bóc tách cơ cạnh sống; 
Bộc lộ điểm bắt vít trên và dưới mức tổn thương; 
Bắt vít qua cuống; Mở cung sau giải ép; Tiến 
hành tiêm tế bào gốc vùng tổn thương: trên và 
dưới vùng tổn thương ba liều mỗi liều 2ml, sau 
khi đóng màng cứng tiêm liều 14ml; Đặt thanh 
dọc; Bẻ ốc, siết ốc; Cầm máu, đặt dẫn lưu; Đóng 
vết mổ theo giải phẫu. 
Theo dõi, điều trị sau ghép khối tế bào gốc 
mô mỡ tự thân 
 Sau khi thực hiện ghép tế bào gốc, tùy theo 
vị trí mổ, tình trạng và tiên lượng toàn thân mà 
bệnh nhân được về khoa điều trị hay điều trị 
trên phòng hồi sức. Bệnh nhân được điều trị tích 
cực:Kháng sinh toàn thân; Giảm đau sau mổ; 
Chống phù nề tủy; Tập phục hồi chức năng; Tại 
vùng lấy mô mỡ; Chảy máu, tụ máu tại vị trí hút 
mỡ: thao tác chính xác, nhẹ nhàng, băng ép chặt 
vị trị chọc hút mỡ. Máu tụ sẽ tự tiêu sau 3-5 
ngày. Khi đau nhiều dùng thuốc giảm đau, 
thuốc chống phù nề Alfachymotrypsin. Nhiễm 
trùng tại vị trí hút mỡ: để tránh cần tuân thủ các 
qui định về vô khuẩn trong khi hút mỡ. Dùng 
kháng sinh phổ rộng. Nhiễm khuẩn sản phẩm tế 
bào gốc khi sản xuất: để tránh cần tuân thủ 
nghiêm ngặt qui trình vô khuẩn trong khi sản 
xuất tế bào gốc. 
Phương pháp thu thập, phân tích số liệu 
Các chỉ số nghiên cứu được thu thập theo các 
biểu mẫu thiết kế sẵn tại các thời điểm trước mổ, 
diễn biến trong và sau mổ, khám định kỳ hàng 
tháng. Công cụ thu thập số liệu bao gồm: Hồ sơ 
bệnh án theo mẫu thống nhất khi bệnh nhân vào 
viện; Phiếu thu thập thông tin từ bệnh án; Phiếu 
thu thập thông tin trong các lần khám bệnh nhân 
định kỳ sau mổ tại Phòng khám phẫu thuật cột 
sống, Bệnh viện Việt Đức; Tất cả các BN được 
lựa chọn đều có mẫu bệnh án riêng với đầy đủ 
các thông số cần thiết đã nêu. Đánh giá kết quả 3 
tháng và 6 tháng bằng thăm dò niệu động học. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu sẽ được nhập vào máy tính và xử lý 
theo chương trình phần mềm thống kê y học 
SPSS. Các biến liên tục trình dưới dạng trung 
bình. So sánh kết quả giữa các biến liên tục bằng 
thuật toán kiểm định test T Student. Các biến thứ 
tự và rời rạc được trình bày dưới dạng %. So 
sánh kết quả của các biến rời rạc bằng thuật toán 
kiểm định 2. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
khi p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ giới 
Nhận xét: Trong số bệnh nhân được nghiên 
cứu, tỷ lệ nam/ nữ là 5.67 Trong đó bệnh nhân 
nam là 34 bệnh nhân chiếm 85% nữ là 6 bệnh 
nhân chiếm 15%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 142
Biểu đồ 2. Phân bố theo nhóm tuổi 
Nhận xét: Tuổi trung bình của các bệnh nhân 
nghiên cứu là: 37,75 ± 5.67 Bệnh nhân trẻ nhất là: 
17 và bệnh nhân già nhất là 59. Tỷ lệ tuổi từ 31-
40 là cao nhất chiếm 37,5% 
Đánh giá kết quả trên đo chức năng bàng 
quang 
Bảng 1. So sánh kết quả niệu động học thông qua số cơn co bóp không tự chủ của ở hai nhóm đối chứng và điều 
trị tai thời điềm 6 tháng 
 n Trung bình ± Độ lệch chuẩn P 
Nhóm điều trị 10 0.4 ± 0.221 P=0,0001 < 0,05 
Nhóm chứng 10 2.3 ± 0.300 
Nhận xét: Số cơn co bóp không tự chủ của 
nhóm điều trị là 0.4 ± 0.221 thấp hơn nhiều so với 
đối chứng là 2.3 ± 0.300, sự khác biệt này là có 
nghĩa thống kê (với p<0,05; kiểm định Mann-
Whitney test). 
Bảng 2. Đánh giá mức độ cải thiện chức năng BQ thông qua các chỉ sô áp lực BQ tối đa (Pdetmax), sức chứa BQ 
tối đa (MCC) và độ giản nở BQ (C) trong nhóm điều trị tại những thời điểm 3 tháng, 6 tháng 
 Pdetmax MCC C 
3 tháng sau 54,78 ± 6,309 395,89 ± 46,407 23,06 ± 5,14 
6 tháng sau 61,7 ± 10,157 338,3 ± 58,643 17,81 ± 6,01 
p >0,05 >0,05 >0,05 
Nhận xét: Mặc dù số cơn co bóp không tự chủ 
ở hai giai đoạn 3 tháng và 6 tháng có sự cải thiện 
đáng kể, tuy nhiên, Pdetmax, MCC và C có sự 
cải thiện nhỏ nhưng không đáng kể. Điều này có 
thể giải thích là do khâu chăm sóc BQ của bệnh 
nhân trong và sau điều trị không tốt 
Dựa trên tương quan giữa Pdetmax, MCC 
và C với , nếu sức chứa tối đa tăng duy 
trì mức ≥ 300 ml, áp lực tối đa BQ giảm dần về 
giá trị 15 - 40 cm H2O, độ giản nở BQ tăng. 
Điều này liên quan mật thiết đến việc tập 
luyện duy trì thể tích nước tiểu trong BQ, làm 
sạch nước tiểu BQ, chống rỉ tiều... Để có được 
kết quả này, bệnh nhân cần được chăm sóc BQ 
tốt và tham gia tập luyện phục hồi chức năng. 
Thêm vào đó, sức chứa BQ tối đa ở 2 thời điểm 
quan sát 3 tháng và 6 tháng sau điều trị điều 
lớn ≥ 300ml. Mặc dù MCC ở thời điểm 6 tháng 
thấp hơn thời điểm 3 tháng, tuy nhiên sự khác 
biệt này là không có ý nghĩa. Điều này càng 
củng cố thêm kết quả có sự cải thiện các thông 
số niệu động học. 
Bảng 3. So sánh áp lực BQ tối đa (Pdetmax), sức chứa BQ tối đa (MCC) và độ giản nở BQ (C) ở hai nhóm đối 
chứng và điều trị tại thời điểm 6 tháng. 
 Pdetmax MCC C 
Nhóm điều trị (n=10) 61,7 ± 10,157 338,3 ± 58,643 17,81 ± 6,01 
Nhóm chứng (n=10) 69,7 ± 8,660 406,1 ± 52,309 10,79 ± 1,89 
p >0,05 >0,05 >0,05 
Nhận xét: không thấy có sự cải thiện có ý 
nghĩavề các chỉ số Pdetmax, MCC và C tại thời 
điểm 6 tháng sau cấy ghép tế bào so với nhóm 
chứng (p>0,05; kiểm định Mann-Whitney test) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 143
Biểu đồ 3. Biểu đồ phân bố bệnh nhân theo mức 
Pdetmax tại hai thời điểm 3 và 6 tháng 
Nhận xét: Khảo sát phân bố bệnh nhân theo 
mức Pdetmax tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng 
sau điều trị cho thấy: Pdetmax<40: tại thời điểm 
3 tháng lớn hơn thời điểm 6 tháng tuy nhiên sự 
khác biệt k có ý nghĩa. Tương tự, Pdetmax>40: tại 
thời điểm 3 tháng nhỏ hơn thời điểm 6 tháng sự 
khác biệt cũng không có ý nghĩa (p>0,05; kiểm 
đinh Sign test). Có sự giảm nhẹ không đáng kể 
về Pdetmax an toàn (Pdetmax <40) tại thời điểm 
6 tháng so với 3 tháng (p>0,05), sự thay đổi này 
có thể do bệnh nhân được chăm sóc, quản lý BQ 
tốt dần sau điều trị 
Biểu đồ 4. Phân bố bệnh nhân theo Pdetmax tại 
tháng thứ 6 ở hai nhóm đối chứng và điều trị. 
Nhận xét: Quan sát phân bố bệnh nhân theo 
mức Pdetmax tại thời điểm 6 tháng trong hai 
nhóm điều trị và đối chứng cho thấy: Tỉ lệ 
Pdetmax nhóm đối chứng; Tỉ 
lệ Pdetmax>40: nhóm điều trị < nhóm đối chứng. 
Sự khác biệt của 2 nhóm này là không có ý 
nghĩa. Vấn đề chăm sóc quản lý bệnh nhân sau 
cấy ghép cần được quan tâm hơn, kèm theo đó 
làsố lượng bệnh nhân trong nghiên cứu còn hạn 
chế, sự đánh giá này cũng chỉ có tính chất mô tả, 
chưa phản ánh được đầy đủ hiệu quả của 
phương pháp điều trị. Vi vậy, cần tiếp tục đánh 
giá thêm và có chế độ chăm sóc, quản lý BQ tốt 
hơn sẽ giúp cải thiện Pdetmax an toàn hơn. 
BÀN LUẬN 
Theo kinh điển tổn thương mô thần kinh: sọ 
não, tủy sống thì khả năng tái tạo là rất khó. Tuy 
nhiên, gần đây các thử nghiệm lâm sàng, các 
nghiên cứu về y học tái tạo mô thần kinh trung 
ương với các bệnh lý như: Parkinson, thiếu máu 
não và chấn thương tủy sống. Chấn thương tủy 
sống điều trị gồm phẫu thuật và sử dụng Steroid 
liều cao đã thu được kết quả làm giảm tổn 
thương thứ phát mô tủy. Tuy nhiên, hiệu quả 
của điều trị Steroid liều cao là một chủ đề còn 
tranh luận. Việc ứng dụng y sinh học trong điều 
trị chấn thương tủy sống bao gồm việc sử dụng 
các yếu tố tái tạo thần kinh của các dòng tế bào 
gốc hoặc cấy ghép tế bào gốc đang dần trở thành 
một xu thế để tái tạo được mô thần kinh(7). 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 
ghép tự thân để tránh được vấn đề liên quan tới 
thải ghép và đặc biệt nguồn tế bào gốc từ mô mỡ 
có nhiều thuận lợi hơn từ các nguồn khác. Thứ 
nhất là rất dễ lấy với kỹ thuật gây tê tại chỗ, dễ 
nuôi cấy để đạt thời gian kịp thời cấy vùng tổn 
thương. Thứ hai là liệu pháp tế bào không tạo ra 
tế bào ung thư. Thứ ba tế bào gốc nguồn từ mô 
mỡ đã được chứng minh tạo ra rất nhiều tế bào 
mô khác nhau, trong đó có tế bào thần kinh hoặc 
tế bào thần kinh đệm. Ngoài ra, nhiều nghiên 
cứu đã chứng minh tính an toàn khi ứng dụng 
trên người(10). Tại Mỹ, chi phí cho bệnh nhân 
CTTS hàng năm lên đến 10 tỷ đô la, chưa bao 
gồm chi phí điều trị loét tỳ đè, một biến chứng 
hay gặp nhất của liệt tủy hoàn toàn, có thể thêm 
hàng tỷ đô la mỗi năm(8). Để có thể đưa các 
nghiên cứu về tế bào gốc và thực tiễn ứng dụng, 
thông thường cần phải theo các trình tự sau: 
Nuôi cấy, biệt hoá tế bào gốc thành tế bào thần 
kinh trong phòng thí nghiệm, bước này có thể 
tiến hành song song với các nghiên cứu cơ chế 
hình thành tế bào thần kinh từ tế bào gốc và các 
nhân tố ảnh hưởng tới quá trình này. Tiếp theo 
sau, các sản phẩm thí nhiệm có thể được thử 
nghiệm trên mô hình động vật để chứng minh 
hiệu quả của quá trình cấy ghép, xác định liều 
lượng tế bào cần thiết cho qúa trình điều trị, tối 
ưu hoá mức độ hồi phục các phản ứng của cơ thể 
sau khi cấy ghép. 
Sau khi chứng minh tính an toàn và hiệu quả 
của phương pháp điều trị bằng tế bào gốc thì các 
thử nghiệm lâm sàng trên người sẽ được tiến 
hành theo 4 giai đoạn, tăng dần theo số lượng. 
Tế bào gốc từ các nguồn khác nhau như tế bào 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 144
gốc phôi, tế bào gốc thần kinh từ thai, từ máu 
dây rốn, tuỷ xương, mô mỡđều đã được thử 
nghiệm trong mô hình điều trị chấn thương cột 
sống. Các thử nghiệm trên bệnh nhân về tính an 
toàn và tính khả thi của liệu pháp tế bào gốc đã 
được tiến hành. Cho đến nay việc tiến hành 
nghiên cứu trên động vật rất phổ biến và thu 
được kết quả khả quan. Các nhà khoa học đã sử 
dụng chuột, thỏ, linh trưởng làm đối tượng 
nghiên cứu tác dụng của tế bào gốc trong điều 
trị. Thông thường mô hình động vật thí nghiệm 
bị chấn thương cột sống bằng cách kẹp tuỷ sống, 
cắt đứt tuỷ sống. Nhìn chung, để đưa tế bào gốc 
vào đôi tượng nghiên cứu có 2 con đường tuỳ 
theo cơ chế hoạt động của tế bào gốc: 
+ Đưa thẳng tế bào gốc (có thể là tế bào tiền 
thần kinh, hoặc nguyên bào sợi thần kinh biệt 
hoá từ tế bào gốc) hoặc các trường hợp chất tăng 
trưởng từ tế bào gốc vào vùng tổn thương. Lúc 
này tế bào gốc hoạt động theo hướng tái tao/thay 
thế, biệt hoá thành tế bào thần kinh mới hoặc tế 
bào đệm thần kinh. 
+ Đưa tế bào gốc bằng đường gián tiếp: 
Truyền tĩnh mạch hoặc tiêm vào vùng L2 
(khoang dưới nhện). Các tế bào hiện diện sẽ hoạt 
động theo hướng cảm ứng/hỗ trợ. Tế bào gốc 
lưu thông, hạn chế tối đa sự chết theo chu kỳ và 
hạn chế cả phản ứng viêm đã được chứng minh 
có hại cho mô tuỷ. Các tế bào này khi hiện diện 
sẽ tiết ra yếu tố tăng trưởng, đồng thời cũng tiết 
ra các tín hiệu huy động các yếu tố tăng trưởng 
cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích thích việc 
hình thành mạch máu và tế bào thần kinh mới. 
Theo một số ý kiến hiện nay, các nhà khoa học 
cho rằng cảm ứng hỗ trợ này có thể là hướng 
chính và hiệu quả hơn hẳn, vì theo đó, tế bào gốc 
khi được đưa vào cơ thể, một mặt biệt hoá thành 
tế bào thần kinh mới, một mặt tạo điều kiện để 
cơ thể vật chủ tự hồi phục. Tại Việt nam gần đây 
có nhiều nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong 
điều trị, nhưng trong ngành chấn thương chỉnh 
hình nói chung cũng như trong điều trị chấn 
thương cột sống liệt tủy nói riêng còn hạn chế. 
Cao Thỉ (2009) đã báo cáo ghép tủy xương để 
điều trị gãy hở hai xương cẳng chân, Nguyễn 
Mạnh Khánh (2010) báo cáo ứng dụng tế bào gốc 
điều trị chậm liền xương, khớp giả thân xương 
chày(5). Với sự phát triển không ngừng của khoa 
học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển công nghê 
tế bào gốc đã mở ra những hy vọng mới cho các 
bệnh nhân. Ngày nay liệu pháp tế bào gốc được 
ứng dụng ngày càng nhiều trong các chuyên 
khoa, đặc biệt là chuyên khoa thần kinh và cột 
sống. Tế bào gốc có thể lấy ở rất nhiều nơi, song 
mỗi nơi có ưu nhược điểm khác nhau. Nhưng tế 
bào gốc mô mỡ là ưu điểm hơn do: dễ dàng thực 
hiện, bệnh nhân không đau, lượng tế bào gốc 
thu được với số lượng lớn, dễ nuôi cấy. 
KẾT LUẬN 
Ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân 
trong điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn 
toàn. Là phương pháp ứng dụng mới trong điều 
trị chấn thương cột sống đặc biệt nhằm cải thiện 
chức năng bàng quang, vấn đề vốn còn nhiều 
khó khăn trong điều trị và chăm sóc. Phương 
pháp này mang đến niềm hy vọng mới cho bệnh 
nhân và người nhà. Cần phải đánh giá thêm về 
tính an toàn và hiệu quả của phương pháp. 
Nhưng đây cung là một giải phápcó triển vọng 
cho người bệnh có rối loạn chức năng bàng 
quang thần kinh sau TTTS có liệt tuỷ hoàn toàn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lammertse D.P., Jones L.A.T. et la (2012) Autologous 
incubated macrophage therapy in acute, complete spine cord 
injury: results of the phase 2 randomized controlled 
multicenter trial. SPINAL CORD: 50, 661-671. 
2. Nguyễn Văn Thạch (2007). Nghiên cứu điều trị phẫu thuật 
gãy cột sống ngực – thắt lưng không vững, không liệt và liệt 
tủy không hoàn toàn bằng dụng cụ Moss Miami. Luận án tiến 
sỹ Y học. 
3. Nguyễn Lê Bảo Tiến (2004). Nghiên cứu kết quả phẫu thuật 
chấn thương cột sống lưng – thắt lưng bằng vít qua cuống với 
dụng cụ Moss Miami tại bệnh viện Việt Đức. Luận văn tốt 
nghiệp bác sỹ nội trú các bênh viện. 
4. Nguyễn Quang Tùng (2011). Nghiên cứu ứng dụng và hoàn 
thiện quy trình thu gom, xử lý, bảo quản tế bào gốc tạo máu 
dùng cho ghép đồng loại. Luận án tiến sỹ Y học. 
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2004). Tế bào gốc và ứng dụng trong y 
sinh học, TCNCYH phụ bản 32(6): tr. 13-26. 
6. Park H.S., Park H.C., Shim Y.S et al (2005). Treatment of 
complete spinal cord injury patients by autologous bone 
marrow cell transplantation and administration of 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 145
granulocyte-macrophage colony stimulating factor. TISSUE 
ENG; 11:913–922. 
7. Saito F., Nakatani T., Iwase M. et al (2008). Spinal cord injury 
treatment with intrathecal autologous bone marrow stromal 
cell transplantation: The first clinical trial case report. J 
TRAUMA; 64:53–59. 
8. Sang H.K. et la (2013). Autologous Adipose Dirived MSCs 
Trasplantation in Patient With Spinal Cord Injury Clinical trial 
study. 
9. Trần Văn Bé (1995). Chuyên đề nghiên cứu và ứng dụng tế 
bào gốc ở Việt Nam: Ca ghép tủy đầu tiên ở Việt Nam. Tạp trí 
y dược học. 
10. Yoon S.H., Shim Y.S., Park Y.H. et al (2007). Complete spinal 
cord injury treat- ment using autologous bone marrow cell 
transplantation and bone marrow stimulation with 
granulocyte macrophage-colony stimulating factor: phase I/II 
clinical train STEM CELLS;25:2066-2073. 
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015 
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 danh_gia_chuc_nang_bang_quang_trong_dieu_tri_chan_thuong_cot.pdf danh_gia_chuc_nang_bang_quang_trong_dieu_tri_chan_thuong_cot.pdf