Đánh giá hiệu quả chải răng có theo dõi trên tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh một trường tiểu học TP.HCM

Các nội dung giáo dục nha khoa cần thực hiện ở lứa tuổi sớm hơn và chỉ cần nhắc lại ở bậc tiểu học Nên thực hiện chương trình chải răng tại trường ngay sau khi ăn trưa cho học sinh bán trú kết hợp với đảm bảo các điều kiện của chương trình (bồn chải răng, ánh sáng, hệ thống nước cấp và nước thóat ). Để phát huy tính tự lập của lứa tuổi học sinh, chương trình chải răng cho học sinh bán trú tại trường để học sinh tự giám sát, giáo viên chỉ cần nhắc nhở. Khuyến khích cá nhân tự kiểm soát tình trạng vệ sinh răng miệng và sử dụng các biện pháp phát hiện mảng bám. Nên sử dụng rộng rãi chỉ số QHI đánh giá tình trạng VSRM trong nghiên cứu thử nghiệm hay theo dõi tình trạng VSRM của học sinh trong trường học.

pdf6 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả chải răng có theo dõi trên tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh một trường tiểu học TP.HCM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 272 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHẢI RĂNG CÓ THEO DÕI TRÊN TÌNH TRẠNG VỆ SINH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH MỘT TRƯỜNG TIỂU HỌC TPHCM Vũ Thị Kiều Diễm* TÓM TẮT Mở đầu: Thực hiện việc chải răng tại trường cho học sinh sau bữa ăn trưa tại trường là một nội dung của Chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng cho học sinh (chương trình Nha Học đường - NHĐ), nhưng hiệu quả làm sạch mảng bám còn hạn chế. Mục tiêu: xác định sự cần thiết phải giám sát và nhân lực giám sát việc chải răng tại trường. Đối tượng: 121 học sinh lớp 3 bán trú của trường Tiểu học Phú Thọ, quận 11 TPHCM, chia làm 3 nhóm: nhóm A (cán sự lớp theo dõi), nhóm B (giáo viên theo dõi), nhóm C (tự theo dõi). Kết quả: (1) Chải răng có theo dõi có hiệu quả đối với tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh sau 2 tháng (QHI : trước chải răng 2,82 và sau chải răng còn 1,9) (p<0,001), (2) Có sự khác biệt về hiệu quả việc chải răng giữa 3 nhóm nghiên cứu, trong đó nhóm tự theo dõi có mức độ cải thiện tình trạng vệ sinh răng miệng tốt nhất, tiếp theo là nhóm cán sự lớp theo dõi và sau cùng là nhóm có giáo viên theo dõi (p<0,001). Kết luận: Đối với trường học có giáo dục sức khỏe răng miệng thường xuyên thì giám sát việc chải răng tại trường của học sinh không nhất thiết phải là giáo viên, chỉ cần tạo điều kiện cho học sinh tự theo dõi việc chải răng của chính các em. Từ khóa: Vệ sinh răng miệng, Chương trình Chải răng ở trường học, Chương trình Nha Học đường ABSTRACT EVALUATION THE EFFECT OF MONITORED TOOTH-BRUSHING ON ORAL HYGIENE STATUS OF PRIMARY SCHOOL PUPILS OF HCMC Vu Thi Kieu Diem * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 272 - 277 Introduction : The tooth-brushing program after lunch for pupils is a part of Oral Health Care program at primary schools, but the result is still limited. Aim : the necessity of overseeing and staffs for overseeing it. Method : Tooth-brushing program applied for 121 pupils at PhuTho primary school (district 11, HCMC) during two months, they divided into 3 groups: group A (monitored by heads of class), group B (monitored by teacher), group C (self monitored). Examiner group with 92% agreement, Kappa 0.76. Results : (1) monitored tooth-brushing affects oral hygiene status after 2 months (QHI was 2.82 and 1.9 before and after tooth-brushing) (p<0.001), (2) the effect of tooth-brushing in 3 groups was significantly diferent, with group C showed best improvement of oral hygiene status, while group B had the worst results (p < 0.001). Conclusion: We should give favorable conditions and teach primary school pupils to monitor their tooth- brushing themselves. Key words : oral hygiene, school base dental program, tooth-brushing school program ĐẶT VẤN ĐỀ Chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng cho học sinh (chương trình Nha Học đường - NHĐ) đã thực hiện trong nhiều năm qua trong cả nước và hiện vẫn là chương trình đang được * Phòng Chỉ đạo tuyến BV Răng Hàm Mặt Trung Ương tại TPHCM Tác giả liên lạc : ThS Vũ Thị Kiều Diễm ĐT: 0903969423 Email: kieudiemvt@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 273 quan tâm(1,5,8,15,16). Hiện nay, do nhu cầu gửi học sinh theo học bán trú ngày càng nhiều, nhất là ở các thành phố, nên có yêu cầu thực hiện việc chải răng tại trường cho học sinh sau bữa ăn trưa tại trường(17,7). Do nhân lực cán bộ NHĐ tại mỗi trường không đủ để giám sát, đánh giá việc chải răng của học sinh, giáo viên kiêm nhiệm quá nhiều công việc nên hầu như các trường để tự học sinh thực hiện chải răng mà không giám sát và đánh giá. Để xác định việc chải răng tại trường của học sinh cần phải có người giám sát hay không và ai là người giám sát có hiệu quả, nghiên cứu được thực hiện với các mục tiêu sau: Đánh giá hiệu quả chương trình chải răng đối với tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh. So sánh hiệu quả chải răng giữa các nhóm có sự theo dõi khác nhau (cán sự lớp, giáo viên, tự theo dõi). Nhận xét việc áp dụng 2 chỉ số OHI-S và QHI trong đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng trong nghiên cứu lâm sàng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Chọn ngẫu nhiên 3 lớp trong 4 lớp bán trú khối lớp 3 tại trường Tiểu học Phú Thọ quận 11 TPHCM, gồm 121 học sinh khối lớp 3 bán trú có độ tuổi 11, sống tại quận 11, TPHCM, chia làm 3 nhóm : (1) Nhóm A : Cán sự lớp theo dõi (40 học sinh), (2) Nhóm B : Giáo viên theo dõi (41 học sinh), (3) Nhóm C : Tự theo dõi (40 học sinh) Phương pháp nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng cộng đồng so sánh, phương pháp mù đơn Nhóm thực hiện nghiên cứu 03 bác sĩ khám đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng được tập huấn định chuẩn với độ kiên định từng điều tra viên (100%, 100%, 97%), tỉ lệ nhất trí 92% và chỉ số Kappa 0,76 và 03 y sĩ là thư ký ghi chép. Vật liệu và phương tiện nghiên cứu Vật liệu Kem đánh răng, bàn chải Colgate được cấp cùng loại Phương tiện nghiên cứu Bảng câu hỏi, phiếu khám đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng, bộ dụng cụ khám (gương khám, kẹp gắp, thám trâm), chất phát hiện mảng bám Erythrocine 127 (Oral-B) Cách sử dụng chất phát hiện mảng bám Học sinh đặt viên thuốc nhuộm mảng bám vào miệng nhai nát, không nuốt, dùng lưỡi liếm đều tất cả các mặt của các răng sao cho màu đỏ của thuốc tiếp xúc đều các răng. Cho nhổ nước miếng (không súc miệng) và thực hiện khám ngay. Thời gian không quá 1 phút. Các bước tiến hành nghiên cứu Huấn định chuẩn nhóm đánh giá và giám sát. Giáo dục vệ sinh răng miệng, phương pháp chải răng cho giáo viên và học sinh. Tập huấn cho học sinh sử dụng chất phát hiện mảng bám. Thực hiện nghiên cứu Đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng của 3 nhóm nghiên cứu trước và sau khi chải răng ở các thời điểm t0 : Trước khi thực hiện nghiên cứu t1 : Thực hiện nghiên cứu 1 tháng t2 : Thực hiện nghiên cứu 2 tháng Chỉ số đánh giá (1,4,6,9,11) Chỉ số mảng bám OHI-S (Oral Hygien Index- Simple) Chỉ số mảng bám QHI (Quigley-Hein Plaque Index) Thu thập và phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS 10.0, sử dụng test ANOVA, Mean difference và test χ 2 để kiểm nghiệm. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 274 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm mẫu nghiên cứu theo dân tộc và theo giới Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu theo dân tộc và theo giới Dân tộc Việt (Kinh) Hoa Tổng số Giới Nhóm Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ A SL 14 11 25 9 6 15 23 17 % 62,5 37,5 57,5 42,5 B SL 14 10 24 10 7 17 24 17 % 58,5 4 41,46 58,54 41,46 C SL 13 12 25 9 6 15 18 % 62,5 37,5 55 45 χ2 (dân tộc) = 0,54 p = 0,764 χ2 (giới) = 0,327 p = 0,849 Sự khác biệt về giới của 2 nhóm dân tộc Kinh và Hoa giữa các nhóm nghiên cứu không có ý nghĩa. Đặc điểm mẫu nghiên cứu theo thành phần gia đình Bảng 2 : Đặc điểm mẫu nghiên cứu theo thành phần gia đình Thành phần GĐ Nhóm A Nhóm B Nhóm C Lao động trí óc 39,02 28,21 28,21 Buôn bán nhỏ 17,07 10,26 10,26 Thất nghiệp 44 61,54 61,54 χ2 = 0,513 p = 0,774 Sự khác biệt về thành phần gia đình giữa các nhóm nghiên cứu không có ý nghĩa Tình trạng VSRM Trong nghiên cứu, học sinh của ba nhóm được giáo dục phương pháp chải răng và sử dụng thuốc nhuộm mảng bám để đánh giá trước và sau khi chải răng trong mỗi lần khám. Bảng 3: Chỉ số OHI-S ở ba nhóm nghiên cứu Thời điểm t0 X (SD) t1 X (SD) t2 X (SD) p Trước CR 2,01 (0,60) 2,1 (0,61) 1,6 (0,59) < 0,001 Nhóm A (40) Sau CR 1,61 (0,60) 1,66 (0,63) 1,19 (0,44) < 0,01 Nhóm B Trước CR 2,04 1,92 1,74 > 0,05 Thời điểm t0 X (SD) t1 X (SD) t2 X (SD) p (0,75) (0,64) (0,66) (41) Sau CR 1,62 (0,73) 1,52 (0,68) 1,25 (0,59) > 0,05 Trước CR 2,11 (0,49) 2,11 (0,35) 1,54 (0,63) > 0,05 Nhóm C (40) Sau CR 1,78 (0,43) 1,88 (0,36) 1,13 (0,53) < 0,001 Trước CR > 0,05 > 0,05 < 0,05 P Sau CR > 0,05 < 0,05 < 0,001 Trước CR 2,05 (0,62) 2,05 (0,65) 1,63 (0,63) Trung bình 3 nhóm (121) Sau CR 1,67 (0,60) 1,68 (0,59) 1,19 (0,52) Bảng 4 : Chỉ số QHI ở ba nhóm nghiên cứu Thời điểm t0 X (SD) t1 X (SD) t2 X (SD) p Trước CR 3,54 (0,85) 3,64 (1,03) 2,93 (0,87) < 0,01 Nhóm A (40) Sau CR 2,82 (0,96) 2,74 (1,06) 2,01 (0,71) < 0,01 Trước CR 3,45 (1,21) 3,13 (1,12) 2,88 (1,16) > 0,05 Nhóm B (41) Sau CR 2,52 (1,33) 2,29 (1,20) 1,93 (1,02) > 0,05 Trước CR 3,58 (0,65) 3,36 (0,38) 2,65 (0,95) > 0,05 Nhóm C (40) Sau CR 2,98 (0,54) 2,94 (0,45) 1,76 (0,91) < 0,001 Trước CR > 0,05 0,05 P Sau CR > 0,05 > 0,05 < 0,001 Trước CR 3,52 (0,93) 3,38 (0,92) 2,82 (1,0) Trung bình 3 nhóm (121) Sau CR 2,77 (1,01) 2,65 (0,99) 1,9 (0,89) Bảng 5: So sánh tình trạng VSRM giữa các thời điểm cûa nhóm A Giá trị so sánh Chỉ số VSRM t0 – t1 p t0 – t2 p t1 – t2 p t0 – t1 – t2 p Trước CR 1,0 ns 0,002** 0,001** 0,000*** OHI-S Sau CR 1,0 ns 0,012* 0,001** 0,001*** Trước CR 1,0 ns 0,015* 0,005** 0,003** QHI Sau CR 0,815 ns 0,027* 0,003** 0,004** ns : Sự khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05) * Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) ** Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,01) *** Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,001) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 275 Tình trạng VSRM của nhóm A không khác nhau trước và sau chải răng giữa 2 thời điểm t0 – t1 (p > 0,05) và khác nhau có ý nghĩa giữa các thời điểm t0 – t2, t1 – t2 (p < 0,05). Bảng 6 : So sánh tình trạng VSRM giữa các thời điểm cûa nhóm B Giá trị so sánh Chỉ số VSRM t0 – t1 p t0 – t2 p t1 – t2 p t0 – t1 – t2 p Trước CR 1,0 0,232 0,576 0,186 OHI-S Sau CR 1,0 0,299 0,234 0,143 Trước CR 0,941 0,144 0,977 0,140 QHI Sau CR 1,0 0,411 0,472 0,245 Sự khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05) ở tất cả các so sánh Bảng 7 : So sánh tình trạng VSRM giữa các thời điểm cûa nhóm C Giá trị so sánh t0 – t1 p t0 – t2 p t1 – t2 p t0 – t1 – t2 p Trước CR 0,222 ns 1,0 ns 1,0 ns 0,201 nsOHI-S Sau CR 0,000*** 0,000*** 0,024* 0,000*** Trước CR 1,0 ns 1,0 ns 0,82 ns 0,546 ns QHI Sau CR 0,000*** 0,000*** 0,036* 0,000*** ns : Sự khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05) * Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05); ** Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,01) *** Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,001) Tình trạng VSRM của nhóm C giảm trước chải răng không có ý nghĩa (p > 0,05), và sau chải răng giảm có ý nghĩa (p < 0,05, < 0,001). Như vậy, tình trạng VSRM của cả ba nhóm có cải thiện sau 2 tháng nghiên cứu : Nhóm A : tình trạng VSRM cải thiện rõ rệt trước chải răng và sau chải răng (p < 0,01). Nhóm B : tình trạng VSRM được cải thiện nhưng sự thay đổi này không có ý nghĩa (p > 0,05). Nhóm C : tình trạng VSRM được cải thiện khá tốt so với hai nhóm A và B. Sự thay đổi tình trạng VSRM trước chải răng không có ý nghĩa, và sau chải răng thì rất có ý nghĩa (p<0,001). Tình trạng VSRM giữa ba nhóm trước và sau chải răng ở thời điểm ban đầu không khác nhau, sau hai tháng nghiên cứu, tình trạng VSRM thay đổi có ý nghĩa trước khi chải răng (p < 0,05) và sau khi chải răng (p < 0,001). Hiệu quả chương trình chải răng đối với tình trạng VSRM Tình trạng VSRM của học sinh lớp 3 bán trú của trường Tiểu học Phú Thọ nhìn chung cải thiện sau hai tháng, đặc biệt sau khi chải răng (bảng 3 và 4). Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây: kiến thức, thái độ và hành vi đều ảnh hưởng đến tình trạng VSRM (1,2,9,14,17), và thực hành chải răng với giáo dục VSRM lập lại cải thiện đáng kể tình trạng VSRM(2,3,7,8,13,17). Vì học sinh ở các nhóm nghiên cứu đều được giáo dục SKRM và thực hành chải răng sau mỗi lần ăn trưa. Bằng biện pháp cơ học sẽ giảm được bựa bám và kiểm soát được tình trạng viêm nướu (Logan và Coffman). Giáo dục nha khoa lập lại và tăng cường hơn một năm cải thiện đáng kể tình trạng VSRM (Emler vaø Windchy)(3). Nghiên cứu thực hiện hai tháng đã ghi nhận kết quả khá tốt, chúng tôi nghĩ nếu thực hiện trong thời gian dài hơn thì tình trạng VSRM sẽ được cải thiện tốt hơn. Hiệu quả chương trình chải răng có theo dõi đối với tình trạng VSRM Ở thời điểm ban đầu tình trạng VSRM không khác nhau giữa các nhóm vì đối tượng nghiên cứu là học sinh cùng khối lớp, có cùng điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, kết quả khác nhau do các nhóm được theo dõi chải răng với những người khác nhau. Tuy nhiên, tình trạng VSRM của học sinh vẫn còn ở mức độ kém (>3,5 – QHI, >2 – OHI-S) vậy chải răng do chưa được theo dõi tốt hay kỹ năng chải răng chưa tốt hay chưa hướng dẫn học sinh cách tự giám sát ? Cần cung cấp cho học sinh kỹ thuật chải răng, học sinh thực hành để tạo thói quen chải răng và tạo điều kiện cho học sinh tự giám sát chải răng (chải răng trước gương với ánh sáng tốt). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 276 Trong nghiên cứu đã thực hiện giáo dục SKRM cho học sinh, cho thực hành chải răng ngay sau khi ăn trưa tại bồn chải răng có gương soi. Kết quả ghi nhận sau mỗi lần đánh giá ở cả 2 chỉ số đều giảm ở cả 3 nhóm. Điều này giúp khẳng định hiệu quả của giáo dục SKRM, giúp hoc sinh có thái độ, hành vi tốt trong việc chăm sóc SKRM(5,10,12,14). Sau 2 tháng, tình trạng VSRM của học sinh có cải thiện nhưng vẫn ở mức trung bình, nếu nghiên cứu được thực hiện liên tục và lâu hơn thì tình trạng VSRM sẽ cải thiện tốt hơn. Nhóm A : Tình trạng VSRM có cải thiện, tuy nhiên giữa 2 thời điểm t0 – t1 không khác nhau và giữa các thời điểm t0 – t2, t1 – t2 trước và sau chải răng khác nhau có ý nghĩa (p < 0,05, < 0,01, < 0,001). Chúng tôi nghĩ rằng trong tháng đầu do chưa ổn định nên việc chải răng chưa tốt nhưng khi đã đi vào nề nếp thì đem lại hiệu quả đáng kể. Chương trình này có hiệu quả đối với nhóm A. Nhóm B : Tình trạng VSRM mặc dù có cải thiện nhưng ở mức độ ít hơn nhóm A và nhóm C và sự thay đổi không có ý nghĩa. (p > 0,05).. Vậy không nhất thiết giáo viên là người theo dõi học sinh chải răng tại trường. Nhóm C : Tình trạng VSRM có cải thiện nhưng khác nhau giữa các nhóm thời điểm t0 – t1, t0 – t2, t1 – t2 trước chải răng không có ý nghĩa, khác nhau giữa các nhóm thời điểm t0 – t1, t0 – t2, t1 – t2 sau chải răng có ý nghĩa (p < 0,05, < 0,001). Giáo dục SKRM trước khi thực hiện nghiên cứu không ảnh hưởng đến tình trạng VSRM của nhóm C, sự cải thiện tình trạng VSRM sau chải răng ở mỗi thời điểm được xem là rất có hiệu quả (p < 0,001), điều này cũng hợp lỳ vì một phần các lớp bán trú có vị trí lên tiếp nhau nên có ảnh hưởng khi đánh giá, mặt khác do các em ý thức được việc chải răng nên tình trạng VSRM sau chải răng thay đổi có ý nghĩa. Vậy có nên chọn nhóm tự theo dõi ở trường khác hay ở vị trí xa các nhóm khác để không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu?. Để xác định việc theo dõi chải răng của nhóm nào có hiệu quả, tôi sử dụng mean difference của ba nhóm để so sánh. Bảng 8 : Mean difference của các nhóm nghiên cứu Nhóm A B C Mean difference (OHI-S) 0,42 0,37 0,65 Mean difference (QHI) 0,81 0,59 1,22 Hiệu quả chải răng của nhóm C tốt nhất và sự thay đổi đều có ý nghĩa, nhóm A ít cải thiện hơn nhưng có ý nghĩa, nhóm B ít cải thiện nhất và không có ý nghĩa (bảng 3 và 4). Vậy chương trình chải răng tại trường không nhất thiết phải là giáo viên. Nên cung cấp kiến thức cho học sinh, tập thực hành chải răng và tạo điều kiện cho học sinh tự hoàn thiện kỹ năng chải răng. Bảng 7 cho thấy : Tình trạng vệ sinh răng miệng của nhóm C cải thiện khá tốt so với nhóm A và nhóm B. Chỉ số QHI cho kết quả chi tiết và tình trạng VSRM cải thiện rõ hơn chỉ số OHI-S. KẾT LUẬN Các nội dung giáo dục nha khoa cần thực hiện ở lứa tuổi sớm hơn và chỉ cần nhắc lại ở bậc tiểu học Nên thực hiện chương trình chải răng tại trường ngay sau khi ăn trưa cho học sinh bán trú kết hợp với đảm bảo các điều kiện của chương trình (bồn chải răng, ánh sáng, hệ thống nước cấp và nước thóat ). Để phát huy tính tự lập của lứa tuổi học sinh, chương trình chải răng cho học sinh bán trú tại trường để học sinh tự giám sát, giáo viên chỉ cần nhắc nhở. Khuyến khích cá nhân tự kiểm soát tình trạng vệ sinh răng miệng và sử dụng các biện pháp phát hiện mảng bám. Nên sử dụng rộng rãi chỉ số QHI đánh giá tình trạng VSRM trong nghiên cứu thử nghiệm hay theo dõi tình trạng VSRM của học sinh trong trường học. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 277 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Thị Hồng Quân, Chỉ số đo lường mảng bám và vôi răng, 1999 Giáo trình Nha khoa công cộng – tập 1, tr. 46 – 47. 2. Elliott. J.R, Bowers. G.M, Clemmer. B. A, Rovelstad. G.H, Evaluation of an Oral Physiotherapy Center in the Reduction of Bacterial Plaque and Periodontal Disease, 1972 April 7 Clinical Periodontology, Glikman, pp. 929 – 938. 3. Emler. B.F, Windchy. A.M, Zaino. S.W, Feldman. S.M, Scheetz. J.P, The value of repetition and reinforcement in improving oral hygiene performance, 1980 Apr, J periodontal, 51(4): 228 – 34. 4. Fischman S.L, Cerrent status of indices of plaque., 1986 May J. periodontal,, pp. 371 – 374. 5. Hui D, Zheng SG, Chu XY, Liu ZP () Efficacy of an Oral Health Education Initiative-Bright smiles, Bright futures- Among School children in China, 2000 Advances and progress in Oral health through Oral care education, Scientific proof effectiveness of a Global oral health education initiative, An update, pp. 6 – 9. 6. Isman.B,E, Indices in dental epidemiology, 1998 Mosby’s comprehensive review of dental hygien, 4th Edition, Michele L.Darby, pp. 636 – 637. 7. Kawamura.M, Takase.N, Sasaharai.H, Okada.M, A causal relationship between oral health behaviour and oral health status in Japanese children aged 10 to 18 years, 2002, Journal of Dental research, Volum 81, (special issue A) –, pp. 274. 8. Lê Thị Kim Oanh, Khảo sát kiến thức và tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh Tiểu học tỉnh Long An (so sánh nhóm có chải răng và không có chải răng tại trường), 2002, Luận văn Thạc sĩ Y học, ĐHYD Tp. HCM. 9. Loe H, The gingival index, the plaque index.J.periodotol, part II,1967, pp. 610 – 616. 10. Naioo.J, Wills.J, Health promotion - foundations for practice, Baillière Tindall, 1994, pp. 188 – 202, 240 – 246. 11. National Institute of Dental and Craniofacial research. Dental, oral and Craniofacial Data Resource Center.Archive of procedures and methods used in oral health surveys DRAFT, 2001, pp. 76 – 98. 12. Ngô Đồng Khanh, Tài liệu giáo dục sức khoẻ răng miệng cho học sinh Tiểu học (tài liệu dành cho giáo viên), 1997, Viện Răng Hàm Mặt TP.HCM 13. Nguyễn Thị Phương Uyên, Khảo sát hiệu quả làm sạch mảng bám của phương pháp hướng dẫn chải răng tích cực trên học sinh tiểu học, 2003, Tiểu luận tốt nghiệp bác sĩ Răng Hàm Mặt, ĐHYD Tp.HCM 14. “Rich BA, Hill C, Jersey N, (1998): Oral-B Laboratories: “ Snack Smart for Healthy Teeth”, Fact Sheet, Academy Of Dentistry, 3/1998. 15. Utoyo SAA, Carlsson P, Gennady Bratthall.DB, School- based Primary preventive programme for children, 1998, World Health Organization, Geneva. 16. Vũ thị Kiều Diễm, Lê Đình Giáp, Ngô Đồng Khanh, Đánh giá mô hình quản lý sức khỏe răng miệng theo mục tiêu ở trường tiểu học Phú Thọ – Q.11 – TP.HCM sau 5 năm (1993 – 1998), Kỷ yếu công trình khoa học Viện Răng Hàm Mặt Tp. HCM,1994 – 2000, tr. 31 – 39. 17. Zufarov. AA, Shadiev KK, Leous PA, Alimova RG, Kazeko LA, Tuchtabaeva. M.A, Youdina.N.A, Efficacy of supervised toothbrushing school programme on oral hygiene in 7 years old children, 2000, Ministry of Health Uzbekistan, J Dent Res (IADR Abstracts: 299.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_chai_rang_co_theo_doi_tren_tinh_trang_ve_s.pdf