Khi so sánh mức độ vi kẽ giữa nhóm 1 là nhóm
phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán
cement resin tự xoi mòn (Multilink N) và nhóm 2 là
nhóm phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán
RMGIC (Fuji Plus), nhóm 1 cho giá trị mức độ vi kẽ
thấp hơn so với nhóm 2 và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với mức ý nghĩa p < 0,05. Kết quả này phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Peutzfeldt A. và cộng
sự (2011), Gavranovic-Glamoc (2017), Võ Văn Nhân
(2011) [1], [10], [12]. Kết quả tiếp hợp bờ ở nhóm sử
dụng vật liệu dán cement resin tự xoi mòn (Multilink
N) vượt trội hơn so với nhóm sử dụng vật liệu dán
là RMGIC (Fuji Plus) có thể được giải thích bởi thành
phần cấu tạo của vật liệu. Trong nghiên cứu này, bên
cạnh phương thức cơ học xử lý bề mặt sứ bằng thổi
cát với Al2O3 50micron, cường độ 1bar, hệ thống
dán cement resin tự xoi mòn Multilink N với thành
phần monomer methacrylate có gốc acid phosphonic
(trong thành phần của Multilink Primer) khi tác dụng
với zirconium tạo ra các gốc phosphonate ổn định,
giúp làm ướt bề mặt sứ và tạo điều kiện cho việc hình
thành các liên kết hóa học với cement dán. Tính chất
này cũng đủ ổn định để kháng lại các áp lực tạo ra do
chu trình nhiệt [20]. Trong khi vật liệu dán cement
glass ionomer tăng cường nhựa Fuji Plus không có
thành phần xử lý bề mặt sứ zirconia như Multilink
Primer và chỉ tạo độ lưu trên bề mặt sứ bằng phương
thức cơ học (thổi cát).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá in vitro vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng inlay sứ zirconia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Văn Trí, email: drtruongtri@gmail.com
Ngày nhận bài: 5/10/2018, Ngày đồng ý đăng: 22/10/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
Đánh giá in vitro vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng inlay sứ zirconia
Hồ Xuân Anh Ngọc, Phan Anh Chi, Nguyễn Toại
Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Các phục hồi xoang loại II bằng inlay sứ zirconia vẫn còn gặp nhiều lo ngại về đảm bảo liên kết
dán giữa phục hồi và mô răng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức độ vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng
inlay sứ zirconia khi sử dụng hai loại vật liệu dán khác nhau và so sánh với phục hồi trực tiếp bằng composite.
Mục tiêu: Đánh giá mức độ vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng ba phương pháp khác nhau. Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực nghiệm trong labo với ba nhóm.Ba mươi răng cối nhỏ vĩnh viễn
của người được sửa soạn xoang loại II theo cùng kích thước và được chia thành 3 nhóm một cách ngẫu nhiên
và được phục hồi theo 3 phương pháp khác nhau. Nhóm 1: Phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán là
xi măng resin tự xoi mòn(Multilink N); nhóm 2: Phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán là xi măng glass
ionomer tăng cường nhựa(Fuji Plus); nhóm 3: Phục hồi trực tiếp bằng composite nguyên khối Tetric N-Ceram
Bulk Fill. Sau khi thực hiện phục hồi, tất cả các phục hồi được thực hiện chu trình nhiệt (100 chu kỳ, 50C –
550C) rồi ngâm phục hồi vào dung dịch xanh methylen 2% trong 24 giờ. Mức độ vi kẽ xác định bằng mức
thâm nhập chất màu dọc thành nướu được đánh giá theo hai phương pháp định lượng và bán định lượng.
Kết quả: Trong 3 phương pháp phục hồi xoang loại II thực hiện trong nghiên cứu, nhóm 1 cho thấy mức độ vi
kẽ thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với các nhóm còn lại, trong khi đó nhóm 2 và nhóm 3 không cho thấy sự
khác biệt có ý nghĩa. Kết luận: Phục hồi inlay sứ zirconia dán bằng cement resin tự xoi mòn cho mức độ vi kẽ
thấp nhất khi so sánh với phục hồi inlay sứ zirconia sử dụng cement glass ionomer tăng cường nhựa và phục
hồi trực tiếp bằng composite nguyên khối.
Từ khóa: inlay, sứ zirconia, xoang loại II, vi kẽ.
Abstract
Microleakage of class II restoration with zirconia inlay: An in vitro
study
Ho Xuan Anh Ngoc, Phan Anh Chi, Nguyen Toai
Faculty of Odonto-Stomalogy, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Class II restoration with zirconia inlay is concerned by numerous studies about the luting
coupling between zirconia inlay and teeth. The present study was performed to evaluate the microleakage
of Class II zirconia inlayusing two different luting agents and compare to direct restoration using bulk fill
composite. Aims: To evaluate the microleakage of Class II restorations using three different techniques.
Materials and methods: The study was performed in laboratory with three groups. Each of thirty extracted
human teeth was prepared a class II cavity with the same dimensions, then these teeth were randomly
divided into 3 groups restored by 3 different approaches. Group 1: zirconia inlay cemented with self-etch
resin cement (Multilink N); Group 2: zirconia inlay cemented with resin-modified glass ionomer cement (Fuji
Plus); Group 3: direct composite restoration using bulk fill composite(Tetric N-Ceram Bulk Fill). All restorations
were subjected to thermal cycling (100 cycles 50C – 55 0C), then immersed to 2% methylene blue solution for
24 hours. The microleakage determined by the extent of dye penetration along the gingival wall was assessed
using two methods: quantitative and semi-quantitative method. Results: Among three types of restorations,
group 1 demonstrated the significantly lower rate of leakage compared to the others, while group 2 and
3 showed no significant difference. Conclusion: Zirconia inlay restoration cemented with self-etch resin
cement has least microleakage degree when compare to class II zirconia inlay restoration cemented with
resin-modified glass ionomer cement and direct composite restoration using bulk fill composite.
Key word: inlay, zirconia ceramic, class II restoration, microleakage.
Phan Anh Chi, email: pachi@huemed-univ edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2019.5.9
23/3 9 0 5/2019; Ngày xuất bản: 26 8/2019
62
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi thực hiện phục hồi ở răng sau, các phục hồi
trực tiếp bằng composite cho hiệu quả thẩm mỹ
tốt và có thể giúp gia cố độ vững chắc của phần
mô răng còn lại nhờ vào hệ thống dán. Tuy nhiên,
sự co do trùng hợp có thể gây ảnh hưởng đến lực
dán giữa răng và composite đưa đến vi kẽ, từ đó
gây hở bờ miếng trám, kích thích tủy, nhạy cảm
sau phục hồi, đổi màu ở bờ miếng trám và sâu thứ
phát[5],[8]. Nhằm đáp ứng mong muốn khắc phục
những vấn đề gặp phải khi phục hồi trực tiếp bằng
composite, inlay đã được giới thiệu vào những năm
1980, phương pháp này được cho là giúp kiểm soát
tốt hơn về mặt giải phẫu và tiếp xúc mặt bên cũng
như sự tiếp hợp bờ của phục hồi[4], đồng thời sự co
do trùng hợp chỉ giới hạn ở lớp mỏng cement gắn
[16]. Ngoài ra, sự phát triển của các hệ thống chế
tác phục hồi nha khoa bằng máy cũng như các phát
tiến về vi cấu trúc mới của vật liệu sứ nha khoa đã
đưa đến những thay đổi quan trọng trong quá trình
thực hành lâm sàng cũng như cho phép bệnh nhân
có nhiều lựa chọn điều trị hơn trước. Một trong
những thay đổi quan trọng trong bối cảnh đó chính
là sự ra đời của các loại phục hồi đúc nguyên khối
từ các vật liệu sứ có độ cứng cao, như zirconia, giúp
đảm bảo hoạt động chức năng khi phục hồi các răng
sau[15]. Tuy nhiên, việc đảm bảo liên kết dán giữa
mô răng với bề mặt zirconia hiện vẫn còn gặp nhiều
khó khăn, đưa đến mối lo ngại về sự hở bờ, vi kẽ tại
bờ phục hồi. Hiện nay, trong phạm vi tìm hiểu của
chúng tôi, các nghiên cứu về vi kẽ ở các phục hồi
xoang loại II chưa có nhiều, tại Việt Nam đã có các
nghiên cứu về vi kẽ trên inlay sứ, nhưng mới chỉ có
các nghiên cứu về các hệ thống inlay sứ khác[1],[3].
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với
các mục tiêu sau:
1. Đánh giá mức độ vi kẽ trong phục hồi xoang
loại II bằng các phương pháp: inlay sứ zirconia kết
hợp với cement resin tự xoi mòn, inlay sứ zirconia
kết hợp với cement glass ionomer tăng cường nhựa
và trám trực tiếp với composite nguyên khối.
2. So sánh vi kẽ giữa ba loại phục hồi xoang loại
II bằng các phương pháp trên.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu được thực hiện trên 30 răng cối
nhỏ của người đã nhổ.
- Tiêu chuẩn chọn răng: Răng cối còn nguyên
vẹn, không có phục hồi hoặc tổn thương trên răng,
đã đóng chóp.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu thực nghiệm trong labo có nhóm
chứng.
- Biến số nghiên cứu là độ thâm nhập phẩm màu
ở thành nướu và thành trục mặt nhai.
2.2.2. Chuẩn bị mẫu
Nghiên cứu được thực hiện trên 30 răng cối nhỏ
của người đã nhổ. Sau khi được làm sạch, bảo quản
trong dung dịch nước muối sinh lý, các răng được
chia ngẫu nhiên vào ba nhóm với mỗi nhóm 10 răng.
Các răng được tạo xoang loại II kép với kích thước
xoang như sau:
* Chiều rộng eo đuôi én: 1,5mm
* Kích thước gần xa của xoang mặt nhai: 4mm
* Độ sâu xoang mặt nhai: 2mm
* Độ sâu xoang mặt bên từ đáy xoang mặt nhai:
2mm
* Thành nướu: kích thước ngoài - trong: 3mm,
kích thước gần - xa: 2mm
* Thành ngoài và trong của xoang phân kỳ về
phía mặt nhai, tạo với đáy xoang 1 góc 95 độ
2.2.3. Thực hiện phục hồi
- Nhóm I: phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật
liệu gắn là cement resin tự xoi mòn (Multilink N):
Gửi răng đã sửa soạn đến labo để thực hiện inlay sứ
zirconia bằng CAD/CAM tại labo. Sau khi hoàn thành,
inlay được thổi cát Al2O3 kích thước 50 micron với
cường độ 1bar. Sau đó, inlay được lắp thử trên
răng, kiểm tra độ khít sát và mài chỉnh.Bôi keo dán
Monobond - N lên bề mặt inlay, để vật liệu phản ứng
trong 60 giây, sau đó thổi hơi để lan tỏa vật liệu.Trộn
đều Primer A và B có sẵn trong bộ vật liệu Multilink
N theo tỉ lệ 1:1 và quét lên bề mặt xoang trong vòng
30 giây, sau đó thổi hơi để lan tỏa vật liệu. Bơm
Multilink N lên mặt trong của inlay rồi đặt inlay vào
xoang, ấn giữ phục hình đồng thời chiếu đèn ở mỗi
mặt (mặt ngoài, mặt trong, mặt nhai, mặt bên) trong
vòng 10 giây. Lấy bỏ phần vật liệu gắn thừa đặc biệt
ở vùng bờ phục hình
- Nhóm II: phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật
liệu gắn là RMGIC (Fuji Plus): Gửi răng đã sửa soạn
đến labo để thực hiện inlay sứ zirconia bằng CAD/
CAM tại labo. Sau khi hoàn thành, inlay được thổi
cát Al2O3 kích thước 50 micron với cường độ 1bar.
Sau đó, inlay được lắp thử trên răng, kiểm tra độ
khít sát và mài chỉnh. Xử lý bề mặt xoang bằng GC
Fuji Plus conditioner trong 20 giây rồi rửa nước và
thổi nhẹ để bề mặt xoang còn ẩm ướt. Trộn đều Fuji
Plus chất bột/chất lỏng theo tỉ lệ tương ứng 3 thìa
bột/ 1 thìa lỏng rồi phủ cement lên toàn bộ bề mặt
xoang và bề mặt inlay đã được xử lý, đặt inlay vào
xoang, ấn giữ phục hình, lấy bỏ phần cement thừa
và chờ cho vật liệu đông cứng trong vòng 2-3 phút.
- Nhóm III: phục hồi trực tiếp bằng composite
63
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
nguyên khối (Tetric N-Ceram Bulk Fill): Chuẩn bị
xoang, rửa kỹ bằng xịt nước và thổi khô với luồng
hơi. Xoi mòn bằng acid phosphoric 37% trong 15
giây rồi rửa sạch và thổi khô. Bôi keo dán Tetric
N-Bond lên bề mặt xoang, để vật liệu phản ứng
trong 10 giây, sau đó thổi hơi để lan tỏa vật liệu rồi
chiếu đèn trùng hợp trong 10 giây. Lấy một lượng
Tetric N-Ceram Bulk Fill hơi dư so với kích thước
xoang trám, đặt composite, nhồi và điêu khắc miếng
trám. Chiếu đèn trùng hợp từ phía ngoài, phía trong,
phía bên và phía mặt nhai với 10 giây cho mỗi lần
chiếu, chiếu đèn từ phía nhai 40 giây.
2.2.4. Đánh giá phục hồi
Sau khi phục hồi, các răng được ngâm trong dung
dịch nước muối sinh lý 24 giờ, sau đó thực hiện chu
trình nhiệt với 100 chu kỳ nhiệt từ 5oC đến 55oC,
thời gian dừng ở mỗi điểm nhiệt là 25 giây, thời gian
chuyển đổi giữa 2 điểm nhiệt là 5 giây. Tiếp theo, các
mẫu nghiên cứu được cách ly bằng cách che chóp
răng bằng sáp và quét 2 lớp vernis sơn móng tay lên
toàn bộ bề mặt răng, chừa lại 1mm xung quanh bờ
phục hồi. Sau đó, ngâm răng trong dung dịch xanh
methylen 2% trong 24h. Mẫu nghiên cứu sau khi
ngâm được làm sạch và cắt dọc theo chiều gần-xa
qua giữa phần phục hồi bằng đĩa cắt kim cương.
Từ đó, mức độ vi kẽ sẽ được đánh giá trên mặt
cắt bằng mức độ xâm nhập phẩm nhuộm vào thành
nướu và thành trục mặt nhai với hai phương pháp:
định lượng và bán định lượng.
- Đánh giá vi kẽ bằng phương pháp bán định
lượng
+ Quan sát bằng kính hiển vi kĩ thuật số Digital
Microscope với độ phóng đại 30 lần.
+ Đánh giá mức độ xâm nhập của dung dịch màu
theo thang điểm Ferrari (1996) được nhiều nghiên
cứu sử dụng[2],[13]:
Tại thành nướu:
* 0: không xâm nhập màu.
* 1: xâm nhập phẩm nhuộm ít hơn 1/2 chiều dài
thành nướu.
* 2: xâm nhập phẩm nhuộm hơn 1/2 chiều dài
thành nướu nhưng chưa đến thành trục.
* 3: xâm nhập phẩm nhuộm toàn bộ thành nướu
lan đến thành trục.
Tại thành trục mặt nhai:
* 0: không xâm nhập màu.
* 1: xâm nhập phẩm nhuộm ít hơn 1/2 chiều dày
lớp men.
* 2: xâm nhập phẩm nhuộm hơn 1/2 chiều chiều
dày lớp men nhưng chưa đến đường nối men ngà.
* 3: xâm nhập phẩm nhuộm đến hoặc vượt qua
đường nối men ngà.
+ Mức xâm nhập phẩm nhuộm được đánh giá
ở cả 2 nửa cắt của răng và chọn giá trị lớn hơn làm
mức điểm vi kẽ của răng đó.
- Đánh giá vi kẽ bằng phương pháp định lượng
+ Quan sát bằng kính hiển vi kĩ thuật số Digital
Microscope với độ phóng đại 50 lần.
+ Quan sát và chụp ảnh phần phục hồi dưới kính
hiển vi và truyền hình ảnh vào máy tính bằng phần
mềm được tích hợp cho kính hiển vi. Mỗi phục hồi
cần quan sát trên hai vi trường, một vi trường ở
thành nướu và một vi trường ở thành trục mặt nhai
sao cho thấy toàn bộ đường viền giữa phục hồi và
mô răng.
+ Chụp ảnh thước đo với độ chia nhỏ nhất là
1mm với cùng quy cách như chụp ảnh phục hồi.
+ Chuyển hình vào phần mềm ImageJ để đo đạc
theo các bước:
* Đo chiều dài 1mm của thước đo trên ảnh, đặt
chiều dài đó làm đơn vị đo tương đương 1mm
* Đo chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm ở thành
nướu và thành trục mặt nhai.
* Kết quả sẽ được phần mềm thể hiện theo
milimet.
+ Mức xâm nhập phẩm nhuộm được đánh giá
ở cả 2 nửa cắt của răng và chọn giá trị lớn hơn làm
mức vi kẽ của răng đó.
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
- Quan sát viên đánh giá và ghi vào phiếu kết quả
quan sát.
- Biến số thuộc loại biến thứ tự và biến định
lượng liên tục, mẫu nhỏ, so sánh từng cặp, các nhóm
độc lập. Kiểm định so sánh bằng phương pháp phi
tham số dùng phép kiểm định U của Mann-Whitney
và phép kiểm định Kruskall - Wallis trong phần mềm
SPSS để phân tích dữ liệu.
2.3. Đạo đức nghiên cứu
Chúng tôi cam đoan công trình nghiên cứu trên là
do chúng tôi thực hiện, mẫu nghiên cứu là các răng
của người đã được nhổ vì bệnh lý hoặc vì yêu cầu
chỉnh nha, thao tác nghiên cứu không ảnh hưởng
đến bệnh nhân. Việc nghiên cứu được sự đồng ý của
Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược Huế và
Ban Chủ nhiệm Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học
Y Dược Huế.
64
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Số lượng vi kẽ quan sát được ở các nhóm
Nhóm Số lượng Không có
vi kẽ
Vi kẽ
Thành nướu Thành trục mặt nhai Cả hai vị trí
1 10 5 4 3 2
2 10 0 9 8 7
3 10 0 10 9 9
Tổng 30 5 23 20 18
Tỉ lệ (%) 100 16,67% 76,67% 66,67% 60%
Nhận xét: Kết quả về số lượng mẫu có xâm nhập phẩm nhuộm cho thấy số lượng mẫu có vi kẽ chiếm
25/30 mẫu, tương ứng với tỉ lệ 83,33%; số lượng mẫu không có vi kẽ chiếm tỉ lệ 16,67% với 5/30 mẫu.
- Trong đó, vi kẽ tại thành nướu với 23 mẫu chiếm 76,67%, vi kẽ tại thành trục mặt nhai có 20 mẫu chiếm
66,67%.
- Ở nhóm 2 và nhóm 3, tỉ lệ mẫu nghiên cứu không có vi kẽ chiếm 0%. Nhóm 1 có 5 mẫu nghiên cứu (chiếm
50% số mẫu) hoàn toàn không có sự xâm nhập phẩm nhuộm.
Bảng 2. So sánh mức điểm vi kẽ tại thành nướu
Nhóm Số lượng Trung bình
p
1 2 3
1 10 0,80 - 0,02 0,001
2 10 2,10 - 0,154
3 10 2,70 -
Kiểm định Mann - Whitney
Nhận xét: Kết quả so sánh bắt cặp mức điểm vi kẽ tại thành nướu giữa ba nhóm bằng phép kiểm định
Mann – Whitney cho thấy:
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành nướu của nhóm 1 là 0,80 và nhóm 2 là 2,10 với giá trị p = 0,02.
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành nướu của nhóm 1 là 0,80 và nhóm 3 là 2,70 và giá trị p là 0,001.
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành nướu của nhóm 2 là 2,10 và nhóm 3 là 2,70 với giá trị p = 0,154.
Bảng 3. So sánh mức điểm vi kẽ tại thành trục mặt nhai
Nhóm Số lượng Trung bình
p
1 2 3
1 10 0,50 - 0,018 0,003
2 10 1,80 - 0,569
3 10 2,20 -
Kiểm định Mann - Whitney
Nhận xét: Kết quả so sánh bắt cặp mức điểm vi kẽ tại thành trục mặt nhai giữa ba nhóm bằng phép kiểm
định Mann – Whitney cho thấy:
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành trục mặt nhai của nhóm 1 là 0,50 và nhóm 2 là 1,80 với giá trị p =
0,018.
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành trục mặt nhai của nhóm 1 là 0,50 và nhóm 3 là 2,20 và giá trị p là
0,003.
- Mức điểm vi kẽ trung bình tại thành trục mặt nhai của nhóm 2 là 1,80 và nhóm 3 là 2,20 với giá trị p =
0,569.
65
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
4. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau phục hồi dù
sử dụng phương pháp phục hồi trực tiếp bằng
composite nguyên khối hay phục hồi gián tiếp bằng
inlay sứ zirconia, dù sử dụng vật liệu dán là RMGIC
hay hệ thống dán tự xoi mòn, tất cả các nhóm đều có
xuất hiện vi kẽ với các mức độ khác nhau. Không có
nhóm nào trong ba nhóm nghiên cứu của chúng tôi
có sự tiếp hợp bờ hoàn hảo. Kết quả này cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả Trần Hồng
Xuân (2014), Swapna và cộng sự (2015), Owittayakul
(2015), nghiên cứu của các tác giả này đều cho thấy
tất cả các nhóm phục hồi bằng composite nguyên
khối hay phục hồi bằng inlay sứ zirconia với các vật
liệu dán khác nhau đều không loại bỏ hoàn toàn vi
kẽ [2], [11], [17]. Nguyên nhân của kết quả này có
thể được giải thích bởi sự co do trùng hợp cũng
như sự thay đổi thể tích của khối vật liệu phục hồi
(composite nguyên khối, sứ zirconia) và vật liệu dán
(cement glass ionomer tăng cường nhựa, cement
resin) trong quá trình đông cứng và khi thử thách
dưới chu trình nhiệt có thể đưa đến kết quả làm phá
vỡ mối liên kết dán với bề mặt mô răng, dẫn đến sự
hình thành vi kẽ trong tất cả các nhóm phục hồi.
Khi đánh giá mức độ vi kẽ nói chung quan sát
được giữa các nhóm, kết quả cho thấy vi kẽ tại thành
nướu với 23/30 mẫu (chiếm 76,67%), nhiều hơn vị
trí tại thành trục mặt nhai với 20/30 mẫu (chiếm
66,67%). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Pontes (2014) đối với mức độ vi kẽ tại thành nướu và
thành nhai cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai vị trí, tuy nhiên kết quả của chúng
tôi không phù hợp với nghiên cứu của Swapna và
cộng sự (2015), nghiên cứu này so sánh mức độ vi kẽ
giữa thành nướu và thành nhai trên phục hồi xoang
loại II bằng composite cho kết quả vi kẽ tại thành
nướu nhiều hơn vi kẽ tại thành nhai và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê [17]. Sự khác biệt này được
Swapna giải thích bởi vị trí sửa soạn thành nướu của
xoang loại II của tác giả này sát với đường nối men xê
măng nên thành nướu được cấu tạo bởi ngà răng và
xê măng răng, và lực dán lên ngà răng luôn thấp hơn
so với men răng do sự khác biệt về hình thái, mô học
và thành phần cấu tạo. Men răng có đặc điểm mức
độ khoáng hóa cao hơn so với ngà răng với thành
phần vô cơ chiếm đến 96% trọng lượng, trong khi
thành phần vô cơ ở ngà răng chiếm xấp xỉ 70% trọng
lượng, còn lại có 18% là thành phần hữu cơ và 12% là
nước vì vậy việc dán lên ngà răng là một thách thức.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thành nướu của
xoang loại II được đặt trong men răng và không đến
hay vượt quá đường nối men xê măng, vì vậy đặc
điểm này có thể giải thích cho sự tương đương giữa
lực dán của phục hồi lên thành nướu và thành trục
mặt nhai đưa đến kết quả mức độ vi kẽ giữa hai vị trí
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Khi so sánh mức độ vi kẽ giữa nhóm phục hồi trực
tiếp bằng composite (nhóm 3) với nhóm phục hồi
gián tiếp bằng inlay sứ (nhóm 1 và nhóm 2) cho thấy
nhóm phục hồi trực tiếp có mức độ vi kẽ lớn hơn
nhóm phục hồi gián tiếp bằng inlay sứ. Sự khác biệt
giữa nhóm 3 và nhóm 1 có ý nghĩa thống kê với mức
ý nghĩa p <0.05, trong khi đó, sự khác biệt giữa nhóm
3 và nhóm 2 không có ý nghĩa thống kê với mức ý
nghĩa p >0,05. Kết quả này phù hợp với kết quả của
các nghiên cứu của Tay Cheong Ian (2013), Datta
Prasad (2017), Hui Theng Chee (2018) [9], [14], [18].
Sự khác biệt về mức độ vi kẽ giữa hai phương pháp
phục hồi gián tiếp (inlay sứ) và trực tiếp (composite
nguyên khối) này có thể giải thích do sự khác biệt về
hệ số nở vì nhiệt giữa hai loại vật liệu. Bullard (1988)
đã chứng minh được có mối liên quan chặt chẽ giữa
mức độ vi kẽ với sự khác biệt của hệ số nở vì nhiệt
giữa vật liệu phục hồi và mô răng [7]. Hệ số nở vì
nhiệt của thân răng ở người là 11,90 x10-6/oC, sứ
Bảng 4. So sánh chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm tại giao diện miếng trám và mô răng ở vị trí mặt cắt
Nhóm Số lượng Trung bình
p
1 2 3
1 10 0,89 - 0,003 0,001
2 10 3,02 - 0,496
3 10 3,63 -
Kiểm định Mann – Whitney
Nhận xét: Kết quả so sánh bắt cặp chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm giữa ba nhóm bằng phép kiểm định
Mann – Whitney cho thấy:
- Chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm của nhóm 1 là 0,89mm và nhóm 2 là 3,02mm và giá trị p = 0,003.
- Chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm của nhóm 1 là 0,89mm và nhóm 3 là 3,63mm với giá trị p = 0,001.
- Chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm của nhóm 2 là 3,02mm và nhóm 3 là 3,63mm với p = 0,496.
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
1. Võ Văn Nhân, Hoàng Tử Hùng và Hoàng Đạo Bảo
Trâm (2011), “Đánh giá in vitro vi kẽ phục hồi xoang loại II
sử dụng inlay CEREC”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB Trường Đại học Y Dược – TP HCM, 15(2), tr. 94-98.
2. Trần Hồng Xuân và Hoàng Tử Hùng (2014), Vi kẽ và độ
vi cứng của phục hồi composite trám một khối và trám từng
lớp, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Thị Kim Yến và Hoàng Tử Hùng (2011),
“Đánh giá in vitro vi kẽ trong phục hồi xoang loại II sử dụng
Inlay Cerana”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, NXB
Trường Đại học Y Dược – TP HCM, 15(2), tr. 90-93.
4. A Garber D. and Goldstein R. (1994), “Historical
Perspective and Comparison of Posterior Restorations”,
Porcelain and composite inlays and onlays: esthetic
posterior restorations, Quintessence Publishing Co, p. 21.
5. Andrade O.S., de Goes M.F., and Montes M.A.J.R.
(2007), “Marginal adaptation and microtensile bond
strength of composite indirect restorations bonded
to dentin treated with adhesive and low-viscosity
composite.”, Dent Mater, 23(3), pp. 279–287.
6. Ban S. (2008), “Reliability and properties of core
materials for all-ceramic dental restorations”, Jpn Dent Sci
Rev, 44(1), pp. 3–21.
7. Bullard R.H., Leinfelder K.F., and Russell C.M.
(1988), “Effect of coefficient of thermal expansion on
microleakage”, J Am Dent Assoc, 116(7), pp. 871–874.
8. Cassin A.M. and Pearson G.J. (1992), “Microleakage
studies comparing a one-visit indirect composite inlay
system and a direct composite restorative technique.”, J
Oral Rehabil, 19(3), pp. 265–270.
9. Chee H.T., Wan Bakar W.Z., Ghani Z.A., et al. (2018),
“Comparison of composite resin and porcelain inlays for
restoration of noncarious cervical lesions: An In vitro
study”, Dent Res J (Isfahan), 15(3), pp. 215–219.
10. Gavranovic-Glamoc A., Ajanovic M., Korac S.,
et al. (2017), “Evaluation of the water sorption of luting
cements in different solutions.”, Acta Med Acad, 46(2), pp.
124–132.
11. Owittayakul D., Lerdrit W., and Pittayachawan P.
(2015), “Microleakage of zirconia frameworks cemented
with two types of phosphate monomer-based resin
cements”, Eur J Gen Dent, 4(2), pp. 92–97.
12. Peutzfeldt A., Sahafi A., and Flury S. (2011),
“Bonding of restorative materials to dentin with various
luting agents.”, Oper Dent, 36(3), pp. 266–273.
13. Poggio C., Chiesa M., Dagna A., et al. (2012),
“Microleakage in class V gingiva-shaded composite resin
restorations”, Ann Stomatol (Roma), 3(1), pp. 19–23.
14. Prasad D.D., Ankanna D., Kumar D.U., et al.
(2017), “A Comparative Analysis of Microleakage around
zirconia (được sử dụng trong nghiên cứu thuộc hãng
Cercon HT) có hệ số nở vì nhiệt là 10,50 x10-6/oC
[6] và vật liệu composite có hệ số này dao động từ
22,5 đến 44,7 x10-6/oC [19]. Vì vậy, khi có sự thay
đổi nhiệt độ trong môi trường miệng hay khi sử dụng
chu trình nhiệt trong nghiên cứu để mô phỏng sự
thay đổi đó, vật liệu sứ zirconia có hệ số nở vì nhiệt
xấp xỉ tương đương với mô răng sẽ đưa đến kết quả
giảm sự hở bờ so với với vật liệu composite.
Khi so sánh mức độ vi kẽ giữa nhóm 1 là nhóm
phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán
cement resin tự xoi mòn (Multilink N) và nhóm 2 là
nhóm phục hồi bằng inlay sứ zirconia với vật liệu dán
RMGIC (Fuji Plus), nhóm 1 cho giá trị mức độ vi kẽ
thấp hơn so với nhóm 2 và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với mức ý nghĩa p < 0,05. Kết quả này phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Peutzfeldt A. và cộng
sự (2011), Gavranovic-Glamoc (2017), Võ Văn Nhân
(2011) [1], [10], [12]. Kết quả tiếp hợp bờ ở nhóm sử
dụng vật liệu dán cement resin tự xoi mòn (Multilink
N) vượt trội hơn so với nhóm sử dụng vật liệu dán
là RMGIC (Fuji Plus) có thể được giải thích bởi thành
phần cấu tạo của vật liệu. Trong nghiên cứu này, bên
cạnh phương thức cơ học xử lý bề mặt sứ bằng thổi
cát với Al2O3 50micron, cường độ 1bar, hệ thống
dán cement resin tự xoi mòn Multilink N với thành
phần monomer methacrylate có gốc acid phosphonic
(trong thành phần của Multilink Primer) khi tác dụng
với zirconium tạo ra các gốc phosphonate ổn định,
giúp làm ướt bề mặt sứ và tạo điều kiện cho việc hình
thành các liên kết hóa học với cement dán. Tính chất
này cũng đủ ổn định để kháng lại các áp lực tạo ra do
chu trình nhiệt [20]. Trong khi vật liệu dán cement
glass ionomer tăng cường nhựa Fuji Plus không có
thành phần xử lý bề mặt sứ zirconia như Multilink
Primer và chỉ tạo độ lưu trên bề mặt sứ bằng phương
thức cơ học (thổi cát).
5. KẾT LUẬN
Trong ba phương pháp phục hồi xoang loại
II ở nghiên cứu này, nhóm phục hồi bằng inlay sứ
zirconia với chất dán là cement resin tự xoi mòn cho
mức độ vi kẽ thấp hơn một cách có ý nghĩa thống
kê so với hai phương pháp còn lại. Hai phương
pháp phục hồi bằng inlay sứ zirconia với chất dán là
cement glass ionomer tăng cường nhựa và phục hồi
trực tiếp bằng composite nguyên khối không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ vi kẽ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 5 - tháng 8/2019
Composite Restoration and Zirconium Ceramic Inlay under
Confocal Microscope-An In Vitro Study”, Int J Heal Sci Res,
7(6), pp. 156–161.
15. Silva L.H. da, Lima E. de, Miranda R.B. de P., et al.
(2017), “Dental ceramics: a review of new materials and
processing methods.”, Braz Oral Res, 31(suppl), pp. 133-146.
16. Sreeramulu D. (2015), “A comparison between
different luting cements on the retention of complete cast
crowns -an in vitro study”, Int J Healthc Biomed Res, (04),
pp. 29–35.
17. Swapna M.U., Koshy S., Kumar A., et al. (2015),
“Comparing marginal microleakage of three Bulk Fill
composites in Class II cavities using confocal microscope:
An in vitro study”, J Conserv Dent, 18(5), pp. 409–413.
18. Tay Cheong Ian A., Muttlib N., Wan bakar W.
zaripah, et al. (2013), “Comparison between Microleakage
of Composite and Porcelain in Class V Restoration: An in
vitro Study”, Int Med J, 20(3), pp. 359–362.
19. Versluis A., Douglas W.H., and Sakaguchi R.L.
(1996), “Thermal expansion coefficient of dental
composites measured with strain gauges.”, Dent Mater,
12(5), pp. 290–294.
20. Völkel T. (2010), Scientific documentation Multilink
N, Ivoclar Vivadent AG, pp. 1-14.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_in_vitro_vi_ke_trong_phuc_hoi_xoang_loai_ii_bang_in.pdf