Biên độ gấp gối trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 1230. Đa số bệnh nhân có biên độ gấp
gối trong khoảng từ 1200 đến 1350, số bệnh nhân
trong nhóm này la 28/34 bệnh nhân (tỉ lệ 74,35%).
Có 2 bệnh nhân có biên độ gấp gối 450, cả hai bệnh
nhân là nữ. Một bệnh nhân >60 tuổi, thời gian lành
xương 12 tuần, nhưng phim X- Quang kiểm tra phát
hiện nẹp đặt thấp nên có vít phạm vào khớp nên vận
động bị cản trở. Bệnh nhân được phát hiện vít phạm
vào khớp khi chụp X-Quang kiểm tra sau mổ và có
chỉ định mổ lại nhưng gia đình và bệnh nhân không
đồng ý. Sau đó, bệnh nhân có qua các bệnh viện khác
kiểm tra nhưng cũng chưa được xử lý gì, hiện tại thì
xương bệnh nhân đã lành tốt và thời gian theo dõi là
13 tháng. Hiện chúng tôi đang tư vấn bệnh nhân mổ
lấy dụng cụ sớm để khắc phục tầm vận động khớp
và tránh ảnh hưởng gây thoái hóa khớp. Bệnh nhân
thứ hai 30 tuổi, thời gian theo dõi 10 tháng và đây là
bệnh nhân không liền xương.
Biên độ duỗi gối trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 2,20. Số bệnh nhân duỗi gối từ 00 đến
50 là 32/34 bệnh nhân (tỉ lệ 94,11%). Hầu hết bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều duỗi gối
được hoàn toàn, trừ một bệnh nhân hạn chế duỗi gối
khoảng 50 và một bệnh nhân hạn chế khoảng 100
Hai bệnh nhân bị hạn chế duỗi gối cũng là hai bệnh
nhân gấp gối được 450. Với bệnh nhân bị vít phạm
vào khớp, nếu được mổ lấy dụng cụ và tập lại gối
thì tình trạng có thể cải thiện tốt hơn cả về gấp và
duỗi gối. Còn bệnh nhân không liền xương thì sau
khi được ghép xương và nếu xương lành, tập vật lý
trị liệu không còn đau thì cũng có thể cải thiện được
vì bệnh nhân cũng hạn chế nhẹ.
Kết quả điều trị của chúng tôi theo tiêu chuẩn
của Schatzker và Lambert: Tốt : có 26/34 bệnh nhân,
chiếm tỉ lệ 76,5%. Khá: có 5/34 bệnh nhân, chiếm
tỉ lệ 14,7%. Trung bình: có 1/34 bệnh nhân, chiếm
tỉ lệ 2,9%. Kém: có 2 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 5,9%.
Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân đạt tiêu chuẩn khá tốt trong
nghiên cứu của chúng tôi là 91,2 %. Đây là một kết
quả khả quan trong điều trị gãy đầu dưới xương đùi.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu điều trị gãy đầu dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
178
Phản biện khoa học: PGS. TS. Nguyễn Xuân Thùy
đÁNH GIÁ KẾT quả BƯỚC đẦu đIều TRỊ
GãY đẦu dƯỚI XƯƠNG đÙI BẰNG NẸP VÍT KHÓA
Trương Trí Hữu*,
Nguyễn Thanh Huy**
* BV CTCH TP. HCM
** Trường ĐH YD Cần Thơ
Email:
truongtrihuu08@gmail.com
Ngày nhận: 28 - 8 - 2014
Ngày phản biện: 20 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Truong Tri Huu,
Nguyen Thanh Huy
AbstrAct
Introduction: internal Fixation of distal femoral fractures remains a challenge. The
fiaxation of distal femoral fractures has undergone several changes during the past
century, from standard-operative techniques to more recently minimally-invasive internal
fixation. The The locking compression plates for distal femur ( LCP DF) is an internal
fixation plate that combines Less Invasive Stabilisation System (LISS) of the distal femur
using an anatomically pre-contoured plate with stable locking screws.
Objective: To evaluate initial results of the treatment of distal femoral fracture with the
locking compression plates for distal femur ( LCP DF).
Methods: A perspectively descriptive study was employed to carry out this research from
January, 2012 to December, 2013.; 34 patients (including 3 at Cantho Central Hospital
and 31 at Ho Chi Minh City Orthopedics Hospital) were operated to be observed and
evaluated for at least 12 months- follow up by Schatzker and Lambert criteria.
Results: Of the 34 patients, there were 16 males and 18 females. The average age was
48 (from the age of 17 to 84). The average observation time was 14 months (minimally
12 months and maximally 19 months). The rate of bone union was 97.1%. Using the
Schatzker and Lambert criteria to evaluate, we attained good results with 76.5%, fair
with 14,7%, average with 2,9% (1 patient) and poor results with 5.9% (2 patients).
Môû ñaàu: Keát hôïp xöông beân trong vuøng gaõy loài caàu ñuøi coøn nhieàu thaùch thöùc. Keát hôïp
xöông vuøng naøy theo thôøi gian ñaõ qua caùc tieán boä töø ñöông moå chuaån daàn daàn chuyeån
sang moå nhoû ít xaâm nhaäp. Neïp khoùa ñaàu döôùi xöông ñuøi ñöôïc söû duïng cho ñöôøng moå
nhoû ít xaâm nhaäp vaø coá ñònh xöông vöõng theo caáu truùc giaûi phaãu cuûa xöông vuøng naøy
Muïc tieâu nghieân cöùu: ñaùnh giaù keát quaû böôùc ñaàu ñieàu trò gaõy ñaàu döôùi xöông ñuøi baèng
neïp vít khoùa.
Phöông phaùp nghieân cöùu: moâ taû tieàn cöùu. Töø thaùng 01 naêm 2012 ñeán thaùng 12 naêm
2013, toång soá 34 beänh nhaân ñöôïc phaãu thuaät keát hôïp xöông (03 BN taïi beänh vieän Ña
Khoa Trung Öông Caàn Thô vaø 31 BN taïi Beänh Vieän Chaán Thöông Chænh Hình TP.
HCM). Beänh nhaân ñöôïc theo doõi toái thieåu 12 thaùng vaø ñöôïc ñaùnh giaù theo tieâu chuaån
cuûa Schatzker vaø Lambert.
Keát quaû: Trong 34 beänh nhaân nghieân cöùu: coù 16 nam, 18 nöõ. Tuoåi trung bình laø 48
(töø 17 tuoåi ñeán 84 tuoåi). Thôøi gian theo doõi trung bình 14 thaùng (nhoû nhaát 12 thaùng,
lôùn nhaát 19 thaùng). Keát quaû laønh xöông laø 97,1%. Keát quaû ñieàu trò theo tieâu chuaån
Schatzker vaø Lampert: Toát laø 76,5%, khaù laø 14,7%, Trung bình laø 1 beänh nhaân (2,9%),
Keùm laø 2 beänh nhaân (5,9%).
Keát luaän: Ñieàu trò gaõy ñaàu döôùi xöông ñuøi baèng neïp vít khoùa böôùc ñaàu coù keát quaû khaû
quan. Neïp vít khoùa keát hôïp ñöôïc haàu heát caùc loaïi gaõy ñaàu döôùi xöông ñuøi vaø caû beänh
nhaân loaõng xöông.
Töø khoùa: neïp vít khoùa ñaàu döôùi xöông ñuøi.
Tóm TắT
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
179
Conclusion: The treatment of distal femoral fractures initially achieved high success
rate. Locking plates united almost all kinds of distal femoral fractures, even in patients
with osteoporosis.
Key words: The locking compression plates for distal femur (LCP DF)
I. ĐặT VấN Đề:
Gãy đầu dưới xương đùi chiếm khoảng 7% các loại
gãy xương đùi[16]. Gãy lồi cầu đùi là gãy phạm khớp, do
sự co kéo của các cơ tứ đầu đùi, chân ngỗng và sinh đôi
làm cấp kênh mặt khớp, biến dạng gập góc và lệch trục cơ
học chi dưới. Mục tiêu điều trị là phục hồi ngay ngắn mặt
khớp để phục hồi lại chức năng bình thường của khớp gối,
giữ đúng trục cơ học và bảo tồn hệ thống gấp duỗi gối.
Bệnh nhân gãy lồi cầu đùi nếu không được chỉnh sửa mặt
khớp và trục chi thường gặp các biến chứng gập góc, cấp
kênh mặt khớp, cứng gối dẫn đến hư khớp.
Đến nay, các tác giả đồng ý mổ là điều trị tối ưu cho
các gãy đầu dưới xương đùi là kết hợp xương vững chắc
sớm giúp tập sớm[13]. Nhưng việc lựa chọn dụng cụ kết
hợp xương trong điều trị gãy đầu dưới xương đùi vẫn là
thử thách cho người thầy thuốc. Các dụng cụ dùng riêng
cho gãy xương vùng đầu dưới đùi như: Nẹp lồi cầu hình
chữ L 95o (95o Condylar Blade Plate), nẹp nâng đỡ lồi cầu
(Condylar buttress plate), nẹp DCS (Dynamic Condylar
Screw) đã được sử dụng nhưng cũng có những hạn chế
riêng. Nẹp vít khóa LCP (Locking compression Plate) mới
xuất hiện gần đây được coi như một bước tiến trong điều
trị gãy xương nhất là vùng đầu dưới xương đùi có ưu điểm
dễ áp dụng đương mổ nhỏ ít xâm nhập nhưng nắn kết hợp
xương về giải phẫu và vững chắc.
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu dùng nẹp vít khóa
điều trị gãy đầu dưới xương đùi.Cantu R.V,Cornell C.N ,
Kolb W., Kao F.C., Kregor P.J, Ricci A.R ..[3,4,7,814]
Nẹp vít khóa lồi cầu đùi bước đầu đã được sử dụng
ở Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM và các
Bệnh viện khác trong nước gần đây. Vấn đề cần thiết phải
có một tổng kết về kết quả điều trị kết hợp xương gãy đầu
dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa.
II. MụC TIêU NGHIêN CỨU:
Đánh giá kết quả bước đầu điều trị gãy đầu dưới
xương đùi bằng nẹp vít khóa.
III. ĐốI TƯợNG Và PHƯơNG PHáP
NGHIêN CỨU:
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 năm 2012 đến
tháng 12 năm 2013 tại BV Chấn Thương Chỉnh Hình TP.
HCM và BV Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ có 34 bệnh
nhân. Thời gian theo dõi tối thiểu là 12 tháng, thời gian
nghiên cứu trung bình là 14 tháng.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu mô tả,
mổ nắn – kết hợp xương gãy đầu dưới đùi bằng nẹp vít
khóa, tập vật lý trị liệu và theo dõi sau mổ.
Phương pháp phẫu thuật:
* Chuẩn bị trước mổ:
- Vệ sinh bệnh nhân và vùng cần mổ.
- Dặn nhịn ăn uống nếu mổ cấp cứu hoặc hướng dẫn ăn
thức ăn dễ tiêu ngày trước mổ nếu mổ chương trình.
- Chuẩn bị tâm lý bệnh nhân.
- Dự trù máu truyền tùy vào tình trạng bệnh nhân và
tính chất của xương gãy.
* Kháng sinh dự phòng: thường dùng nhóm
Cephalosporin thế hệ 3 trước mổ khoảng 30 phút, duy trì
sau mổ 7 ngày
* Tư thế bệnh nhân mổ: nằm ngửa, kê gối gấp.
* Ga rô hơi: trên đùi sát bẹn, áp lực từ 300 – 350mmHg,
thời gian ngắn dưới 90 phút, nếu thời gian mổ lớn hơn 90
phút thì phải xả ga rô sau mỗi 90 phút.
* Kỹ thuật mổ: Đường mổ: đường bên ngoài, đặt nẹp
phía bên lồi cầu ngoài. Bệnh nhân gãy hở thường có rách
cơ tứ đầu trước đó, cắt lọc làm sạch vết thương trước rồi
mở rộng theo đường rách cơ vào ổ gãy, mở bao khớp phía
trước ngoài hay trước trong tùy vị trí vết thương để mổ nắn
cố định xương gãy. Nếu phạm khớp thì nắn, cố định mặt
khớp tạm bằng kim K và/ hoặc kèm theo vít xốp. Dùng
màng hình tăng sáng kiểm tra khi mổ xem nắn hết các di
lệch mặt khớp. Vị trí đặt kim K và vít xốp không làm cản
vị trí đặt nẹp (hình 1). Mở vết thương tối thiểu đặt nẹp
luồn dưới cơ, dùng C-arm kiểm tra. Chú ý không làm hẹp
mặt khớp lồi cầu, nhất là với gãy loại C3.
Hình 1: Vị trí bắt vít xốp và kim K
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
180
Cố định mặt khớp gãy vào thân xương bằng nẹp
vít khóa, đặt mặt ngoài. Chiều dài của nẹp tùy vào
đường gãy phía hành xương và thân xương. Lưỡi nẹp
cách mặt khớp trước và mặt khớp dưới từ 1-1,5cm.
Thân nẹp thẳng với trục của xương đùi. Nẹp được
thiết kế riêng cho bên trái và bên phải nên cần chọn
nẹp cho phù hợp. Sau khi đặt nẹp ta khoan và bắt vít
theo kỹ thuật của nhà sản xuất.[2]
Sau khi bắt vít xong cần kiểm tra lại mặt khớp
có phục hồi và bất động vững không. Kiểm tra các
đầu vít có phạm vào khớp hoặc hố lồi cầu. Làm động
tác gập duỗi gối thụ động kiểm tra các mảnh gãy
có được bất động vững, khớp gối vận động có nhẹ
nhàng không? Nếu mất xương nhiều hành xương thì
ghép xương tăng cường cho vững. Có thể kiểm tra
trong lúc mổ kết quả nắn xương và mặt khớp bằng
C-arm. Đặt ống dẫn lưu và đóng vết mổ từng lớp
theo giải phẫu: lần lượt đóng cơ rộng giữa, túi trên
cơ tứ đầu và bao khớp, và sau đó là các lớp nông hơn.
Kháng sinh hỗ trợ trước, trong và sau mổ : thường
dùng cephalosporin thế hệ thứ ba, có thể phối hợp
kháng sinh nhóm aminoglycoside tùy gãy kín hay
hở, tổn thương mô mềm nhiều hay ít, thời gian mổ
lâu hay mau. Có thể bất động thêm bằng nẹp Zimmer
nếu xương gãy nát nhiều và cảm nhận nẹp bất động
không vững chắc lắm.
Đánh giá kết quả điều trị theo tiêu chuẩn của
Schatzker và Lambert [15]:
- Tốt: duỗi hoàn toàn.
+ Mất gấp gối ít hơn 10 độ.
+ Không biến dạng khép hay dạng gối, không di
lệch xoay.
+ Không đau
+ Mặt khớp tốt
- Khá: không thiếu hơn một trong các tiêu chuẩn
sau:
+ Không ngắn chỉ nhiều hơn 1cm.
+ Biến dạng khép hay dạng gối dưới 10 độ.
+ Mất gấp gối không hơn 20 độ.
+ Đau ít
- Trung bình: bất cứ 2 tiêu chuẩn nào của khá.
- Xấu: bất cứ một trong các tiêu chuẩn nào sau đây:
+ Gấp gối 90 độ hay ít hơn.
+ Biến dạng khép hay dạng gối quá 15 độ.
+ Cấp kênh mặt khớp.
+ Đau gây mất cơ năng cho dù hình ảnh trên
X-quang tốt ra sao.
IV. KếT QUẢ:
Với 34 bệnh nhân được mổ kết hợp xương đầu
dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa và theo dõi được
chúng tôi có các số liệu sau:
Tuổi: trung bình 48 tuổi (từ 17 tuổi đến 84 tuổi).
Giới: 16 nam và 18 nữ.
Nguyên nhân:
Biểu đồ 2: phân bố BN theo nguyên nhân
Phân độ gãy: 27 gãy kín, 7 gãy hở (3 độ I, 1 độ
II, 3 độ IIIA).
Phân loại gãy theo AO:
Biểu đồ 2: phân bố BN theo phân loại gãy AO.
Lành xương: 33 bệnh nhân lành xương (97,1%),
có 1 bệnh nhân không lành (2,9%).
Thời gian lành xương: thời gian lành xương
trung bình 13 tuần.
Kết quả gấp gối: Kết quả gấp gối trung bình là
1230 (gấp gối nhỏ nhất 450, gấp gối lớn nhất 1400).
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
181
Kết quả duỗi gối: Kết quả duỗi gối trung bình là 2,20
(duỗi gối nhỏ nhất -100, duỗi gối lớn nhất 50).
Biến chứng:
Bieán chöùng Soá BN Tæ leä %
Khoâng laønh xöông 1 2,9
Ngaén chi 3 8,8
Keânh maët khôùp 1 2,9
Veïo goái 1 2,9
Nhieãm truøng 0 0
Di leäch thöù phaùt sau moå 0 0
Gaõy neïp 0 0
Kết quả điều trị theo tiêu chuẩn Schatzker và Lambert:
Keát Quaû Soá BN Tæ Leä %
Toát 26 76,5
Khaù 5 14,7
Trung bình 1 2,9
Keùm 2 5,9
Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam 61 tuổi, gãy liên lồi cầu
đùi T, loại C3.
Hình 5: Phục hồi chức
năng gối
Hình 4: X-quang can
xương sau 12 tuần
Hình 2:X-quang trước mổ Hình 3: X-quang sau mổ
V. BàN LUẬN
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 48
tuổi. Tuổi nhỏ nhất là 17. Tuổi lớn nhất là 84. Tuổi từ 18
đến 60 có 22 bệnh nhân ( chiếm tỉ lệ 64,7%). Đây là độ
tuổi lao động và tham gia giao thông nhiều nên khả năng
bị tai nạn gãy xương chiếm tỉ lệ cao nhất.
Nguyên nhân do tai nạn giao thông vẫn là chủ yếu trong
nghiên cứu của chúng tôi: 27 trên tổng số 34 bệnh nhân
( tỉ lệ 79,5%). Nguyên nhân do tai nạn giao thông cũng
là nguyên nhân chính trong các nghiên cứu của Nguyễn
Quốc Trị[12], Hàn Khởi Quang[5], Lê Nguyên Khải[9] và
Nguyễn Phương Nam[2]. Vì thế, tai nạn giao thông hiện
nay vẫn là một gánh nặng cho xã hội nói chung và cho
ngành chấn thương chỉnh hình nói riêng.
Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, gãy loại C là 30/34
bệnh nhân (tỉ lệ 88,2%). Trong đó loại gãy C1 là 6, C2
là 14 và C3 là 10. gãy loại C vẫn chiếm đa số trong các
nghiên cứu về gãy đầu dưới xương đùi. Lực chấn thương
gây gãy đầu dưới xương đùi thường lớn nên xương thường
gãy phức tạp.
Qua điều trị kết hợp xương 34 bệnh nhân gãy đầu dưới
xương đùi bằng nẹp vít khóa, có 33 bệnh nhân lành xương
và một bệnh nhân không lành xương ( tỉ lệ 2,9%). Bệnh
nhân không liền xương trong nghiên cứu của chúng tôi là
một trường hợp gãy hở độ IIIA, phân loại C3. Bệnh nhân
được cắt lọc và kết hợp xương bằng khung cố định ngoài
khoảng 7 ngày trước khi được mổ kết hợp xương bằng nẹp
vít khóa. Trong quá trình phẫu thuật đặt nẹp vít khóa, bệnh
nhân có mất xương nhưng vết thương không tốt lắm nên
không có ghép xương. Nếu bệnh nhân được ghép xương
sớm thì có khả năng kết quả lành xương sẽ tốt hơn.
Trong 33 bệnh nhân lành xương: thời gian lành xương
trung bình là 13 tuần.
Thời gian lành xương nhiều nhất là khoảng từ 12 đến 14
tuần có 22/33 chiếm tỉ lệ 66,67%. Cá biệt có 1 bệnh nhân
lành xương sau 26 tuần. Bệnh nhân này là nữ, gãy loại C3,
lớn tuổi và có loãng xương, cơ địa bệnh nhân cũng nhỏ
con, trong quá trình phẫu thuật thì không có ghép xương.
Thời gian lành xương theo phân loại gãy AO thì nhóm C3
có thời gian lành xương trung bình dài nhất 15,67 tuần. Và
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
182
khi chúng tôi so sánh thời gian lành xương của nhóm
C3 với các nhóm khác thì cho kết quả khác biệt có ý
nghĩa thông kê (p<0,01). Vì gãy C3 là loại gãy phức
tạp cả vùng hành xương và lồi cầu đùi nên thời gian
lành xương có thể kéo dài hơn.
Biên độ gấp gối trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 1230. Đa số bệnh nhân có biên độ gấp
gối trong khoảng từ 1200 đến 1350, số bệnh nhân
trong nhóm này la 28/34 bệnh nhân (tỉ lệ 74,35%).
Có 2 bệnh nhân có biên độ gấp gối 450, cả hai bệnh
nhân là nữ. Một bệnh nhân >60 tuổi, thời gian lành
xương 12 tuần, nhưng phim X- Quang kiểm tra phát
hiện nẹp đặt thấp nên có vít phạm vào khớp nên vận
động bị cản trở. Bệnh nhân được phát hiện vít phạm
vào khớp khi chụp X-Quang kiểm tra sau mổ và có
chỉ định mổ lại nhưng gia đình và bệnh nhân không
đồng ý. Sau đó, bệnh nhân có qua các bệnh viện khác
kiểm tra nhưng cũng chưa được xử lý gì, hiện tại thì
xương bệnh nhân đã lành tốt và thời gian theo dõi là
13 tháng. Hiện chúng tôi đang tư vấn bệnh nhân mổ
lấy dụng cụ sớm để khắc phục tầm vận động khớp
và tránh ảnh hưởng gây thoái hóa khớp. Bệnh nhân
thứ hai 30 tuổi, thời gian theo dõi 10 tháng và đây là
bệnh nhân không liền xương.
Biên độ duỗi gối trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 2,20. Số bệnh nhân duỗi gối từ 00 đến
50 là 32/34 bệnh nhân (tỉ lệ 94,11%). Hầu hết bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều duỗi gối
được hoàn toàn, trừ một bệnh nhân hạn chế duỗi gối
khoảng 50 và một bệnh nhân hạn chế khoảng 100 .
Hai bệnh nhân bị hạn chế duỗi gối cũng là hai bệnh
nhân gấp gối được 450. Với bệnh nhân bị vít phạm
vào khớp, nếu được mổ lấy dụng cụ và tập lại gối
thì tình trạng có thể cải thiện tốt hơn cả về gấp và
duỗi gối. Còn bệnh nhân không liền xương thì sau
khi được ghép xương và nếu xương lành, tập vật lý
trị liệu không còn đau thì cũng có thể cải thiện được
vì bệnh nhân cũng hạn chế nhẹ.
Kết quả điều trị của chúng tôi theo tiêu chuẩn
của Schatzker và Lambert: Tốt : có 26/34 bệnh nhân,
chiếm tỉ lệ 76,5%. Khá: có 5/34 bệnh nhân, chiếm
tỉ lệ 14,7%. Trung bình: có 1/34 bệnh nhân, chiếm
tỉ lệ 2,9%. Kém: có 2 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 5,9%.
Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân đạt tiêu chuẩn khá tốt trong
nghiên cứu của chúng tôi là 91,2 %. Đây là một kết
quả khả quan trong điều trị gãy đầu dưới xương đùi.
VI. KếT LUẬN
Nẹp vít khóa có thể dùng để kết hợp xương tất cả
các loại gãy đầu dưới xương đùi (ngoại trừ gãy mảnh
nhỏ phía sau lồi cầu trong, dạng B3), cả gãy kín, gãy
hở độ I, II, IIIA được phẫu thuật sớm
Sử dụng nẹp vít khóa trong điều trị gãy đầu dưới
xương đùi cho kết quả liền xương và kết quả điều trị
rất cao: lành xương 97,1%, kết quả điều trị đạt khá-
tốt là 91,2%. Bệnh nhân có thể tập vận động khớp
gối sớm ít di lêch thứ phát.
Kết hợp xương bằng nẹp vít khóa ít nguy cơ
nhiễm trùng vết thương: không trường hợp nào bị
nhiễm trùng trong mẫu nghiên cứu.
Kết hợp xương bằng nẹp vít khóa cho gãy đầu
dưới xương đùi giúp bất động xương vững: không có
trường hợp nào bị di lệch xương thứ phát, bung hay
gãy nẹp.
Tài liệu tham khảo
1. Anglen J., Kyle R. F., Marsh J. L. (2009), "Locking
plates for extremity fractures". J Am Acad Orthop Surg,
17(7), pp. 465-472.
2. AO Foundation- Synthes. (2000). "Technique guide for
Less Invasive Stabilization System (LISS)". In Original
Instuments and implants of the Association for the study
of internal fixation - AO ASIF .
3. Cantu R. V., Koval K. J. (2006), "The use of locking
plates in fracture care". J Am Acad Orthop Surg, 14(3),
pp. 183-190.
4. Cornell C. N., Ayalon O. (2011), "Evidence for success
with locking plates for fragility fractures". HSS J, 7(2),
pp. 164-169.
5. Hàn Khởi Quang (2000), Điều trị phẫu thuật gãy đầu
dưới xương đùi tại tuyến tỉnh, Luận văn chuyên khoa
cấp II. Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
6. Kao F. C., Tu Y. K., Su J. Y. (2009), "Treatment of distal
femoral fracture by minimally invasive percutaneous
plate osteosynthesis: comparison between the dynamic
condylar screw and the less invasive stabilization
system". J Trauma, 67(4), pp.719-726.
7. Kolb W., Guhlmann H., Windisch C. (2008), "Fixation
of distal femoral fractures with the Less Invasive
Stabilization System: a minimally invasive treatment
with locked fixed-angle screws". J Trauma, 65(6), pp.
1425-1434.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
183
8. Kregor P. J., Stannard J. A., Zlowodzki M. (2004), "Treatment
of distal femur fractures using the less invasive stabilization
system: surgical experience and early clinical results in 103
fractures". J Orthop Trauma, 18(8), pp. 509-520.
9. Lê Nguyên Khải, (2009), Kết quả bước đầu điều trị phẫu thuật
gãy nát đầu dưới xương đùi bằng hai nẹp, Luận án chuyên
khoa cấp II, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
10. Müller M. E., Nazarian J, Koch P. (1990). Classification of
fractures of distal femur, In The comprehensive classification of
fractures of long bones. Springer-Verlag, Berlin.
11. Nguyễn Phương Nam, (2013), Kết quả điều trị gãy đầu dưới
xương đùi bằng sử dụng nẹp khóa kết hợp xương tại bệnh viện
Bà Rịa. Kỷ yếu hội nghị khoa học thường niên lần thứ XX, Hội
chấn thương chỉnh hình TP.HCM, tr. 84-90.
12. Nguyễn Quốc Trị (2003), Cắt lọc và kết hợp xương cấp cứu
trong điều trị gãy hở đầu dưới xương đùi. Luận văn chuyên
khoa cấp II, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
13. O'Brien P.J M. R. N., Blachut P. A,. (2001). "Fracture of the
Distal femur". In Rockwood and Green's Fractures in Adults.
14. Ricci A. R., Yue J. J., Taffet R. (2004), "Less Invasive
Stabilization System for treatment of distal femur fractures". Am
J Orthop (Belle Mead NJ), 33(5), pp. 250-255.
15. Schatzker J., Lambert D. C. (1979), "Supracondylar fractures
of the femur". Clin Orthop Relat Res(138), pp. 77-83.
16. Schatzker J. (1998), "Fractures of the distal femur revisited".
Clin Orthop Relat Res(347), pp. 43-56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_buoc_dau_dieu_tri_gay_dau_duoi_xuong_dui_ba.pdf