Sỏi mật
Qua siêu âm, chúng tôi ghi nhận hai trường
hợp (1,75%) có sỏi và dãn đường mật trong gan
sau mổ cắt nang OMC đơn thuần từ 4 - 4,5 năm
ở hai bệnh nhi 4 tuổi và 9 tuổi. Trường hợp đầu
có kèm theo nhiễm trùng đường mật, trường
hợp sau chỉ ghi nhận đau bụng đơn thuần.
Miyano(10) có 4 trường hợp sỏi trong gan sau
mổ, trong đó 3 trường hợp là của nang OMC
kết hợp dãn đường mật trong gan và không có
trường hợp nào nhỏ hơn 5 tuổi. Tác giả cho
rằng hẹp miệng nối mật-ruột sau mổ do tình
trạng mô học xấu của đường mật nơi làm
miệng nối (thường gặp ở bệnh nhi > 10 tuổi),
dãn đường mật trong gan dai dẳng sau mổ và
cặn mật sót lai, không được lấy đi ở đường mật
trong gan khi mổ là những nguyên nhân tạo ra
sỏi đường mật trong gan sau mổ. Cả hai trường
hợp sỏi đường mật trong gan sau mổ của chúng
tôi được nghĩ là do hẹp miệng nối mật-ruột sau
mổ vì ở cả hai bệnh nhi này trước mổ đều
không được ghi nhận tình trạng dãn của đường
mật trong gan.
Báo cáo của Ohi(14) cho thấy sỏi đường mật
trong gan ở 4% trường hợp và tất cả các trường
hợp này đều xuất hiện sau mổ > 7 năm. Tác giả
cho rằng hẹp tại hợp lưu các ống gan và dãn
đường mật trong gan là những nguyên nhân gây
ứ đọng mật và tạo sỏi. Do đó, miệng nối mậtruột cần được thực hiện ở cao và rộng, để có
được sự tháo lưu mật tốt nhất, tránh tạo sỏi
trong gan.
Nghiên cứu của chúng tôi chưa ghi nhận
trường hợp nào có sỏi đường mật trong gan ở
nang OMC kết hợp với dãn đường mật trong
gan vì hầu hết các dãn đường mật trong gan đều
trở về bình thường sau mổ với kiểu nối cao mậtruột tại hợp lưu các ống gan.
Mặc dù tỉ lệ sỏi đường mật trong gan trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các tác giả
khác trên thế giới, nhưng lại cao hơn các tác giả
trong nước (Bảng 9). Có lẽ do thời gian theo dõi
sau mổ của chúng tôi ngắn hơn so với các tác giả
nước ngoài, nhưng lại dài hơn so với các tác giả
khác trong nước.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt nang triệt để và nối cao mật - ruột trong điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 1
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT NANG TRIỆT ĐỂ
VÀ NỐI CAO MẬT-RUỘT TRONG ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM
Trương Nguyễn Uy Linh*, Nguyễn Kinh Bang**, Đào Trung Hiếu**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt nang ống mật chủ triệt để và nối cao mật-ruột
Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu được thực hiện trên 117 bệnh nhi nang đường mật
loại I và loại IV từ 40 ngày – 15 tuổi tại BV. Nhi Dồng 1.
Kết quả: Không có trường hợp nào bị tử vong hay phải mổ lại. Với thời gian theo dõi sau mổ trung
bình từ 4 - 6 năm (trung bình 5,03 ± 0,56), biến chứng được ghi nhận ở 10 bệnh nhi (8,55%) và thường gặp
ở các bệnh nhi > 5 tuổi so với ở các bệnh nhi ≤ 5 tuổi.
Kết luận: Kết quả có được sau mổ của phẫu thuật cắt nang triệt để và nối cao mật-ruột tương đối khả quan.
Phẫu thuật cần được thực hiện thường quy trong điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em.
ABSTRACT
CHOLEDOCHAL CYST IN CHILDREN: THE RESULTS OF COMPLETE CYST EXCISION WITH
HIGH HEPATICOJEJUNOSTOMY.
Truong Nguyen Uy Linh, Nguyen Kinh Bang, Dao Trung Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 131 - 140
Purposes: The aim of this study was to evaluate the results of complete cyst excision with high
hepaticojejunostomy in the management of choledochal cyst in children.
Material and methods: A follow-up study on 117 patients from to 40 days-15years old with type I
and IV biliary cyst in children’s hopital No.1
Results: The postoperative course of the operation was found to be smooth and safe. No patient needed
reoperation. Mortality rate in our series was 0%. Patients were followed up for a period from 4 to 6 years
(mean 5.03 ± 0.56). 10 patients (8,55%) had complications and usually less in patient under 5 years old.
Conclusion: Complete cyst excision with high hepaticojejunostomy gave excellent results. Thus, it
should be the definitive treatment of choice for choledochal cyst in children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang ống mật chủ (nang OMC) là bệnh ngoại
khoa gan mật thường gặp nhất ở trẻ em Việt nam.
Nhờ vào sự phổ cập của siêu âm mà bệnh ngày
càng được phát hiện nhiều hơn và sớm hơn. Phẫu
thuật cắt nang được thống nhất là phương pháp
điều trị lý tưởng nhất dành cho bệnh và đã có rất
nhiều kỹ thuật cắt nang được thực hiện ở trong và
ngoài nước với các kết quả thay đổi khác nhau. Từ
nhiều năm nay chúng tôi thực hiện việc cắt nang
triệt để và nối cao ống gan-hỗng tràng theo Roux-
en-Y. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả và
biến chứng sau mổ nhằm thấy được hiệu quả của
phẫu thuật cắt nang triệt để, nối cao ống gan-hỗng
tràng theo Roux-en-Y trong hoàn cảnh Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp nang OMC đơn thuần
hay nang OMC kết hợp với dãn đường mật
trong gan (nang đường mật loại I hay IV theo
* Phân môn Ngoại Nhi – Bộ môn Ngoại Đại học Y Dược TP. HCM
** BV Nhi Đồng 1 TP.HCM.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 2
Todani), được phẫu thuật cắt nang triệt để và nối
cao ống gan-hỗng tràng theo Roux-en-Y tại bệnh
viện Nhi Đồng 1 trong 2 năm từ 1/1/2000 –
31/12/2001.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Theo phương pháp nghiên cứu thuần tập,
tiền cứu.
Đánh giá
Trước mổ:
+ Biểu hiện lâm sàng
+ Siêu âm
Trong mổ
Quan sát trong khi mổ, kỹ thuật mổ
Tiến hành phẫu thuật
Phẫu thuật được thực hiện triệt để: cắt nang
và túi mật thành một khối, phía trên đến gần
hợp lưu các ống gan, phía dưới đến gần hết
đoạn hẹp cuối của OMC.
Miệng nối ống gan-hỗng tràng theo Roux-
en-Y phải đủ rộng (>10mm) và được thực hiện:
Tại hợp lưu các ống gan cho những trường hợp
- Bệnh nhi > 5 tuổi.
- Bệnh nhi ≤ 5 tuổi có nang OMC kết hợp
dãn đường mật trong gan (loại IV) hay có hẹp
ống gan tại hợp lưu.
Ngay dưới hợp lưu các ống gan (< 5mm)
Nang OMC đơn thuần (loại I) ở bệnh nhi ≤ 5
tuổi và không có hẹp ống gan tại hợp lưu.
Sau mổ
Biến chứng sớm
- Rò mật sau mổ: dẫn lưu được lấy bỏ khi
không còn ra mật hoặc đã tạo thành đường rò.
Rò mật kéo dài khi mật vẫn còn rò > 7 ngày.
- Các biến chứng sớm có thể có: tụ dịch
nhiễm trùng trong ổ bụng hay áp xe tồn lưu,
nhiễm trùng đường mật, tắc ruột do dính
Biến chứng muộn
- Theo dõi lâu dài sau mổ theo lịch tái khám
1 – 3 – 6 tháng và hàng năm: khám lâm sàng,
siêu âm và xét nghiệm chức năng gan, chụp X
quang dạ dày-tá tràng sau 1 năm và mỗi 2 năm
sau đó.
- Gửi thư theo mẫu thống nhất cho những
bệnh nhân không tái khám thường xuyên theo
lịch hẹn hoặc bỏ ngang, không tái khám.
- Ghi nhận những biến chứng muộn như
nhiễm trùng đường mật, sỏi mật
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 117 trường hợp nang OMC được đưa vào
tập hợp nghiên cứu,
Đặc điểm bệnh nhi
Tuổi
Trường hợp nhỏ tuổi nhất là 40 ngày tuổi.
Tuổi trung bình của tập hợp là 5,55 ± 3,85.
95 trường hợp (89,75%) được phẫu thuật
trước 10 tuổi, chỉ có 12 trường hợp (10,25%) sau
10 tuổi.
Giới
Số nữ chiếm đa số so với nam:
- Nữ: 92 - 78,63%
- Nam: 25 - 21,37%
Tỉ lệ nữ so với nam là 3,68/1.
Đặc điểm lâm sàng
Lâm sàng
Tiền sử phẫu thuật
Chúng tôi ghi nhận 6 trường hợp (5,36%) đã
được mổ trước đây vì các lý do:
- Bệnh nhi 14 tuổi được mổ sỏi mật (lấy sỏi,
dẫn lưu Kehr) cách nhập viện 6 năm.
- Bệnh nhi 10 tuổi được mổ thủng túi mật
(khâu thủng, dẫn lưu túi mật) cách nhập viện
8 năm.
- Bệnh nhi 13 tuổi được mổ thám sát với
chẩn đoán nang OMC cách nhập viện 10 năm.
- Bệnh nhi 2 tuổi được dẫn lưu nang OMC ra
ngoài cách nhập viện 6 tháng vì suy kiệt nặng và
rối loạn đông máu không thể điều chỉnh để có
thể cắt nang an toàn.
- Bệnh nhi 6 tuổi được mổ viêm tụy cấp (rửa
bụng, dẫn lưu) lúc 10 tháng tuổi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 3
- Bệnh nhi 4 tháng tuổi được mổ thoát vị
hoành (khâu lỗ thoát vị) lúc 13 ngày tuổi.
Triệu chứng lâm sàng
87.18
36.75
15.38
4.27
35.04
10.26
16.24
65.81
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90
Ñau buïng
Vaøng da
Khoái DSP
Tam chöùng kinh ñieån
Gan to
Phaân baïc maøu
Soát
Noân oùi
Biểu đồ 1: Tỉ lệ % của các triệu chứng lâm sàng.
Phân loại nang
Thể loại nang
Chúng tôi ghi nhận 56 trường hợp (47,86%)
là nang OMC đơn thuần (loại I) và 61 trường
hợp (52,14%) là nang OMC kết hợp với dãn
đường mật trong gan (loại IV).
47.86% 52.14% Loaïi I
Loaïi IV
Biểu đồ 2: Phân bố về thể loại nang
Dạng nang
Qua nhận định khi mổ, đa số các trường hợp
là nang OMC dạng cầu: 89 trường hợp (76.07%).
Còn lại là dạng thoi: 28 trường hợp (23,93%).
Kích thước nang đo được khi mổ từ 15mm-
120mm, trung bình là 56.8 ± 42mm.
76.07%
23.93%
Daïng caàu
Daïng thoi
Biểu đồ 3: Phân bố về dạng nang.
Phẫu thuật
Vị trí miệng nối - kiểu nối (Bảng 1)
Bảng 1: Vị trí miệng nối và kiểu nối ống gan-hỗng
tràng sau cắt nang
Vị trí miệng nối và
kiểu nối
Số trường
hợp (n = 117) Tỉ lệ
tận-tận 23 19,66% Tại hợp lưu
các ống gan tận-bên 63 86 53,85% 72,51%
Tại cửa gan, tận-tận
(Kasai) 1 0,85%
tận-tận 13 11,11% Ngay dưới
hợp lưu các
ống gan tận-bên 17
30
14,53%
25,64%
Chúng tôi thực hiện việc tạo hình mở rộng
ống gan trong 83 trường hợp (70,94%), bao gồm:
65 trường hợp (55,55%) cho nối tại hợp lưu các
ống gan và 18 trường hợp (15,38%) cho nối ngay
dưới hợp lưu các ống gan.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 4
Hiện tượng dính của nang
Nang được ghi nhận là dính, gây khó khăn ít
nhiều khi bóc tách trong 30 trường hợp (25,64%).
Bảng 2: Phân bố hiện tượng dính của nang ở các
nhóm tuổi
Dính nang ≤ 10 tuổi
n = 105
> 10 tuổi
n = 12
Có 22 20,95% 8 66,67%
Không 83 79,05% 4 33,33%
Fisher, P = 0,015
Nang thường dính nhiều, gây khó khăn khi
bóc tách cắt nang ở nhóm > 10 tuổi (66,7%).
Trong khi đó, ở các nhóm ≤ 10 tuổi, nang thường
không dính, việc bóc tách cắt nang thường dễ
dàng hơn rất nhiều. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Truyền máu khi mổ
Có 9 trường hợp (7,69%) phải truyền máu
trong lúc mổ do nang dính, bóc tách mất
nhiều máu, hoặc do tình trạng thiếu máu
mạn từ trước mổ.
Bảng 3: Phân bố bệnh nhi phải truyền máu khi mổ
theo nhóm tuổi
Truyền máu khi mổ ≤ 10 tuổI n = 105 > 10 tuổI n = 12
Có 5 4,76% 4 33,33%
Không 100 95,24% 8 66,67%
Fisher, P < 0,001
Chúng tôi nhận thấy số bệnh nhi ở nhóm >
10 tuổi cần được truyền máu nhiều hơn so với ở
các nhóm ≤ 10 tuổi. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Theo dõi sau mổ – biến chứng
Theo dõi sau mổ
Tử vong: 0
Mổ lại: 0
Thời gian xuất viện
Từ ngày thứ 5-25 sau mổ, trung bình là 8,51 ±
3,74 ngày sau mổ.
Đa số các trường hợp (108 - 92,31%) được xuất
viện trong vòng hai tuần sau mổ, 9 trường hợp
(7,69%) bệnh nhi xuất viện muộn sau mổ 2 tuần.
7.69%
92.31% Sôùm
Muoän
Biểu đồ 4: Xuất viện
Phục hồi chức năng gan sau mổ
Ở tất cả các trường hợp, chức năng gan đều
trở về bình thường và không thay đổi trong quá
trình theo dõi.
Phục hồi của dãn đường mật trong gan sau mổ
Đại đa số các trường hợp: 60/61 (98,36%)
nang loại IV có cải thiện tình trạng dãn đường
mật trong gan: đường mật trong gan trở về kích
thước bình thuờng trên siêu âm theo dõi sau mổ.
Chỉ có 1/61 trường hợp (1,64%) còn dãn ống gan
trái và đường mật trong gan trái dai dẳng qua
thời gian theo dõi là 5,5 năm ở một bệnh nhi
được cắt nang, nối tận-tận tại hợp lưu các ống
gan lúc 3 tháng tuổi, nhưng hoàn toàn không có
biểu hiện lâm sàng.
Bảng 4: Phục hồi của dãn đường mật trong gan
(nang loại IV) sau mổ theo nhóm tuổi
Phục hồi dãn
đường mật trong
gan
≤ 10 tuổi
n = 52
> 10 tuổi
n = 9
Sau mổ 1 tháng 20 38,46% 4 44,44%
Sau mổ 4 tháng 28 53,85% 2 22,22%
Sau mổ 10 tháng 3 5,77% 3 33,33%
Không phục hồi 1 1,92% 0 0%
Tổng cộng 52 100% 9 100%
Dãn đường mật trong gan ở các nhóm ≤ 10
tuổi phục hồi nhanh hơn ở nhóm > 10 tuổi.
Viêm loét dạ dày-tá tràng
Trên phim chụp dạ dày-tá tràng thường quy
sau mổ, chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào
có hình ảnh loét dạ dày-tá tràng. Có 3 trường
hợp (2,63%) có hình ảnh của viêm dạ dày trên
phim chụp dạ dày-tá tràng, trong đó có một
trường hợp được xác định lại bằng nội soi dạ
dày-tá tràng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 5
Không ghi nhận trường hợp nào có trào
ngược chất cản quang từ ruột lên đường mật
trên phim chụp dạ dày-tá tràng định kỳ sau mổ.
Biến chứng
Chúng tôi ghi nhận 10 biến chứng sớm và 3
biến chứng muộn ở 10 bệnh nhi (8,55%). Số
không có biến chứng là 107 bệnh nhi (91,45%)
91.45%
Khoâng bieán chöùng
Bieán chöùng
Biểu đồ 5: Biến chứng sau mổ.
2
11
3
6
1.75
0.88
2.56
5.13
0.85
0
1
2
3
4
5
6
7
Roø maät Tuï dòch oå
buïng
Nhieãm
truøng veát
moå
Vieâm
ñöôøng maät
Soûi maät
Soá tröôøng hôïp
Tyû leä
Biểu đồ 6: Các biến chứng sau mổ
Bảng 5: Phân bố biến chứng sau mổ theo nhóm tuổi
Biến chứng ≤ 5 tuổi
n = 65
> 5 tuổi
n = 52
Tổng cộng
n = 117
Rò mật 2 4 6 5,13%
Tụ dịch ổ
bụng
2 1 3 2,56%
Nhiễm trùng
vết mổ
0 1 1 0,85%
Viêm đường
mật
1 0 1 0,88%
Sỏi mật 1 1 2 1,75%
Tổng cộng 6 (9,23%) 7 (13,46%) 10* 8,55%
(*): 3 bệnh nhi có cùng lúc 2 biến chứng: rò
mật-nhiễm trùng vết mổ, rò mật-tụ dịch ổ bụng
và nhiễm trùng đường mật-sỏi mật.
Chúng tôi nhận thấy biến chứng sau mổ
thường gặp hơn ở các bệnh nhi > 5 tuổi so với ở
các bệnh nhi ≤ 5 tuổi. Tuy nhiên sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê P = 0,182.
Biến chứng sớm
Có 10 biến chứng sớm sau mổ xảy ra ở 8
bệnh nhi (6,83%), trong đó có 2 bệnh nhi có cùng
lúc 2 biến chứng: một trường hợp vừa có rò mật
vừa có tụ dịch nhiễm trùng trong ổ bụng, và một
trường hợp vừa có rò mật vừa có nhiễm trùng
vết mổ.
Rò mật
Dẫn lưu mật kéo dài đến ngày thứ 2 – 18 sau
khi mổ, trung bình 5.23 ± 3,03 ngày sau mổ. Đa
số các trường hợp (94,87%) dẫn lưu mật hết
trong tuần lễ đầu tiên sau mổ. Rò mật kéo dài
hơn 1 tuần sau mổ gặp trong 6 trường hợp
(5,13%), tuy nhiên, không có trường hợp rò nào
đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật lại:
- 4 trường hợp rò lành trong tuần thứ 2.
- 2 trường hợp rò lành trong tuần thứ 3.
94.87%
5.13%
Khoâng roø maät
Roø maät
Biểu đồ 7: Rò mật sau mổ.
Bảng 6: Phân bố rò mật sau mổ theo nhóm tuổi
< 1
tuổi
1 – 5
tuổi
6 – 10
tuổi
> 10 tuổi Tổng
cộng
Số trường
hợp
0 2 3 1 6
Tỉ lệ cho
nhóm tuổi
0% 3,92% 7,5% 7,14% 5,13%
Qua phân tích rò mật so với tuổi mổ, chúng
tôi nhận thấy:
- Rò mật thường gặp ở các nhóm bệnh nhi >
5 tuổi so với ở các nhóm ≤ 5 tuổi (4 trường hợp -
7,69% so với 2 trường hợp - 3,08%).
- Không có rò mật ở nhóm tuổi nhũ nhi.
Tụ dịch nhiễm trùng trong ổ bụng
3 trường hợp (2,56%) có tụ dịch nhiễm trùng
trong ổ bụng sau mổ ở các bệnh nhi 2 tuổi, 3 tuổi
và 6 tuổi, đều đáp ứng điều trị nội khoa, không
cần phải mổ lại.
Nhiễm trùng vết mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 6
Một trường hợp (0,85%) nhiễm trùng vết mổ
ở bệnh nhi 14 tuổi có tiền căn mổ sỏi mật và cấy
dịch mật khi mổ có vi trùng Enterobacter và
Klebsiella.
Biến chứng muộn
Có 3 trường hợp (2,56%) không tái khám và
mất hoàn toàn liên lạc, 114 trường hợp (97,44%)
được theo dõi lâu dài với thời gian trung bình là
5,03 ± 0,56 năm (4 – 6 năm), chúng tôi ghi nhận:
Nhiễm trùng đường mật
Nhiễm trùng đường mật được ghi nhận ở
một trường hợp (0,88%) 4 năm sau mổ cắt nang
OMC đơn thuần và nối mật-ruột tận-bên tại hợp
lưu các ống gan lúc 4 tuổi. Trường hợp này chưa
được can thiệp phẫu thuật lại do đáp ứng tốt với
điều trị nội khoa.
Sỏi đường mật
Sỏi đường mật trong gan được ghi nhận ở hai
trường hợp (1,75%): một trường hợp có kết hợp
nhiễm trùng đường mật vừa nêu trên và một
trường hợp có dãn và có sỏi đường mật trong gan
trái xuất hiện sau mổ 4,6 năm ở bệnh nhi được cắt
nang OMC đơn thuần, nối tận-bên lúc 8 tuổi.
Trường hợp này chưa có biểu hiện lâm sàng rõ
nét: thỉnh thoảng chỉ có những cơn đau bụng, tự
hết, nên chỉ định mổ lại chưa được đặt ra.
BÀN LUẬN
Cắt nang ống mật chủ triệt để
Phẫu thuật cắt nang cần được thực hiện một
cách triệt để: phía dưới đến đoạn cuối OMC
trong tụy, phía trên đến gần hợp lưu các ống
gan(10,11,20,21). Động tác này thường không gặp khó
khăn ở các bệnh nhi < 5 tuổi do chưa có những
đợt viêm nhiễm mạn tính. Trong khi đó, cắt
nang sẽ gặp khó khăn hơn ở các bệnh nhi > 10
tuổi do hiện tượng viêm nhiễm tái phát nhiều
lần của đường mật làm dính thành nang vào
TMC, ĐMG và đầu tụy, làm cho những cơ quan
này dễ bị thương tổn khi phẫu tích(6,10,11). Chúng
tôi ghi nhận số trường hợp khó khăn khi cắt
nang do dính nang và số trường hợp phải truyền
máu khi mổ tăng cao rõ rệt ở nhóm tuổi > 10 tuổi
so với ở các nhóm tuổi nhỏ hơn (66,67% so với
20,95% và 33,33% so với 4,76%). Tuy nhiên, hiện
nay ngày càng hiếm gặp các tình huống nang
OMC có viêm nhiễm tái phát nhiều lần của
đường mật, gây khó khăn khi cắt nang, vì siêu
âm ngày càng giúp phát hiện bệnh sớm hơn.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 10,25% bệnh
nhi > 10 tuổi.
Chúng tôi không gặp khó khăn để cắt phần
cuối nang đến gần hết OMC bằng cách chủ động
mở đoạn cuối nang, để quan sát rõ ràng đường
mật từ bên trong kết hợp với chụp đường mật
khi mổ theo khuyến cáo của nhiều tác giả trong
và ngoài nước(3,7,8,12,19,22). Vì vậy, không có trường
hợp nào bị tổn thương ống tụy khi mổ và cũng
không có trường hợp nào cần phải chừa lại một
đoạn cuối nang hình đáy ly, để tránh tổn thương
ống tụy như một số tác giả Pháp khuyến cáo(26,27).
Những hình thức cắt nang không triệt để này có
thể sẽ dẫn đến những biến chứng lâu dài sau
mổ, rất khó sửa chữa như đau bụng kéo dài do
hiện tượng trào ngược dịch tụy vào trong phần
sót lại của đoạn đường mật trong tụy, ung thư
hóa phần để lại này(21).
Vị trí thực hiện miệng nối
Vị trí thực hiện miệng nối mật-ruột tại ống
gan khi cắt nang cũng có nhiều tranh cãi(10,11,20).
Khi cắt nang, miệng nối mật-ruột thường được
thực hiện tại nơi ống gan chung có kích thước
tương đối bình thường, ngay phía trên cực trên
dãn to của nang. Kiểu nối này được Miyano(10,11)
gọi là nối mật-ruột theo quy ước.
Tuy nhiên, các báo cáo của Todani(20,21) cho
thấy có đến 40% miệng nối mật-ruột theo quy
ước bị hẹp sau mổ cần phải mổ lại, trong khi đó,
chỉ có 1,33% hẹp miệng nối cho kiểu nối cao tại
hợp lưu các ống gan. Chính vì vậy, tác giả
khuyến cáo nên thực hiện thường qui miệng nối
mật-ruột cao tại hợp lưu các ống gan để có được
những thuận lợi sau:
- Có được một tình trạng mô học tốt nhất:
biểu mô đường mật còn hiện hữu ở vị trí này,
chưa có hiện tượng xơ hóa thành nang.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 7
- Dễ dàng mở rộng ống gan để có được
một miệng nối mật-ruột rộng rãi, tránh hẹp
miệng nối là tiền đề dẫn đến hầu hết các biến
chứng sau mổ khác như nhiễm trùng đường
mật, sỏi mật
- Đường mật tại vị trí này được tưới máu
hoàn hảo nên ít có rò mật sau mổ.
Báo cáo của Miyano(10) có 174 trường hợp cắt
nang với 171 nối mật ruột theo quy ước và chỉ có
3 nối cao tại hợp lưu các ống gan. Với thời gian
theo dõi sau mổ lâu dài nhất là 30 năm, chỉ có
1,8% trường hợp có hẹp miệng nối mật-ruột và
hầu hết đều xảy ra ở những bệnh nhi trên 10 tuổi
hoặc có dãn đường mật trong gan kèm theo
(nang loại IV). Tác giả cho rằng tổn thương
nặng, không hồi phục của ống gan (thường gặp
ở những bệnh nhi > 10 tuổi do viêm nhiễm kéo
dài, mất niêm mạc và xơ hóa) và ứ đọng mật ở
đường mật trong gan bị dãn dai dẳng sau mổ,
gây ra nhiễm trùng đường mật là những yếu tố
nguy cơ làm cho miệng nối mật-ruột bị hẹp lại
sau mổ. Từ đó, tác giả cho rằng nối mật-ruột
theo quy ước có thể được thực hiện trong đa số
các trường hợp và chỉ nên thực hiện nối cao tại
hợp lưu các ống gan ở các bệnh nhi > 10 tuổi,
hoặc trong những hoàn cảnh cụ thể như có dãn
đường mật trong gan kèm theo (nang loại IV), có
hẹp ống gan vì việc thực hiện miệng nối cao tại
hợp lưu các ống gan một cách thường qui như
theo khuyến cáo của Todani thường không dễ,
nhất là ở bệnh nhi < 5 tuổi có kích thước đường
mật tương đối nhỏ.
Ohi và Okada(14,16) cũng cho rằng chỉ cần thực
hiện miệng nối mật-ruột theo quy ước với điều
kiện không có hẹp của các ống gan hoặc không
có dãn đường mật trong gan trên phim chụp
đường mật khi mổ.
Thật ra, qua tham khảo báo cáo của
Todani(20,21) chúng tôi nhận thấy 80% các trường
hợp hẹp miệng nối maät-ruột sau cắt nang, nối
mật-ruột theo quy ước của tác giả là ở các bệnh
nhi > 5 tuổi. Thực tế trong nghiên cứu của chúng
tôi, ngay cả những mẫu sinh thiết của đường
mật ngoài gan ở vị trí cao nhất là tại hợp lưu các
ống gan, cũng đều ghi nhận tình trạng thương
tổn giống như của thành nang nhưng ở một mức
độ nhẹ hơn rất nhiều so với đường mật bên
dưới. Do đó, chúng tôi chọn một giải pháp trung
dung giữa hai tranh cãi: thực hiện miệng nối
mật-ruột tại hợp lưu các ống gan cho các nhóm
bệnh nhi > 5 tuổi hoặc ở những nang OMC có
kèm dãn đường mật trong gan (nang loại IV)
hoặc có hẹp tại hợp lưu các ống gan ở bất kỳ
nhóm tuổi nào. Trong những trường hợp còn lại
là nang OMC đơn thuần ở các nhóm bệnh nhi ≤
5 tuổi, chúng tôi vẫn cố gắng thực hiện miệng
nối mật-ruột cao hơn kiểu quy ước, ngay dưới
hợp lưu các ống gan (< 5mm).
Trong 70,94% trường hợp chúng tôi thực
hiện tạo hình mở rộng ống gan để có được
miệng nối mật-ruột đủ rộng. Đối với vị trí nối
ngay dưới hợp lưu các ống gan, chúng tôi thực
hiện cắt vát ống gan theo chiều trước-sau để có
được một miệng nối rộng hơn: phía sau chừa từ
3-5mm cho dễ nối, nhưng phía trước chúng tôi
chỉ chừa từ 1-3mm tính từ hợp lưu các ống gan.
Riêng cho nối tại hợp lưu các ống gan, chúng tôi
thực hiện việc tạo hình bằng cách xẻ dọc thành
bên hai ống gan để có được một miệng nối rộng
đạt yêu cầu.
Theo Ando(1), có đến 80,6% nang OMC có
hẹp đường mật trong gan gần hợp lưu các ống
gan. Do đó, miệng nối cần được thực hiện cao tại
hợp lưu các ống gan cho những trường hợp này,
kết hợp với tạo hình mở rộng ống gan để có
được một miệng nối mật-ruột thật rộng, tránh ứ
đọng mật gây tạo sỏi đường mật trong gan.
Sau mổ
Sau mổ sớm
Rò mật sau mổ
Rò mật sau mổ trong nghiên cứu ít hơn và
nhẹ hơn so với báo cáo của chúng tôi trước
đây(23) cũng như của các tác giả khác (Bảng 7).
Thời gian dẫn lưu mật trung bình sau mổ là 5,23
ngày, chỉ có 6 trường hợp (5,13%) rò mật kéo dài
trên 1 tuần nhưng đều tự thu xếp trong vòng 3
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 8
tuần, không có trường hợp nào cần mổ lại để
dẫn lưu hay khâu rò.
Bảng 7: Tỉ lệ rò mật sau mổ cắt nang theo một số
báo cáo
Tác giả Tỉ lệ Mổ lại
Saing(17)
Lê Đình Chiến(9)
Chúng tôi - 2000(23)
Chúng tôi - 2006
7,31%
5,9%
7,69%
5,13%
7,31%
0,84%
1,92%
0
Shi và Yamakata(18,25) cho rằng rò mật
thường xảy ra ở bệnh nhi > 10 tuổi do tình trạng
mô học kém của đường mật vì viêm đường mật
kéo dài. Ở bệnh nhi ≤ 5 tuổi, rò mật thường do
vấn đề kỹ thuật khâu nối hơn là do thương tổn
của đường mật. Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận ở các nhóm tuổi > 5 tuổi, rò mật kéo dài
thường xảy ra hơn so với các ở nhóm tuổi ≤ 5
tuổi (7,69% so với 3,08%).
Tụ dịch nhiễm trùng trong ổ bụng
Có 3 trường hợp (2,56%) tụ dịch nhiễm trùng
ổ bụng trong nghiên cứu, tất cả đều đáp ứng với
điều trị nội. Đây là các ổ tụ dịch mật có dạng
nhiễm trùng trong ổ bụng được hình thành do
rò mật nặng, trong khi dẫn lưu không hiệu quaû.
Các trường hợp rò mật của chúng tôi thường
nhẹ có lẽ do miệng nối cao mật-ruột được đặt ở
vị trí có tình trạng mô học tốt nhất,
Báo cáo của chúng tôi trước đây(23) ghi nhận
11,54% có tụ dịch nhiễm trùng trong ổ bụng, 3,85%
trường hợp phải mổ lại để dẫn lưu. Nguyễn
Thanh Liêm(12) ít ghi nhận tụ dịch hơn: 1,95%
nhưng có 0,65% trường hợp phải mổ lại.
Sau mổ muộn
Dãn đường mật trong gan của nang ống mật
chủ loại IV
Ở các trường hợp nang OMC kết hợp dãn
đường mật trong gan, chúng tôi chỉ thực hiện
việc cắt nang đường mật ngoài gan, tạo ra một
miệng nối ống gan-hỗng tràng rộng > 10mm và
cao tại hợp lưu các ống gan. Trong nghiên cứu
này, 98,36% trường hợp đường mật trong gan bị
dãn đã trở về bình thường sau mổ, đặc biệt sự
phục hồi này xảy ra sớm ở các nhóm tuổi ≤ 5
tuổi so với ở các nhóm tuổi lớn hơn. Chúng tôi
chỉ ghi nhận một trường hợp (1,64%) dãn đường
mật trong gan còn dai dẳng 5,5 năm sau mổ ở
một bệnh nhi được mổ lúc 3 tháng tuổi.
Việc tạo ra một miệng nối mật-ruột rộng khi
cắt nang sẽ làm giảm áp nhanh chóng và hiệu
quả đường mật trong gan, giúp cho đường mật
trong gan đã bị dãn nhanh chóng trở về kích
thước bình thường. Nếu thực hiện miệng nối
mật-ruột thấp trên ống gan theo quy ước, kích
thước ống gan không đủ to để có thể tạo ra một
miệng nối rộng. Thêm vào đó, tình trạng mô học
cũng như tưới maùu của đường mật tại vị trí
này không tốt nên hẹp miệng nối thường xảy ra
hơn, vấn đề tháo lưu mật bị cản trở, gây ứ đọng
mật, làm cho dãn đường mật trong gan còn dai
dẳng, từ đó dẫn đến nhiễm trùng đường mật và
sỏi mật(2,5,13,15,21).
Ohi(13), sau khi đã thực hiện miệng nối cao tại
hợp lưu các ống gan chỉ ghi nhận 2/39 trường
hợp còn dãn dai dẳng đường mật trong gan sau
mổ nhưng hoàn toàn không có biểu hiện lâm
sàng nên chỉ theo dõi sát. Miyano(11) cũng
khuyến cáo chỉ nên theo dõi sát những bệnh nhi
còn dãn đường mật trong gan sau mổ để can
thiệp lại ngay khi có biến chứng.
Nhiễm trùng đường mật
Với thời gian theo dõi sau mổ là 5,03 năm,
mặc dù có đeán 52,14% trường hợp là nang
OMC kết hợp dãn đường mật trong gan (loại IV)
nhưng chúng tôi chỉ ghi nhận một trường hợp
(0,88%) có biến chứng nhiễm trùng đường mật
nhưng lại ở một nang OMC đơn thuần (0,88%)
sau mổ 4 năm cắt nang, nối mật-ruột tận-bên tại
hợp lưu ống gan lúc 4 tuổi.
Tỉ lệ nhiễm trùng đường mật sau mổ trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với một số
nghiên cứu khác ở trong và ngoài nước (Bảng 8).
Kết quả này có thể do thời gian theo dõi sau mổ
của chúng tôi chưa đủ lâu so với những báo cáo
của các tác giả nước ngoài, nhưng cũng có thể do
chúng tôi đã tạo ra được những yếu tố thuận lợi
cho sự tháo lưu mật dễ dàng sau mổ, tránh ứ đọng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 9
mật. So với các báo cáo trong nước, thời gian theo
dõi sau mổ của chúng tôi dài hơn nhưng kết quả
đạt được lại khả quan hơn.
Bảng 8: Tỉ lệ nhiễm trùng đường mật sau cắt nang
theo một số báo cáo
Tác giả – Vị trí miệng
nối
Nhiễm trùng
đường mật
Thời gian theo
dõi
Saing(17)
Valayer(26)
Gardikis(4)
Lê Đình Chiến(9)
Nguyễn Thanh Liêm(12)
Chúng tôi(23)
Chúng tôi – cao
Miyano – cao(10)
4,88%
12,5%
25%
18,4%
7,1%
3,85%
0,88%
1,8%
8,5 năm
7 năm
9,3 năm
4,6 năm
3,2 năm
1,2 năm
5,03 năm
11,1 năm
Sỏi mật
Qua siêu âm, chúng tôi ghi nhận hai trường
hợp (1,75%) có sỏi và dãn đường mật trong gan
sau mổ cắt nang OMC đơn thuần từ 4 - 4,5 năm
ở hai bệnh nhi 4 tuổi và 9 tuổi. Trường hợp đầu
có kèm theo nhiễm trùng đường mật, trường
hợp sau chỉ ghi nhận đau bụng đơn thuần.
Miyano(10) có 4 trường hợp sỏi trong gan sau
mổ, trong đó 3 trường hợp là của nang OMC
kết hợp dãn đường mật trong gan và không có
trường hợp nào nhỏ hơn 5 tuổi. Tác giả cho
rằng hẹp miệng nối mật-ruột sau mổ do tình
trạng mô học xấu của đường mật nơi làm
miệng nối (thường gặp ở bệnh nhi > 10 tuổi),
dãn đường mật trong gan dai dẳng sau mổ và
cặn mật sót lai, không được lấy đi ở đường mật
trong gan khi mổ là những nguyên nhân tạo ra
sỏi đường mật trong gan sau mổ. Cả hai trường
hợp sỏi đường mật trong gan sau mổ của chúng
tôi được nghĩ là do hẹp miệng nối mật-ruột sau
mổ vì ở cả hai bệnh nhi này trước mổ đều
không được ghi nhận tình trạng dãn của đường
mật trong gan.
Báo cáo của Ohi(14) cho thấy sỏi đường mật
trong gan ở 4% trường hợp và tất cả các trường
hợp này đều xuất hiện sau mổ > 7 năm. Tác giả
cho rằng hẹp tại hợp lưu các ống gan và dãn
đường mật trong gan là những nguyên nhân gây
ứ đọng mật và tạo sỏi. Do đó, miệng nối mật-
ruột cần được thực hiện ở cao và rộng, để có
được sự tháo lưu mật tốt nhất, tránh tạo sỏi
trong gan.
Nghiên cứu của chúng tôi chưa ghi nhận
trường hợp nào có sỏi đường mật trong gan ở
nang OMC kết hợp với dãn đường mật trong
gan vì hầu hết các dãn đường mật trong gan đều
trở về bình thường sau mổ với kiểu nối cao mật-
ruột tại hợp lưu các ống gan.
Mặc dù tỉ lệ sỏi đường mật trong gan trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các tác giả
khác trên thế giới, nhưng lại cao hơn các tác giả
trong nước (Bảng 9). Có lẽ do thời gian theo dõi
sau mổ của chúng tôi ngắn hơn so với các tác giả
nước ngoài, nhưng lại dài hơn so với các tác giả
khác trong nước.
Bảng 9: Tỉ lệ sỏi mật sau mổ cắt nang theo một số
báo cáo
Tác giả Thời gian
theo dõi
Tỉ lệ sỏi mật
Miyano(10)
Ohi(14)
Tsuchida(24)
Saing(17)
Joseph(7)
Lê Đình Chiến(9)
Nguyễn Thanh Liêm(12)
Chúng tôi
11,1 năm
9,8 năm
12,5 năm
8-11 năm
1-15 năm
4,6 năm
3,2 năm
5,03 năm
2,3%
4,4%
5,82%
7,5%
2,6%
0%
0%
1,75%
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 117 trường hợp cắt nang
OMC triệt để và nối cao mật-ruột tại khoa Ngoại
- bệnh viện Nhi Đồng 1, thành phố Hồ Chí Minh
từ 01/2000 đến 12/2001, chúng tôi rút ra những
kết luận sau:
Không có trường hợp nao bị tử vong hay
phải mổ lại.
Với thời gian theo dõi sau mổ trung bình là
5,03 ± 0,56 năm, biến chứng được ghi nhận ở 10
bệnh nhi (8,55%) và thường gặp ở các bệnh nhi >
5 tuổi so với ở các bệnh nhi ≤ 5 tuổi.
Như vậy, kết quả có được sau mổ của phẫu
thuật cắt nang triệt để và nối cao mật-ruột tương
đối khả quan với thời gian theo dõi sau mổ chấp
nhận được. Tuy nhiên, nhằm đánh giá lâu dài
hơn và rõ nét hơn về các biến chứng muộn sau
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 10
mổ, cong trình cần được tiếp tục để có được kết
quả chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ando H, Ito T, Kaneko K, Nagaya M, Seo T (1995).
Congenital stenosis of the intrahepatic of bile duct
associated with choledochal cysts. J Am Coll Surg 181 (5),
pp. 426-430.
2. Chijiiwa K, Komura M, Kameoda N (1994). Postoperative
follow-up of patients with type IVa choledochal cysts after
excision of extrahepatic cyst. J Ann Coll Surg 179 (6), pp.
641-645.
3. Flake AW (1997), Surgery of infant and children – Scientific
principles and practice, Lippincott-Raven, pp. 1415-1424.
4. Gardikis S, Antipas S, Kambouri K (2005). The Roux-en-Y
procedure in congenital hepatobiliary disorders. Rom J
Gastroenterol 14 (2), pp. 135-140.
5. Hara H, Morita S, Ishibashi T, Sako S, Otani M (2001).
Surgical treatment for congenital biliary dilatation, with or
without intrahepatic bile duct dilatation.
Hepatogastroenterology 48 (39), pp. 638-641.
6. Howard ER (1988), Maingot’s Abdominal Operation, 8th
edition, Appleton-Century-Crofts, pp. 1789 - 1808
7. Joseph VT (1990). Surgical techniques in long-term results
in the treatment of choledochal cyst. J Pediatr Surg 25 (7),
pp. 782-787.
8. Karrer FM (1990). Choledochal cyst. Surgical Clinics of North
America 12, pp. 1410 – 1416.
9. Lê Đình Chiến (2000). Đánh gia kết quả điều trị u nang
ống mật chủ ở trẻ em bằng phương pháp cắt nang và nối
mật ruột kiểu Roux-en-Y. Nhi khoa - Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học năm 2000, tr. 542-547
10. Miyano T, Yamakata A, Kato Y (1996).
Hepaticoenterostomy after excision of choledochal cyst in
children: A 30-year experience with 180 cases. J Pediatr
Surg 31 (10), pp. 1411-1421.
11. Miyano T, Yamataka A, Kato Y (1997). Choledochal cyst.
Curr Opinion in Pediatr 9, pp. 283-288.
12. Nguyễn Thanh Liêm, Phạm Duy Hiền, Nguyễn Đức Thọ
(2005). Kết quả điều trị 154 trường hợp u nang ống mật chủ
bằng kỹ thuật cắt nang và nối mật-ruột kiểu Roux-en-Y. Tạp
chí Y học thực hành số 506, tr. 42-45.
13. Ohi R, Koike N, Matsumoto Y (1985). Changes of
intrahepatic bile duct dilatation after surgery for congenital
dilatation of the bile duct. J Pediatr Surg 20 (2), pp. 138-142.
14. Ohi R, Yaoita S, Takamichi K (1990). Surgical treatment of
congenital dilatation of the bile duct with special reference
to late complications after total excisional operation. J
Pediatr Surg 25 (6), pp. 613-617.
15. Ohtsuka Y, Yoshida H, Matsunaga T (2002). Stagery of
management for congenital biliary dilatation in early
infancy. J Pediatr Surg 37 (8), pp. 1173-1176.
16. Okada O, Nakamura T, Okumura K (1987). Surgical treatment
of choledochal cyst with technical considerations. Surgery 101
(2), pp. 238-243.
17. Saing H, Han H (1997). Early and late results of excision of
choledochal cysts. J Pediatr Surg 32 (11), pp. 1563-1566.
18. Shi LB, Peng SY, Meng XK (2001). Diagnosis and treatment
of congenital choledochal cyst: 20 year’ experience in
China. World J of Gastroenterology, 7(5), 732-736.
19. Stewart BA, Lilly JR (1990). Choledochal cyst. Surg Clin North
Amer 70(6).
20. Todani T, Watanabe Y, Urushihara N (1995). Biliary
complications after excisional procedure for
choledochal cyst. J Pediatr Surg 30 (3), pp. 478-481.
21. Todani T (1998), Pediatric surgery and urology: long term
outcomes, WB Saunders Company Limited, pp. 417-429.
22. Trần Ngọc Lương, Vương Hùng, Nguyễn Thanh Liêm,
Nguyễn Xuân Thụ (1999). Kỹ thuật nối đường mật-tá tràng
bằng quay ruột biệt lập trong điều trị dãn đường mật bẩm sinh.
Tạp chí thông tin dược học số 9, tr. 28-32.
23. Trương Nguyễn Uy Linh, Trần Thành Trai, Huỳnh Công
Tiến, Đào Trung Hiếu (2000). Điều trị phẫu thuật nang
ống mật chủ ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh số 1 (4), tr. 106-111.
24. Tsuchida Y, Takahashi A, Suzuki N (2002). Development
of intrahepatic biliary stones after excision of choledochal
cysts. J Pediatr Surg 37 (2), pp. 165-167.
25. Yamataka A, Oishi OK, Okada Y (1997). Complications after
cyst excision with hepaticoenterostomy for choledochal cysts
and their surgical management in children versus adults. J
Pediatr Surg 32 (7), pp. 1097-1102.
26. Valayer J (1990), Chirurgie digestive chez l’enfant, Doin, pp.
259-266.
27. Vergnes P. (1994). Kyste du cholédoque. Chirurgie hépato-
biliaire de l’enfant, Congrès de Collège national de chirurgie
pédiatrique: pp. 85-100.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 11
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 12
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_phau_thuat_cat_nang_triet_de_va_noi_cao_mat.pdf