Trong số 70 bà mẹ được quan sat khi pha
ORS, có 41 bà mẹ (58,6%) pha đúng tất cả các
bước rửa tay và tráng dụng cụ pha, dụng cụ
chứa, đồ dùng để uống trước khi pha ORS, đo
lượng nước chính xác, dùng nước sôi để
nguội, pha cả gói ORS trong một lần pha, đậy
nắp bình và dụng cụ chứa, chỉ dùng dung dịch
đã pha trong 24 giờ. Tỉ lệ này tương đương với
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai
(2006) có 54,5% pha dung dịch ORS đúng(7).
nhưng cao hơn trong nghiên cứu của Lưu Thị
Minh Châu (2001) có 39% các bà mẹ pha dung
dịch ORS đúng(4). Trong số 29 bà mẹ pha dung
dịch ORS sai trong nghiên cứu của chúng tôi,
có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha
nhiều lần. Mặc dù tỉ lệ này không cao (so với
các bà mẹ biết cách pha đúng) nhưng chúng
tôi cho rằng cần nâng cao trình độ hiểu biết
của các bà mẹ hơn nữa để tránh tình trạng dù
bà mẹ có biết dung dịch ORS nhưng lại không
biết cách pha đúng liều lượng khiến cho trẻ bị
rối loạn nước và điện giải, đặc biệt là ngộ độc
muối rất nguy hiểm, khó điều trị do pha ORS
quá đặc. Trong nghiên cứu của chúng tôi có
trường hợp bệnh nhi Vũ Anh D. 15 tháng tuổi
vào viện trong tình trạng mất nước nặng do
mẹ cho uống nước quả hồng xiêm rang và
nước đường đậm đặc. Kết quả điện giải đồ
ngày đầu tiên vào viện của bệnh nhi đó như
sau: Na+: 161 mmol/l, K+: 2,5 mmol/l, Cl-:
137mmol/l.
Chúng tôi có thử tìm hiểu sự tác động của một
số thông số nghiên cứu lên kỹ năng sử dụng ORS
của các bà mẹ có con TCC được nghiên cứu,
nhưng chỉ thấy có vai trò của học vấn của bà mẹ
(các bà mẹ học trên phổ thông có kỹ năng kiểm tra
gói ORS tốt hơn) và của nghề nghiệp mẹ (các bà
mẹ làm lao động văn phòng, trí thức có tỷ lệ pha
đúng ORS cao hơn các bà mẹ lao động tay chân).
Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn
bé, nên việc đánh giá tác động của các yếu tố ảnh
hưởng còn rất hạn chế. Cần có nghiên cứu với cỡ
mẫu lớn hơn để đánh giá chính xác và sâu hơn về
lĩnh vực này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ, kỹ năng sử dụng oresol của các bà mẹ có con tiêu chảy cấp tại khoa nhi bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 88
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL CỦA CÁC BÀ MẸ
CÓ CON TIÊU CHẢY CẤP TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Phan Thị Cẩm Hằng*, Nguyễn Văn Bàng*
TÓM TẮT
Mục tiêu. Khảo sát kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC.
Phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang từ 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại Khoa Nhi Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2007 bằng bộ câu hỏi điều tra và quan sát theo bảng kiểm.
Kết quả. Nghiên cứu cho thấy: (1) 58,8% các bà mẹ biết một phần tác dụng của ORS, 41,2% biết được 2
loại gói ORS có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng dịch ORS
cho trẻ uống khi đang TCC; (2) 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch thay thế ORS, nhưng có tới 65,9% không biết
cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC; (3) 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt
cho con của họ và 94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ bị TCC lần sau; (4) 92,9% có kiểm tra ORS tr-
ước khi pha, là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các bà mẹ cho uống ORS đúng; (5) Trong số các bà mẹ
pha ORS sai có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần
Kết luận. Kết quả nghiên cứu này cho thấy: cần tiếp tục chương trình CDD, tập trung vào thông tin
về tác dụng ORS và cách nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy và cách pha ORS đúng quy cách để tránh những tai
biến điều trị đáng tiếc.
Từ chủ: Bà mẹ, kiến thức, kỹ năng, thái độ, tiêu chảy cấp, oresol.
ABSTRACT
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND SKILL OF UTILIZATION OF ORS IN MOTHERS
OF CHILDREN WITH ACUTE DIARRHEA ADMITTED IN BACH MAI HOSPITAL
Phan Thi Cam Hang, Nguyen Van Bang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 88 – 93
Objective. To assess knowledge, attitude and skill of mothers taking care their children suffering from
acute diarrhea by managing ORS.
Population and methods. This cross-sectional study was carried out on a population of 85 young
mothers.
Results. The study showed that: (1) 58.8% of mothers were aware of usefulness of ORS, 41.2% were
aware of at least 2 kinds of ORS packet existing in the pharmacy, 72.9% ignored the composition of ORS
packet and 21.2% ignored correct amount of ORS necessary to rehydrate a child with acute diarrhea. (2)
57.6% of mothers had appropriate knowledge on other solutions possible to use in case of shortage or lack of
ORS; however, up to 65.9% lacked knowledge on adequate feeding a child with acute diarrhea. (3) 69.4% of
mothers got ORS packets at home, 88,2% considered that ORS was helpful in diarreal children and 94.1%
thinked of using ORS again if their child suffered from diarrhea. (4) 92.9% of mothers checked the quality of
ORS packet before using, 58.6% knew how to prepare correctly solution from the ORS packet, 89.4% of
mothers knew how to rehydrate correctly their child by ORS. (5) 100% of 29 mothers, who did not know to
prepare correctly the solution, devided the content of ORS packet into several preparations.
* Bộ môn Nhi, ĐHYHN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 89
Conclusion. Results from the study suggest that it’s primary and crutial to maintain the program of
Control of Diarrheal Disease focussing on improvement of knowledge and skills of mothers in ORS usage
during taking care of their children with acute diarrhea.
Key-words: Acute diarrhea, attitude, knowledge, skill, oresol, mothers.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiêu chảy cấp (TCC) vẫn là một trong
những bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất, là
gánh nặng kinh tế xã hội đối với nhiều nước,
nhất là các nước đang phát triển. Theo Tổ chức
y tế thế giới (WHO), hàng năm có khoảng gần
1 tỷ trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy cấp. Trung
bình mỗi trẻ mắc 1,3 lượt/năm, trong đó có
hơn 3 triệu trẻ tử vong(10). Liệu pháp điều trị
phục hồi dịch và điện giải để điều trị và dự
phòng mất nước do tiêu chảy đã được hướng
dẫn và tuyên truyền rộng rãi trên thế giới
cũng như ở Việt Nam(1-9). Ở nước ta hiện nay,
90% trẻ em dưới 5 tuổi được bảo vệ bởi
chương trình này(6,7,10). Hiệu quả của liệu pháp
này phụ thuộc vào sự hiểu biết và nhất là sự
chấp nhận và kỹ năng sử dụng dung dịch
oresol (ORS) của người mẹ hoặc của người
chăm sóc trẻ. Vì vậy, việc nâng cao kiến thức
và kỹ năng thực hành của bà mẹ trong việc sử
dụng ORS đóng vai trò quan trọng bậc nhất
trong việc điều trị tiêu chảy ở trẻ. Đã có khá
nhiều nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ
và thực hành của bà mẹ trong dự phòng và
điều trị trẻ tiêu chảy ở Việt Nam(1-7), nhưng
chưa có nhiều nghiên cứu đi sâu đánh giá
riêng về kiến thức, thái độ và kỹ năng của các
bà mẹ trong việc sử dụng ORS để bù dịch và
điện giải cho trẻ TCC. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này nhằm (1) khảo sát kiến
thức và thái độ của các bà mẹ có con bị tiêu
chảy cấp đối với việc sử dụng ORS, (2) đánh
giá kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ khi
trẻ đang bị tiêu chảy cấp được điều trị tại khoa
Nhi bệnh viện Bạch Mai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
Là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị TCC vào
điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai từ
tháng 1 đến tháng 5-2007. Khảo sát kiến thức và
thái độ trong việc sử dụng ORS của bà mẹ bằng
nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang, dựa vào bộ
câu hỏi được xây dựng theo mục tiêu nghiên
cứu(1,4,6). Đánh giá kỹ năng sử dụng ORS của các
bà mẹ được dựa vào các bảng kiểm đã được sử
dụng trong các nghiên cứu trước đây ở Việt
Nam và trên thế giới(1,7,8-10). Xử lí số liệu theo
phần mềm Epi Info 6.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1 đến
tháng 5-2007 có 85 trẻ dưới 5 tuổi bị TCC vào
điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai trong
đó 56 trẻ trai (66%), 43 trẻ (50,6%) dưới 12
tháng, 30 (35,3%) từ 12-24 tháng, 39 trẻ mất
nước độ A (46%), 45 trẻ độ B (53% và 1 trẻ mất
nước độ C. Đặc điểm của các đối tượng nghiên
cứu được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1 Đặc điểm cơ bản của 85 bà mẹ có con TCC
trong nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Phân loại n Tỷ lệ %
Tuổi mẹ
30 tuổi 58 68,2
>30 tuổi 27 31,8
Trình độ văn
hóa mẹ
Phổ thông 25 29,4
Trung học, cao đẳng 24 28,2
Đại học, trên đại học 36 42,2
Nghề nghiệp
mẹ
Lao động gián tiếp (trí
thức, văn phòng)
56 65,9
Nghề khác 29 34,1
Kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ và
kỹ năng sử dụng ORS của các bà mẹ được
trình bày trong các bảng 2,3,4. Những sai sót
chủ yếu trong việc sử dụng ORS của các bà mẹ
trình bày trong bảng 5. Bảng 6 trình bày kết
quả đánh giá một số yếu tố liên quan đến kỹ
năng sử dụng ORS của các bà mẹ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 90
Bảng 2. Kiến thức sử dụng ORS của 85 bà mẹ
trong nhóm nghiên cứu
Kiến thức Phân loại n Tỷ lệ %
Biết loại ORS
Biết 1 loại 12 14,1
Biết 2 loại 35 41,2
Biết 3 loại 6 7,1
Không biết 32 37,6
Biết thành phần gói
ORS
Đúng hoàn
toàn
0 0
Đúng một phần 22 25,9
Sai 1 1,2
Không biết 62 72,9
Biết lượng ORS cho trẻ
uống
Đúng hoàn
toàn
12 14,1
Đúng một phần 48 56,5
Sai 18 21,2
Không biết 7 8,2
Biết tiếp tục cho ăn
hoặc bú sữa mẹ
Đúng 29 34,1
Sai 56 65,9
Bảng 3. Thái độ của 85 bà mẹ đối với việc sử dụng
ORS khi trẻ bị TCC
Thái độ Phân loại n Tỷ lệ%
Có sẵn ORS ở
nhà
Có 59 69,4
Không 26 30,6
Đánh giá tác dụng
điều trị TCC bằng
ORS
Tốt 75 88,2
Chưa tốt 5 5,9
Không tốt 0 0
Không biết 5 5,9
Chấp nhận sử
dụng ORS khi trẻ
bị TCC lần sau
Tiếp tục dùng ORS 80 94,1
Chưa biết 4 4,7
Không dùng nữa 1
*
1,2
Bảng 4. Kỹ năng sử dụng ORS của 70 bà mẹ có
con TCC được quan sát
Kỹ năng Phân loại n Tỷ lệ%
Kiểm tra gói ORS trước
khi pha
Có 65 92,9
Không 5 7,1
Nhận biết chất lượng gói
ORS
Biết ≥2 biểu
hiện
23 35,4
Biết 1 biểu
hiện
40 61,5
Không biết 2 3,1
Theo đúng quy trình pha
ORS
Đúng 41 58,6
Sai 29 41,4
Cho uống ORS đúng
cách
Đúng hoàn
toàn
36 42,4
Đúng một
phần
41 48,2
Sai 8 9,4
Bảng 5. Các sai sót trong cách pha và cho uống
ORS của 29 bà mẹ
Kỹ năng sai Phân loại n Tỷ lệ %
Khi pha ORS
Không rửa tay 4 13,8
Không tráng dụng cụ 1 3,4
Đo lượng nước không
chính xác
7 24,1
Không pha cả gói ORS
trong 1 lần pha
29 100
Không đậy nắp bình 6 20,7
Dùng quá 24 giờ 1 3,4
Khi cho trẻ
uống ORS
Chọn dụng cụ sai 13 26,5
Xử trí sai khi trẻ không
chịu uống
17 34,7
Xử trí sai khi trẻ nôn 20 40,8
Bảng 6. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng sử
dụng ORS của các bà mẹ
Các yếu tố ảnh hưởng Sử dụng ORS đúng
Kiểm tra
(n=65)
Pha
(n=70)
Cho uống
(n=85)
Tuổi mẹ
30 tuổi 14/43 27/47 24/58
>30 tuổi 9/22 14/23 12/27
Nghề mẹ
Lao động
gián tiếp
19/48 33/50* 26/56
Nghề khác 4/17 8/20 10/29
Học vấn
mẹ
Phổ thông 1/13* 6/15 11/25
CĐ, ĐH 22/52 35/55 35/60
Lần điều
trị
Lần đầu 21/59 35/63 32/78
Lần thứ 2 2/6 6/7 4/7
Lần TCC
Lần đầu 11/32 22/41 23/48
Lần thứ 2 12/33 19/29 13/37
* p<0,05
BÀN LUẬN
Khi được hỏi về tác dụng của ORS, chỉ có
21,2% các bà mẹ trả lời đúng là ORS dùng để
bù nước và điện giải; 58,8% các bà mẹ trả lời
được một phần tác dụng của ORS như chống
mất nước, bù nước. Có 2,4% trả lời sai như làm
ngừng tiêu chảy, hạ sốt, giữ nước, tăng sức đề
kháng. Có tới 17,6% các bà mẹ không biết ORS
có tác dụng gì, do vậy vẫn cần nâng cao hiểu
biết của bà mẹ hơn nữa để họ có thể sử dụng
ORS để điều trị và phòng bệnh TCC chủ động
hơn. Khi được hỏi về thành phần gói ORS chỉ
có 11 bà mẹ (12,9%) trả lời đuợc là có muối,
đường và điện giải, trong khi nghiên cứu tại
Nigeria có 1/3 số người được hỏi có sử dụng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 91
ORS và hơn 80% trong số đó biết thành phần
gói ORS(8). Đa số các bà mẹ đều không trả lời
chính xác lượng ORS cần cho uống là bao nhiêu,
các câu trả lời hầu hết là 1,2 gói một ngày, 200-
500ml mỗi ngày. Chỉ có 14,1% các bà mẹ biết
đúng cần phải cho ntrẻ uống bao nhiều khi vẫn
tiêu chảy cấp. Tỷ lệ này là rất thấp, tương đương
như trong nghiên cứu ở Zimbabwe và Thái Lan(9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 57,6%
các bà mẹ biết loại dịch thay thế ORS đúng
như nước cháo muối, nước đường muối, nước
lọc, nước hoa quả. Có 11,8% các bà mẹ biết sai
như nước muối pha loãng, nước đường pha
đậm đặc, nước quả hồng xiêm rang hay các
loại nước chế biến từ các vị thuốc đông y có
tác dụng cầm ỉa và 30,6% các bà mẹ không biết
loại dịch thay thế ORS. Lâm Văn Thư (1998)
nghiên cứu tại Lạng Sơn thấy có 18,5% và Lê
Nguyễn Ngọc (2000 tại Cao Bằng) thấy 34%
biết dùng nước cháo muối tại nhà khi con bị
tiêu chảy; Ngô Thị Thanh Hương (2004 tại Đak
Lak), thấy 37,72% biết dùng dung dịch thay
thế(6). Tuy tỷ lệ các bà mẹ biết dịch thay thế
trong nghiên cứu của chung tôi có cao hơn các
nghiên cứu tên đây, nhưng vẫn còn 30,6%) các
bà mẹ chưa biết dịch thay thế trong nghiên
cứu này cho thấy vẫn cần tiếp tục tuyên
truyền giáo dục, thậm chí cần hướng dẫn các
bà mẹ về các dung dịch thay thế ORS tại nhà
cũng như cách pha chế các loại dịch đó đúng
cách để chương trình phòng chống tiêu chảy
cấp và điều trị mất nước đạt hiệu quả như
mong muốn.
Một trong những nguyên tắc quan trọng
của điều trị TCC tại nhà đó là cho trẻ ăn nhiều
thức ăn giàu dinh dưỡng để đề phòng suy
dinh dưỡng. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
chỉ có 34,1% các bà mẹ trả lời đúng c ỏch cho
trẻ ăn khi đang bị TCC. Đa số các bà mẹ đều
cho con ăn ít hơn bình thường hoặc chỉ cho ăn
cháo loãng. Nguyễn Thị Như Mai nghiên cứu
năm 2006 tại viện Nhi Trung ương thấy tỉ lệ
cho ăn đúng là 71,8%(7). Qua đó ta thấy việc
tuyên truyền giáo dục bà mẹ cho trẻ ăn đúng
cách khi bị TCC cần được tăng cường hơn
nữa, bởi thói quen không cho trẻ ăn đủ chất
khi bị TCC hoặc ăn ít hơn bình thường, thậm
chí không cho ăn vì sợ trẻ đi ngoài nhiều hơn,
đã làm giảm hiệu quả điều trị TCC
Một trong những tiêu chí mà chúng tôi cho
là để đánh giá thái độ của bà mẹ đối với việc sử
dụng ORS đó là việc các bà mẹ có dự trữ sẵn
ORS ở nhà. Kết quả cho thấy có 59 bà mẹ (69,4%)
có sẵn ORS ở nhà. Khi được hỏi ORS có tốt cho
trẻ khi bị TCC không, có 88,2% các bà mẹ trả
lời ORS tốt, 5,9% trả lời ORS chưa tốt lắm và
5,9% trả lời không biết ORS có tốt không. Như
vậy, việc nâng cao hiểu biết cho các bà mẹ là
cần thiết để họ có kiến thức đầy đủ về ORS
hơn, chấp nhận sử dụng thường xuyên hơn.
Đa số các bà mẹ (94,1%) trả lời là sẽ tiếp tục
dùng với các lí do như họ thấy ORS tốt hay các
bác sĩ khuyên nên dùng. Có 4,7% các bà mẹ
không biết sẽ dùng hay không với lí do chờ ý
kiến của bác sĩ, hay nếu điều trị lần này khỏi
thì lần sau sẽ dùng tiếp, chỉ có 1,2% các bà mẹ
trả lời sẽ hỏi ý kiến bác sĩ trước mà không
dùng ORS ngay. Qua đó ta thấy rằng việc điều
trị tại bệnh viện có sự hướng dẫn của nhân
viên y tế đem lại lòng tin cho các bà mẹ nen h?
chấp nhận việc sử dụng ORS một cách dễ
dàng hơn.
Trong số các bà mẹ được phỏng vấn có 82,4%
đã từng sử dụng ORS ít nhất là một lần. Kết quả
này cao hơn kết quả của Ngô Thị Thanh Hương
năm 2004 tại Đak Lak (56,2%) và của Bùi Thị
Thúy Ái năm 2000 tại Thanh Xuân, Hà Nội
(56,2%)(1,6). Khi quan sát 70 bà mẹ đã từng pha
ORS, có 65 bà mẹ chiếm 92,9% có kiểm tra gói
ORS trước khi pha, trong số các bà mẹ kiểm tra
gói ORS có 35,4% các bà mẹ nhận biết từ 2 biểu
hiện trở lên của gói ORS không đảm bảo chất
lượng để bỏ gói ORS ấy đi không dùng. Có
61,5% các bà mẹ chỉ nhận biết được một biểu
hiện và 3,1% dù có kiểm tra nhưng không nhận
biết được. Đa số các bà mẹ đều biết không được
dùng khi gói ORS đã quá hạn nhưng lại không
biết cách phát hiện gói ORS thủng, rách từ trước,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 92
màu chất ORS thay đổi, chất ORS vón cục hay
khi pha ra nếm thấy có vị khác lạ. Tỉ lệ các bà mẹ
biết kiểm tra gói ORS trước khi pha ORS trong
nghiên cứu này là tương đối cao.
Trong số 70 bà mẹ được quan sat khi pha
ORS, có 41 bà mẹ (58,6%) pha đúng tất cả các
bước rửa tay và tráng dụng cụ pha, dụng cụ
chứa, đồ dùng để uống trước khi pha ORS, đo
lượng nước chính xác, dùng nước sôi để
nguội, pha cả gói ORS trong một lần pha, đậy
nắp bình và dụng cụ chứa, chỉ dùng dung dịch
đã pha trong 24 giờ. Tỉ lệ này tương đương với
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai
(2006) có 54,5% pha dung dịch ORS đúng(7).
nhưng cao hơn trong nghiên cứu của Lưu Thị
Minh Châu (2001) có 39% các bà mẹ pha dung
dịch ORS đúng(4). Trong số 29 bà mẹ pha dung
dịch ORS sai trong nghiên cứu của chúng tôi,
có 100% các bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha
nhiều lần. Mặc dù tỉ lệ này không cao (so với
các bà mẹ biết cách pha đúng) nhưng chúng
tôi cho rằng cần nâng cao trình độ hiểu biết
của các bà mẹ hơn nữa để tránh tình trạng dù
bà mẹ có biết dung dịch ORS nhưng lại không
biết cách pha đúng liều lượng khiến cho trẻ bị
rối loạn nước và điện giải, đặc biệt là ngộ độc
muối rất nguy hiểm, khó điều trị do pha ORS
quá đặc. Trong nghiên cứu của chúng tôi có
trường hợp bệnh nhi Vũ Anh D. 15 tháng tuổi
vào viện trong tình trạng mất nước nặng do
mẹ cho uống nước quả hồng xiêm rang và
nước đường đậm đặc. Kết quả điện giải đồ
ngày đầu tiên vào viện của bệnh nhi đó như
sau: Na+: 161 mmol/l, K+: 2,5 mmol/l, Cl-:
137mmol/l.
Chúng tôi có thử tìm hiểu sự tác động của một
số thông số nghiên cứu lên kỹ năng sử dụng ORS
của các bà mẹ có con TCC được nghiên cứu,
nhưng chỉ thấy có vai trò của học vấn của bà mẹ
(các bà mẹ học trên phổ thông có kỹ năng kiểm tra
gói ORS tốt hơn) và của nghề nghiệp mẹ (các bà
mẹ làm lao động văn phòng, trí thức có tỷ lệ pha
đúng ORS cao hơn các bà mẹ lao động tay chân).
Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn
bé, nên việc đánh giá tác động của các yếu tố ảnh
hưởng còn rất hạn chế. Cần có nghiên cứu với cỡ
mẫu lớn hơn để đánh giá chính xác và sâu hơn về
lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang khảo sát
kiến thức, thái độ, và quan sát kỹ năng sử
dụng ORS ở 85 bà mẹ có con bị bệnh TCC tại
Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến
tháng 5 năm 2007 chúng tôi thu được kết quả
như sau:
- Có 58,8% các bà mẹ biết một phần tác
dụng của ORS, 41,2% biết được 2 loại gói ORS
có bán ở các hiệu thuốc, 72,9% không biết
thành phần gói ORS và 21,2% biết sai lượng
dịch ORS cho trẻ uống khi đang TCC.
- Có 57,6% các bà mẹ biết đúng loại dịch
thay thế ORS, nhưng có tới 65,9% không biết
cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ đang bị TCC.
- Có 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS ở
nhà, 88,2% cho rằng ORS tốt cho con của họ và
94,1% chấp nhận sử dụng ORS nếu con của họ
bị TCC lần sau.
- Có 92,9% có kiểm tra ORS trước khi pha,
là 58,6% pha ORS đúng quy trình, có 89,4% các
bà mẹ cho uống ORS đúng.
- Trong số các bà mẹ pha ORS sai có 100% các
bà mẹ chia nhỏ gói ORS ra để pha nhiều lần
Qua kết quả nghiên cứu này, chúng tôi
nhận thấy: còn một tỷ lệ khá lớn bà mẹ chưa
có đủ kiến thức về thành phần, tác dụng của
ORS và nhất là cách cho trẻ ăn trong và sau
tiêu chảy. Cần tiếp tục chương trình CDD, tập
trung vào thông tin về tác dụng ORS và cách
nuôi dưỡng trẻ khi tiêu chảy. Mặt khác, cần có
thêm những thông tin cụ thể về những tai nạn
do sử dụng ORS sai để giúp bà mẹ tránh
những tai biến điều trị đáng tiếc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bùi Thị Thúy [i (2000), Đánh giá kiến thức, thực hành về
cách phòng và xử trí bệnh tiêu chảy của các bà mẹ có con
dưới 5 tuổi tại quận Thanh Xuân, Hà Nội năm 2000, Luận
văn thạc sĩ Y học, Đại học Y tế công cộng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 93
2 Lâm Văn Thư (1998), Đánh giá kiến thức, thái độ, thực
hành của bà mẹ liên quan đến việc điều trị tiêu chảy tại
nhà ở huyện Lộc Bình năm 1998, luận văn tốt nghiệp
chuyên khoa cấp 1, trường đại học Y Hà Nội.
3 Lê Nguyễn Ngọc (2000), Đánh giá kiến thức về phòng
bệnh tiêu chảy của các bà mẹ nuôi con dưới 5 tuổi tại xã
Nam Tuấn huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng năm 2001, Luận
văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1, Đại học Y Hà Nội.
4 Lưu Thị Minh Châu (2001), Thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành của các bà mẹ đối với việc phòng chống tiêu
chảy cấp ở trẻ em dưới 1 tuổi tại huyện Khoái Châu,
Hưng Yên năm 2001, tạp chí Y học thực hành 2002 số 7,
trang 21.
5 Nghiêm Thị Dinh (2006), Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở trẻ
em dưới 10 tuổi và kiến thức, thái độ, thực hành của
người chăm sóc trẻ tại thị trấn Lim, tỉnh Bắc Ninh năm
2005, Luận văn tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng, trường
đại học Y Hà Nội.
6 Ngô Thị Thanh Hương (2004), Kiến thức, thực hành của
bà mẹ về bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện
M.Đrak tỉnh Đak Lak năm 2004, luận văn tốt nghiệp cử
nhân y tế công cộng, Đại học Y Hà Nội.
7 Nguyễn Thị Như Mai (2006), Đánh giá kiến thức và thực
hành một số bà mẹ có con bị tiêu chảy cấp tại khoa tiêu
hóa bệnh viện Nhi Trung ương, Luận văn tốt nghiệp cử
nhân điều dưỡng, Đại học Y Hà Nội.
8 Okete TA, Okafor HU, Amah AC, Onwuasigwe CN, Ndu
AC (1998), Diarrhoea in children of Nigeria market
women: prevalance, knowlegde of cause and
management.
9 Shaw DD, Jacobsen CA, Konare KF, Isa AR (1998),
Knowlegde and the use of oral rehydration therapy for
childhood diarrhoea in Trumpat district, Thailand.
10 WHO (1985), The management of Diarrhoea and use of
Oral Rehydration therapy/ Ajoint WHO/UNICEF
statement, WHO, Geneva
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_thuc_thai_do_ky_nang_su_dung_oresol_cua_cac_ba_me_co_co.pdf