Theo dõi bệnh nhân
Chúng tôi ghi nhận 3 trường hợp khó cầm máu
sau thủ thuật tạo thành khối máu tụ. 2 ca do chảy
máu từ động mạch cánh tay và 1 ca do chảy máu từ
tĩnh mạch sâu (tĩnh mạch cánh tay). Những bệnh
nhân này đều được phát hiện kịp thời và xử trí bằng
băng ép tăng cường. Không có trường hợp nào cần
phẫu thuật khâu mạch máu.
Các biến chứng đáng kể khác bao gồm một ca bị
phù phổi cấp sau nong bóng tĩnh mạch trung tâm,
một ca có hội chứng ăn cắp máu chi trên, trên nền
bệnh nhân có Lupus ban đỏ hệ thống và hội chứng
Raynauld. Cả hai trường hợp này đều được xử trí
kịp thời và phục hồi hoàn toàn.
Trong 30 ngày theo dõi, chỉ có một bệnh nhân
phải tái nhập viện do tắc lại tổn thương. Đây là một
trường hợp huyết khối cầu nối động-tĩnh mạch
nhân tạo (AVG), người bệnh được nong bóng AVG,
tuy nhiên sau 2 tuần thì huyết khối tái phát và bác sỹ
thận nhân tạo phải tiến hành tạo một cầu nối mới.
Điều đó cho thấy nếu tình trạng tổn thương AVF/
AVG đã quá muộn dẫn tới hình thành huyết khối
thì hiệu quả can thiệp không cao. Điều này cũng
phù hợp với quan điểm của nhiều tác giả trên thế
giới, theo đó người bệnh cần được theo dõi chặt chẽ
tại đơn vị chuyên khoa Thận tiết niệu, Thận nhân
tạo, để phát hiện sớm các tổn thương hẹp, tắc và can
thiệp sớm, giúp tăng hiệu quả điều trị [7].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều trị hẹp/tắc thông động tĩnh mạch ở viện tim mạch Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
21TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Đánh giá kết quả sớm
can thiệp nội mạch điều trị hẹp/tắc
thông động tĩnh mạch ở Viện Tim mạch Việt Nam
Đinh Huỳnh Linh*, Nguyễn Hữu Dũng**, Đinh Đức Long**
Nguyễn Tuấn Hải*, Giáp Minh Nguyệt*, Trần Huyền Trang*
Nguyễn Thị Thuý Hạnh*, Nguyễn Quang Kha*, Đỗ Đức Tuân*
Nguyễn Tuấn Anh*, Quách Văn An*, Nguyễn Thị Thu Hoàn*
Nguyễn Mạch Hoạt*, Đinh Anh Tuấn*, Nguyễn Kim Ngân*, Phạm Mạnh Hùng*
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai*
Khoa Thận nhân tạo, Bệnh viện Bạch Mai**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của
thủ thuật can thiệp nội mạch điều trị tổn thương
hẹp/tắc thông động tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch
trung tâm ở Viện Tim mạch Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tiến cứu
đánh giá hiệu quả của can thiệp nội mạch. Có 23
bệnh nhân được sàng lọc và tiến hành can thiệp nội
mạch. Bệnh nhân được theo dõi dọc trong thời gian
30 ngày bằng siêu âm Doppler mạch máu.
Kết quả nghiên cứu: Thủ thuật tiến hành thành
công ở cả 23 trường hợp, đạt tỉ lệ 100%. Đa số các
bệnh nhân (92%) được nong bóng phủ thuốc.
Không gặp biến chứng nặng trong và sau thủ thuật.
Có 1 trường hợp (4%) tái hẹp đường vào mạch máu
trong thời gian theo dõi 30 ngày.
Kết luận: Can thiệp nội mạch (nong bóng/
nong bóng phủ thuốc/ đặt stent) là một biện pháp
hiệu quả và an toàn để duy trì thông động tĩnh mạch
cho các bệnh nhân suy thận mạn cần chạy thận
nhân tạo chu kỳ.
Từ khoá: can thiệp nội mạch, nong bóng, bóng
phủ thuốc, thông động tĩnh mạch, suy thận mạn,
thận nhân tạo chu kỳ.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đường vào mạch máu trong thận nhân tạo là một
phần rất quan trọng trong chạy thận. Trong đó, thông
động tĩnh mạch tự thân (arteriovenous fistula, viết
tắt AVF), tạo bởi một động mạch và một tĩnh mạch
gần nhau, được ưu tiên hơn cầu nối động tĩnh mạch
bằng đoạn mạch nhân tạo (AVG), do có đời sống
lâu hơn, lưu lượng dòng máu cao hơn, ít nguy cơ
tắc hay nhiễm khuẩn [1]. Tuy vậy, cả AVF và AVG
đều có nguy cơ hẹp tắc cao, thường do hẹp ở miệng
nối hay tĩnh mạch dẫn lưu (outflow vein) hoặc do
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
22 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
quá trình viêm, quá trình tăng sinh nội mạch. Hẹp,
tắc đường vào mạch máu sẽ gây giảm lưu lượng lọc
máu tăng thời gian lọc thận, đầu thời gia tăng áp lực
hệ tĩnh mạch chi trên, dẫn đến các triệu chứng lâm
sàng như phù nề và ảnh hưởng đáng kể đến chất
lượng cuộc sống của người bệnh. Khi AVF/AVG
bị hỏng thì bệnh nhân sẽ cần phẫu thuật tạo một
đường vào mạch máu khác, trong khi số lượng tĩnh
mạch có thể sử dụng làm AVF/AVG lại hữu hạn.
Nếu không có AVF/AVG, bệnh nhân sẽ cần chạy
thận nhân tạo qua đường vào tĩnh mạch trung tâm,
lâu dần lại dẫn tới nguy cơ hẹp, tắc tĩnh mạch trung
tâm. Vì vậy, bảo quản và duy trì sự thông thoáng của
AVF/AVG giữ vai trò rất quan trọng.
Tại Viện Tim mạch Việt Nam, kỹ thuật can thiệp
nội mạch điều trị các trường hợp hẹp, tắc đường vào
mạch máu bắt đầu được triển khai trong thực hành
lâm sàng, điều trị cho bệnh nhân suy thận mạn chạy
thận nhân tạo chu kỳ ở Khoa Thận nhân tạo hoặc
Khoa Thận Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai. Nghiên
cứu này được tiến hành để đánh giá hiệu quả sớm và
tính an toàn của thủ thuật này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 5.2018 đến tháng 9.2018, chúng tôi
tiến hành can thiệp nội mạch cho 23 bệnh nhân
bị hẹp, tắc thông động tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch
trung tâm.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân can thiệp là các
bệnh nhân thận nhân tạo chu kỳ thoả mãn các tiêu
chuẩn sau: (1) giảm lưu lượng lọc thận qua AVF/
AVG, hoặc có triệu chứng lâm sàng tăng áp lực hệ
tĩnh mạch (sưng nề cánh tay, ứ trệ tĩnh mạch ngoại
biên), (2) AVF/AVG đã được phẫu thuật ≥2 tháng
(đã trưởng thành), thể hiện bằng đã có thể chạy
thận nhân tạo tối thiểu 1 lần bằng 2 kim chọc, (3)
siêu âm Doppler mạch máu cho thấy tổn thương
giải phẫu phù hợp với can thiệp nội mạch bằng
nong bóng và/hoặc đặt stent.
Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: (1) phụ nữ có thai,
(2) tổn thương ≥2 vị trí trong đó có 1 vị trí không
thể can thiệp được.
Quy trình nghiên cứu
Đánh giá bệnh nhân
Tất cả các bệnh nhân đều được khám lâm sàng
và đánh giá khả năng lọc thận, sau đó làm siêu âm
mạch máu đánh giá chính xác vị trí và mực độ tổn
thương. Bệnh nhân phù hợp sẽ được tiến hành can
thiệp nội mạch.
Tiến hành thủ thuật
Thủ thuật được tiến hành tại phòng tim mạch
can thiệp. Thuốc dùng trước thủ thuật bao gồm
aspirin 100 mg và clopidogrel 75 mg. Bệnh nhân
được gây tê tại chỗ. Chúng tôi mở đường vào mạch
máu theo phương pháp Seldinger, sử dụng đường
động mạch (động mạch quay, động mạch cánh tay,
động mạch đùi) hoặc tĩnh mạch (tĩnh mạch nông,
tĩnh mạch sâu) tuỳ vào vị trí tổn thương. Qua đường
vào mạch máu, một sheath kích cỡ 6Fr được đưa
vào động mạch hoặc tĩnh mạch. Tiến hành chụp
thông động tĩnh mạch dưới màn huỳnh quang tăng
sáng khẳng định rõ vị trí hẹp. Sau đó lái dây dẫn qua
tổn thương. Dây dẫn sử dụng có kích cỡ 0.035 inch,
0.018 inch, hoặc 0.014 inch. Tiến hành nong bóng
áp lực cao nhiều lần với kích cỡ tăng dần để mở rộng
lòng mạch. Nong lại bằng bóng phủ thuốc paclitaxel
(các loại bóng Admiral IN.PACT Pacific của hàng
Medtronic Inc., Lutonix của hãng BARD Vascular,
hoặc Passeo-Lux của hãng Biotronik) với mục đích
tránh tái hẹp AVF/AVG. Nếu vẫn còn hẹp khít (đặc
biệt trong trường hợp hẹp tĩnh mạch trung tâm)
hoặc bọc tách mạch máu, bệnh nhân sẽ được đặt
stent. Cuối cùng, dụng cụ được rút ra, đóng đường
vào mạch máu bằng băng ép thường quy. Các thuốc
dùng sau thủ thuật bao gồm aspirin 100 mg và
clopidogrel 75 mg mỗi ngày trong 1 tháng, sau đó
dùng aspirin kéo dài.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
23TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Mở đường vào động
mạch quay, chụp DSA
cho thấy tắc hoàn toàn
tĩnh mạch hiệu dụng
(mũi tên)
Tiến hành nong
bóng tĩnh mạch
hiệu dụng
Tái thông tĩnh
mạch hiệu
dụng sau nong
bóng (mũi tên)
Hình 1. Can thiệp nội mạch một trường hợp tắc hoàn
toàn tĩnh mạch hiệu dụng sau AVF động mạch quay –
tĩnh mạch cẳng tay
Chụp tĩnh mạch chi trên
cho thấy hẹp khít tĩnh
mạch nách và tĩnh mạch
dưới đòn, có nhiều tuần
hoàn bàng hệ
Sau khi tiến hành nong
bóng mở thông tĩnh
mạch trung tâm, hình
ảnh chụp không còn
tuần hoàn bàng hệ
Hình 2. Can thiệp nội mạch một trường hợp hẹp khít
tĩnh mạch nách và tĩnh mạch dưới đòn
Theo dõi bệnh nhân sau thủ thuật
Các bệnh nhân sau can thiệp được chuyển về
bệnh phòng theo dõi, đồng thời tiến hành chạy thận
nhân tạo sớm trong vòng 24 giờ sau thủ thuật. Nếu
tình trạng ổn định, người bệnh được xuất viện trong
ngày hôm sau. Người bệnh được theo dõi định kỳ
bằng khám lâm sàng trong mỗi lần lọc thận và siêu
âm Doppler mạch máu sau 30 ngày.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS
16.0. Các biến định lượng được thể hiện dưới dạng
giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các biến định
tính được thể hiện dưới dạng tỉ lệ phần trăm. Kết
quả phân tích được coi là có ý nghĩa thống kê khi
giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 5.2018 đến tháng 9.2018, chúng tôi
đã tiến hành can thiệp nội mạch cho 23 bệnh nhân
thoả mãn tiêu chuẩn lựa chọn của nghiên cứu. Đặc
điểm chung của đối tượng nghiên cứu được trình
bày trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=23) Giá trị
Tuổi trung bình (năm) 56 ± 3
Nam giới 9 (39%)
Số năm chạy thận 4,6 ± 2,1
Số lần phẫu thuật AVF/AVG 3,2 ± 0,4
Lý do can thiệp
Không chạy thận chu kỳ được 7 (30%)
Triệu chứng lâm sàng của tăng áp lực
tĩnh mạch
2 (9%)
Cả hai lý do trên 14 (61%)
Loại tổn thương
Tĩnh mạch trung tâm 4 (17%)
AVF động mạch quay – tĩnh mạch đầu 9 (40%)
AVF động mạch cánh tay - tĩnh mạch đầu 7 (30%)
AVF động mạch cánh tay - tĩnh mạch nền 2 (9%)
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
24 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
AVG 1 (4%)
Vị trí tổn thương
Tĩnh mạch tủng tâm 4 (17%)
Cánh tay 4 (17%)
Khuỷu tay 1 (5%)
Cẳng tay 14 (61%)
Tiền sử
Tăng huyết áp 13 (57%)
Đái tháo đường 6 (26%)
Hội chứng thận hư 8 (35%)
Lupus ban đỏ hệ thống 4 (17%)
Viêm cầu thận 6 (26%)
Rối loạn lipid máu 4 (17%)
Bệnh động mạch ngoại biên 3 (13%)
Đặc điểm về thủ thuật
Bảng 2. Các đặc điểm của thủ thuật can thiệp nội mạch
Đặc điểm của thủ thuật (n=23) Giá trị
Tỉ lệ thành công 23 (100%)
Thời gian tiến hành thủ thuật (phút) 61 ± 14
Thời gian chiếu tia (phút) 10 ± 3
Lượng thuốc cản quang (mL) 63 ± 11
Mở đường vào mạch máu
Động mạch quay 2
Động mạch cánh tay 12
Động mạch đùi 1
Tĩnh mạch cánh tay 16
Tĩnh mạch nông (tĩnh mạch nền/ tĩnh
mạch đầu
6
Tĩnh mạch đùi 2
AVG 2
Siêu âm hỗ trợ mở đường vào mạch máu 9 (39%)
Vị trí tổn thương khi chụp DSA
Tĩnh mạch ngay sau miệng nối AVF 12 (52%)
Tĩnh mạch hiệu dụng 5 (22%)
Cung tĩnh mạch đầu 2 (9%)
Tĩnh mạch trung tâm 4 (17%)
Chiều dài tổn thương trung bình (mm) 47 ± 15
Kỹ thuật can thiệp
Nong bóng thường 1 (4%)
Nong bóng phủ thuốc 21 (92%)
Đặt stent 1 (4%)
Đặt stent có màng bọc (covered stent) 0 (0%)
Tính an toàn của thủ thuật
Bảng 3. Tỉ lệ biến chứng của thủ thuật can thiệp nội
mạch
Đặc điểm của thủ thuật (n=23) Giá trị
Dị ứng thuốc cản quang 0 (0%)
Nhiễm khuẩn 0 (0%)
Hội chứng ăn cắp máu 1 (4%)
Chảy máu vết chọc mạch 3 (18%)
Tắc động mạch phổi 0 (0%)
Phù phổi cấp 1 (4%)
Vỡ mạch máu 0 (0%)
Giả phình sau chọc mạch 1 (4%)
Biến chứng thần kinh 0 (0%)
Tử vong 0 (0%)
Theo dõi trong 30 ngày
Có thể chạy thận nhân tạo sau thủ thuật 23 (100%)
Tái hẹp/tắc 1 (4%)
BÀN LUẬN
Đối tượng nghiên cứu
Đường vào mạch máu bằng AVF hoặc AVG
giữ vai trò sống còn cho các bệnh nhân bệnh thận
giai đoạn cuối phải chạy thận nhân tạo chu kỳ. Tuy
nhiên, đường vào mạch máu có nguy cơ hẹp hoặc
tắc do huyết khối rất cao, cản trở khả năng lọc thận
chy kỳ của người bệnh [2]. Nếu đường vào mạch
máu bị hỏng, sẽ cần phẫu thuật thêm nhiều lần. Việc
tiến hành phẫu thuật ở các bệnh nhân có chức năng
miễn dịch kém do suy thận sẽ tăng nguy cơ cuộc
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
25TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
mổ, tăng thời gian nằm việc và chi phí, cũng như
tăng tỉ lệ biến cố [3].
Vì thế, cần có sự tiếp cận đa ngành trong chăm
sóc đường vào mạch máu ở bệnh nhân thận nhân
tạo chu kỳ, với sự tham gia của bác sỹ nội thận tiết
niệu, bác sỹ thận nhân tạo, bác sỹ siêu âm mạch
máu, bác sỹ tim mạch can thiệp, phẫu thuật viên
mạch máu, để có thể hạn chế tối đa tổn thương
đường vào mạch máu, cũng như tối ưu chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân suy thận. Năm 2006, bản
khuyết cáo Nâng cao chất lượng lọc mọc (KDOQI)
do Hội Thận học Quốc gia Hoa Kỳ ban hành đã đưa
ra các tiêu chuẩn đánh giá và theo dõi AVF/AVG,
để giúp thày thuốc có sự can thiệp kịp thời khi có
nguy cơ hỏng đường vào mạch máu [1].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lý do chủ yếu
người bệnh cần nhập viện là không thể tiếp tục tiến
hành chạy thận, hoặc lưu lượng lọc thận giảm đáng
kể kèm hoặc không kèm theo phù nề và ứ trệ hệ tĩnh
mạch chi trên. Có hai trường hợp vẫn có thể tiến hành
chạy thận bình thường, nhưng chi trên sưng nề nhiều
do hẹp tĩnh mạch trung tâm, khiến người bệnh rất
đau và ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng cuộc sống.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu có tuổi đời
trung bình không cao (56 tuổi). Người cao tuổi
nhất là 83, người trẻ tuổi nhất là 23. Việc bảo đảm
độ bền của đường vào mạch máu giữ vai trò đặc biệt
quan trọng đối với các bệnh nhân trẻ tuổi suy thận
mạn, những người còn rất nhiều năm phải chạy thận
nhân tạo chu kỳ. Đa số các bệnh nhân đã được phẫu
thuật nhiều lần (trung bình 3,2 lần, ít nhất là 1 lần,
nhiều nhất là 23 lần). Nếu có thể can thiệp nội mạch
một cách hiệu quả thì sẽ giảm đáng kể số lần phẫu
thuật mà bệnh nhân phải tiến hành.
Đặc điểm của thủ thuật
Tỉ lệ thành công của thủ thuật đạt 100%, theo
tiêu chuẩn K/DOQI là hẹp tồn lưu dưới 30%. Thời
gian chiếu tia trung bình chỉ khoảng 10 phút cho
mỗi thủ thuật, với lượng thuốc cản quang chứa iod
trung bình 60 mL. Tất cả các bệnh nhân đều có thể
tiến hành chạy thận nhân tạo ngay lập tức sau khi
tiến hành thủ thuật.
Với các thủ thuật can thiệp mạch máu ngoại
biên, lựa chọn đường vào mạch máu phù hợp giữ
vai trò rất quan trọng [4]. Đường vào mạch máu tốt
sẽ tạo thuận lợi cho quá trình can thiệp, giảm thời
gian thủ thuật, thời gian chiếu tia, cũng như lượng
thuốc cản quang sử dụng. Tuỳ từng tổn thương
đánh giá trên siêu âm mà chúng tôi lựa chọn đường
vào tĩnh mạch cánh tay hay tĩnh mạch nông, động
mạch cánh tay hay động mạch quay. Mỗi đường
vào mạch máu lại có các ưu điểm và nhược điểm
riêng, như trình bày trong bảng 4.
Mở đường vào mạch máu xuôi chiều dòng máu
(xuôi dòng) có thể giúp đánh giá tổn thương dễ
dàng hơn, tuy nhiên không phải lúc nào cũng thuận
tiện trong việc đẩy dụng cụ đi qua tổn thương (ví dụ
rất khó đẩy thiết bị từ đường động mạch quay AVF
sang tĩnh mạch hiệu dụng). Mở đường vào tĩnh
mạch thường giúp đẩy dụng cụ dễ dàng hơn nhưng
không dễ đánh giá các tổn thương ở hạ lưu. Vì thế,
trong nhiều trường hợp chúng tôi phải mở đồng
thời 2 hoặc 3 đường vào mạch máu để phối hợp
đánh giá tổn thương một cách chính xác nhất, đồng
thời tối ưu hiệu quả can thiệp. Có một trường hợp
cần mở đường vào động mạch đùi do vùng cánh tay
bệnh nhân đã được phẫu thuật 11 lần, rất nhiều sẹo
mổ và AVG hẹp tắc, dẫn đến việc chọc động mạch
cánh tay là bất khả thi.
Với các đường vào mạch máu nằm sâu như tĩnh
mạch cánh tay hay động mạch cánh tay, siêu âm
Doppler mạch máu hỗ trợ giữ vai trò rất quan trọng,
giúp quá trình mở mạch thuận lợi, tránh các biến
chứng nguy hiểm như chảy máu, rò động – tĩnh
mạch, giả phình mạch máu. Vì vậy, theo kinh nghiệm
của chúng tôi, máy siêu âm mạch máu là một thiết
bị cần thiết để có thể tiến hành can thiệp thủ thuật
hiệu quả và an toàn.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
26 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Bảng 4. Ưu và nhược điểm của các loại đường vào mạch máu
Đường vào Tĩnh mạch cánh tay Tĩnh mạch nông Động mạch cánh tay Động mạch quay
Đòi hỏi siêu âm hỗ trợ Có Không Có Không
Can thiệp Ngược dòng Xuôi dòng Xuôi dòng Người dòng
Ưu điểm Cầm máu dễ dàng
Đẩy dụng cụ qua
tổn thương thuận lợi
Can thiệp tĩnh
mạch trung tâm
Đánh gía chính xác
tổn thương
Đánh giá chính xác tổn
thương
Cầm máu dễ dàng
Nhược điểm Khó đánh giá chính
xác tổn thương ở
hạ lưu
Không sử dụng
cho các tổn thương
phía hạ lưu
Cầm máu khó khăn
Đẩy dụng cụ qua tổn
thương khó khăn
(đặc biệt với AVF
Cimino-Brescia)
Không sử dụng được
trong các trường hợp can
thiệp AVF động mạch
quay – tĩnh mạch cẳng tay
(Cimino-Brescia)
Kết quả chụp DSA cho thấy đa số các trường
hợp là hẹp tĩnh mạch hiệu dụng sau cầu nối, hoặc
hẹp ngay sát miệng nối AVF (vị trí juxta-anastomosis).
Nếu có hẹp trong lòng AVF thì vẫn luôn kèm theo
hẹp cả tĩnh mạch dẫn lưu. Có 4 trường hợp chỉ hẹp
đơn thuần tĩnh mạch trung tâm (tĩnh mạch nách,
tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch chủ trên). Nguyên
nhân là do người bệnh đã có quá trình chạy thận
chu kỳ qua catheter tĩnh mạch trung tâm.
Can thiệp nội mạch dưới màn huỳnh quan tăng
sáng là một thủ thuật xâm lấn tối thiểu. Nong bóng
phục hồi đường kính AVF và tĩnh mạch hiệu dụng.
Bóng sử dụng thường là bóng áp lực cao, loại giãn
nở ít (non-compliant). Với những bóng này, khi
áp lực bơm tăng lên, bóng cứng hơn nhưng đường
kính bóng không giãn nở ra nhiều. Điều này giúp
mở rộng lòng mạch một cách hiệu quả đồng thời
lại tránh nguy cơ vỡ mạch máu. Một số trường hợp
hẹp khít mạch máu cần sử dụng bóng áp lực siêu cao
(Conquest, hãng BARD Vascular), chịu đựng được
áp lực lên tới 40 atm.
Trong quá trình can thiệp, thành mạch có thể bị
tổn thương, dẫn tới nguy cơ tái hẹp. Nhiều nghiên
cứu đã chứng minh bóng phủ thuốc paclitaxel làm
giảm đáng kể nguy cơ tái hẹp khi so sánh với bóng
thông thường [5]. Nghiên cứu của Kitrou và cộng
sự cho thấy tỉ lệ tái hẹp sau 1 năm của bóng phủ
thuốc là 30%, so với 75% của bóng thường. Thời
gian duy trì được đường vào mạch máu là 1 năm, so
với 4 tháng sau nong bóng thường [6]. Vì vậy đa số
các trường hợp chúng tôi sử dụng bóng phủ thuốc
khi tiến hành can thiệp.
Có một trường hợp được đặt stent tĩnh mạch
trung tâm (hình 2) do sau khi nong bóng nhiều
lần lòng mạch vẫn không nở ra. Không có trường
hợp nào phải đặt stent có màng bọc để điều trị biến
chứng vỡ mạch máu.
Theo dõi bệnh nhân
Chúng tôi ghi nhận 3 trường hợp khó cầm máu
sau thủ thuật tạo thành khối máu tụ. 2 ca do chảy
máu từ động mạch cánh tay và 1 ca do chảy máu từ
tĩnh mạch sâu (tĩnh mạch cánh tay). Những bệnh
nhân này đều được phát hiện kịp thời và xử trí bằng
băng ép tăng cường. Không có trường hợp nào cần
phẫu thuật khâu mạch máu.
Các biến chứng đáng kể khác bao gồm một ca bị
phù phổi cấp sau nong bóng tĩnh mạch trung tâm,
một ca có hội chứng ăn cắp máu chi trên, trên nền
bệnh nhân có Lupus ban đỏ hệ thống và hội chứng
Raynauld. Cả hai trường hợp này đều được xử trí
kịp thời và phục hồi hoàn toàn.
Trong 30 ngày theo dõi, chỉ có một bệnh nhân
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
27TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
phải tái nhập viện do tắc lại tổn thương. Đây là một
trường hợp huyết khối cầu nối động-tĩnh mạch
nhân tạo (AVG), người bệnh được nong bóng AVG,
tuy nhiên sau 2 tuần thì huyết khối tái phát và bác sỹ
thận nhân tạo phải tiến hành tạo một cầu nối mới.
Điều đó cho thấy nếu tình trạng tổn thương AVF/
AVG đã quá muộn dẫn tới hình thành huyết khối
thì hiệu quả can thiệp không cao. Điều này cũng
phù hợp với quan điểm của nhiều tác giả trên thế
giới, theo đó người bệnh cần được theo dõi chặt chẽ
tại đơn vị chuyên khoa Thận tiết niệu, Thận nhân
tạo, để phát hiện sớm các tổn thương hẹp, tắc và can
thiệp sớm, giúp tăng hiệu quả điều trị [7].
KẾT LUẬN
Kết quả bước đầu cho thấy can thiệp nội mạch
bằng nong bóng/bóng phủ thuốc là một biện pháp
hiệu quả và an toàn để điều trị các trường hợp hẹp,
tắc thông động tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận mạn
phải chạy thận nhân tạo chu kỳ. Cần nhiều nghiên
cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi kéo dài
hơn để đánh giá hiệu quả lâu dài của kỹ thuật này.
ABSTRACT
Objective: To investigate the effectiveness of endovascular intervention to preserve the patency of failing
hemodialysis access in chronic end-stage renal failure patients.
Methods: 23 patients on hemodialysis who received endovascular intervention intervention for access
problems were prospectively analyzed. Patients wrere followed-up in 30 days for post-operative complications
and access restenosis.
Results: The technical success rate was 100%. Almost all patients received angioplasty, using drug-eluted
balloon. There was no severe complication, except 1 restenosis case.
Conclusions: Endovascular balloon angioplasty is effective in restoring patency of failing hemodialysis
accesses.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kdoqi, KDOQI Clinical Practice Guidelines and Clinical Practice Recommendations for Diabetes and Chronic
Kidney Disease. Am J Kidney Dis, 2007. 49(2 Suppl 2): p. S12-154.
2. Tordoir, J.H., Dialysis: Vascular access type defines survival in patients on dialysis. Nat Rev Nephrol, 2011.
7(9): p. 489-90.
3. Hirotani, S., et al., Vascular access infection: survival or mortality. J Vasc Access, 2015. 16 Suppl 10: p.
S78-9.
4. Gray, R.J., Percutaneous intervention for permanent hemodialysis access: a review. J Vasc Interv Radiol, 1997.
8(3): p. 313-27.
5. Khawaja, A.Z., et al., Systematic review of drug eluting balloon angioplasty for arteriovenous haemodialysis
access stenosis. J Vasc Access, 2016. 17(2): p. 103-10.
6. Kitrou, P.M., et al., Drug-eluting versus plain balloon angioplasty for the treatment of failing dialysis access:
final results and cost-effectiveness analysis from a prospective randomized controlled trial (NCT01174472). Eur
J Radiol, 2015. 84(3): p. 418-423.
7. Astor, B.C., et al., Timing of nephrologist referral and arteriovenous access use: the CHOICE Study. Am J
Kidney Dis, 2001. 38(3): p. 494-501.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_som_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_heptac_thon.pdf