Đánh giá mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson

Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson Dựa vào phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi, chúng tôi phân độ nặng bệnh Parkinson thành 2 nhóm: giai đoạn sớm với phân độ < 2, và giai đoạn muộn với phân độ ≥ 2. Kết quả nhóm giai đoạn muộn có mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trung bình cao hơn có ý nghĩa so với nhóm giai đoạn sớm (p = 0,002). Kết quả này phù hợp với Pospisil, tác giả đánh giá chức năng thần kinh tự chủ tim mạch bằng test đáp ứng nhịp tim theo hít thở sâu trên bệnh nhân Parkinson giai đoạn sớm (phân độ Hoehn & Yahr < 2) và giai đoạn muộn (phân độ Hoehn & Yahr ≥ 2). Kết quả cũng cho thấy bệnh nhân ở giai đoạn muộn suy yếu chức năng tự chủ tim mạch nặng hơn so với bệnh giai đoạn sớm(16). Trong nghiên cứu, ngoài việc khảo sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và thang điểm Hoehn & Yahr sửa đổi, chúng tôi còn tìm mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS. Thang điểm UPDRS được chấp thuận rộng rãi nhất trong đánh giá bệnh Parkinson, cũng như trong theo dõi tiến triển bệnh và đáp ứng với điều trị. Thang điểm UPDRS đánh giá nhiều đặc tính trong bệnh Parkinson. Mỹ và Châu Âu dựa vào thang điểm này trong việc đánh giá đáp ứng điều trị với các loại thuốc mới, và hầu hết các thử nghiệm lâm sàng cũng dựa vào thang điểm UPDRS để đánh giá hiệu quả của can thiệp phẫu thuật trong bệnh Parkinson(12). Trong nghiên cứu, chúng tôi quan sát thấy có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS phần III (vận động), với hệ số tương quan Pearson r = 0,537 (mức độ tương quan cao) (p < 0,001). Như vậy điểm UPDRS càng cao thì mức độ tổn thương chức năng thần kinh tự chủ càng nặng, điều này cũng phù hợp với tiến triển bệnh Parkinson qua các giai đoạn tổn thương não theo Braak(10).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 50 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 271 ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG THẦN KINH TỰ CHỦ TRÊN BỆNH NHÂN PARKINSON Võ Nguyễn Ngọc Trang*, Nguyễn Hữu Công TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson dựa trên các test; quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, trên 60 bệnh nhân Parkinson tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế, từ 9-2013 đến 6-2014. Chẩn đoán bệnh Parkinson dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán Ngân Hàng Não của Hội Bệnh Parkinson Anh Quốc. Trong nghiên cứu, chức năng đối giao cảm được đánh giá bằng test biến thiên nhịp tim theo tư thế và theo hít thở sâu. Chức năng giao cảm được đánh giá bằng các test ghi đáp ứng giao cảm da, biến thiên huyết áp theo tư thế, sau vận động thể lực đẳng trường và kích thích lạnh. Kết quả: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson là 8,3 – 55% tùy theo test thực hiện, trong đó bất thường cao nhất là ở test biến thiên huyết áp với vận động thể lực đẳng trường (55%). Tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson ở mức độ nhẹ, 63,4% trường hợp bất thường từ 2 test trở xuống. Tổn thương ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm (53,8%). Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi (p = 0,001), cũng như theo thang điểm UPDRS phần III (hệ số tương quan Pearson r = 0,537, p < 0,001). Kết luận: Tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson ở mức độ nhẹ, ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm. Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh. Từ khoá: bệnh Parkinson, test thần kinh tự chủ, chức năng giao cảm,chức năng đối giao cảm. ABSTRACT EVALUATION OF AUTONOMIC DYSFUNCTION IN PATIENTS WITH PARKINSON’S DISEASE Vo Nguyen Ngoc Trang, Nguyen Huu Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 271 - 277 Background: Nearly all parkinsonian patients experience some degree of autonomic disturbances during the course of their illness. Dysautonomic symptom influences safety and quality of life, and it also burdens not only to patients but also to caregivers. Autonomic function tests can evaluate the severity and distribution of autonomic failure, as well as detect subclinical autonomic deficits with sufficient sensitivity. However, autonomic function tests in Parkinson’s disease have not been properly evaluated in Vietnam until now. Objective: To characterise the frequency and severity of autonomic dysfunction in patients with Parkinson’s disease; to find the correlation between the degree of autonomic deficits and the severity of Parkinson’s disease. Methods: This was a cross-sectional study, including 60 patients with Parkinson’s disease in International Neurosurgery Hospital, from Sep 2013 to Jun 2014. The diagnosis of Parkinson’s disease was verified using the UK Parkinson’s Disease Society Brain Bank clinical criteria. In this study, parasympathetic autonomic function was evaluated by the heart rate response to standing (30:15 ratio) and heart rate variability with deep breathing. Sympathetic autonomic function was evaluated by the sympathetic skin response, blood pressure response to * Bệnh viện Chuyên khoa Ngoại Thần kinh Quốc tế Tác giả liên lạc: BS. Võ Nguyễn Ngọc Trang ĐT: 0919900541 Email: vnntrang309@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 272 standing, blood pressure response to isometric exercise (sustained handgrip) and cold pressor test. Results: Abnormal autonomic function tests were found in the range of 8.3% – 55%, the highest frequency of abnormality was observed in blood pressure response to isometric exercise. 54.7% of the Parkinson’s disease patients showed dysfunction of both sympathetic and parasympathetic system. There was mild dysautonomia in Parkinson’s disease, abnormalities of less than 2 tests were found in 63.4%. The severity of autonomic dysfunction showed significant correlation with Hoen & Yahr stage (p = 0.001) and part III of UPDRS (Pearson’s correlation coefficient = 0.537, p < 0.001). Conclusions: The results of this study showed mild abnormalities of both sympathetic and parasympathetic function in patients with Parkinson’s disease. Autonomic dysfunction increased in severity with disease progression. Key words: Parkinson’s disease, autonomic function test, sympathetic function, parasympathetic function. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh Parkinson là một bệnh thoái hóa thần kinh và triệu chứng thần kinh tự chủ rất thường gặp trong bệnh này, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh(1). Trong giai đoạn sớm, rối loạn thần kinh tự chủ thường không có triệu chứng và có thể phát hiện được bằng các test khảo sát(8). Khảo sát chức năng thần kinh tự chủ là một phương pháp không xâm lấn, có thể đánh giá độ nặng và đặc điểm rối loạn thần kinh tự chủ. Hơn nữa, các test thần kinh tự chủ có đủ độ nhạy trong việc phát hiện các bất thường trước khi triệu chứng lâm sàng xuất hiện(11). Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu khảo sát các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson. Tuy nhiên, cho tới nay tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu đi sâu vào nhóm bệnh Parkinson, cũng như chưa thấy có công trình nghiên cứu nào đề cập đến các test đánh giá thần kinh tự chủ trên tất cả các loại bệnh lý thần kinh nói chung, cũng như trong bệnh Parkinson. Do vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này. Mục tiêu nghiên cứu - Xác định tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trên bệnh nhân Parkinson dựa trên các test. - Quan sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân Parkinson điều trị nội trú và ngoại trú tại bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế, được chẩn đoán bệnh Parkinson trên lâm sàng bằng tiêu chuẩn chẩn đoán Ngân Hàng Não của Hội bệnh Parkinson Anh Quốc. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: hội chứng Parkinson thứ phát (do thuốc, độc chất, bệnh nhiễm, bệnh chuyển hóa, bệnh mạch máu não), hội chứng Parkinson trong các bệnh thoái hóa (teo đa hệ thống, liệt trên nhân tiến triển, sa sút trí tuệ thể Lewy, thoái hóa vỏ não – hạch nền), có bệnh lý tim mạch kèm theo (suy tim, loạn nhịp tim, đặt máy tạo nhịp tim), đang sử dụng các thuốc có thể ảnh hưởng đến tần số tim (nhóm Digitalis, các thuốc chống loạn nhịp tim, thuốc kháng cholinergic, thuốc ức chế thụ thể beta). Áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ của dân số, với biến số quan tâm chủ yếu là tỷ lệ rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson dựa trên các test khảo sát. 2 1 / 2 2 Z p(1 p) n d   Trong đó: α = 0,05 (sai lầm loại 1); Z(0,975) = 1,96; p = 0,81; d = 0,1 (sai số cho phép). Áp dụng vào công thức, chúng tôi tính được cỡ mẫu tối thiểu là 60 bệnh nhân. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 273 Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả, với các biến độc lập là các đặc điểm mẫu nghiên cứu, đặc điểm bệnh Parkinson (triệu chứng lâm sàng và mức độ nặng của bệnh), biến phụ thuộc là mức độ tổn thương chức năng thần kinh tự chủ. Thu thập và xử lý số liệu nghiên cứu bằng phần mềm SPSS 20.0. Sự tương quan giữa các biến số nếu có được khảo sát bằng phép kiểm chi bình phương và phép kiểm chính xác Fisher cho các biến định tính; phép kiểm t-student và hồi qui tuyến tính cho các biến định lượng. Về hệ số tương quan Pearson: |r| > 0,9: mức tương quan gần như hoàn toàn; 0,7 – 0,9: rất cao; 0,5 – 0,7: cao/ chặt chẽ; 0,3 – 0,5: trung bình; 0,1 – 0,3: thấp; < 0,1: không đáng kể(3). KẾT QUẢ Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu Tổng số có 60 bệnh nhân Parkinson thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh được đưa vào nghiên cứu từ 9- 2013 đến 6-2014. Tỷ lệ nữ: nam = 1,14: 1 (p > 0,05). Tuổi khởi bệnh Parkinson trung bình là 56,8 ± 10, thường gặp nhất ở độ tuổi 50 – 60. Lý do chính làm bệnh nhân đến khám hoặc nhập viện nhiều nhất là run, chiếm 66,7%, kế đến là cử động chậm và đi dễ ngã. Có 5% đến khám vì các lý do khác như đau khớp, tê hoặc yếu tay chân. Tất cả bệnh nhân đều có triệu chứng cử động chậm (100%), có 16 trường hợp biểu hiện mất ổn định tư thế, chiếm 26,7%. Phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi trung bình là 2,1 ± 0,9, thường gặp nhất là bệnh nhân ở giai đoạn 1. Điểm UPDRS phần III trung bình là 17,7 ± 8,6. Triệu chứng rối loạn thần kinh tự chủ trên lâm sàng thường gặp nhất là táo bón, chiếm 35%, kế đến là triệu chứng của hạ huyết áp tư thế, chiếm 25%. Có 20% biểu hiện triệu chứng rối loạn đi tiểu, bao gồm tiểu gấp, tiểu không hết, tiểu lắt nhắt, tiểu đêm; có 2 trường hợp tiểu không kiểm soát. Tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ Bảng 1: Phân bố theo đặc điểm bất thường test thần kinh tự chủ Đặc điểm bất thường Tần số Tỷ lệ (%) Giao cảm 22 41,5% Đối giao cảm 2 3,8% Giao cảm và đối giao cảm 29 54,7% Nhận xét: bất thường chủ yếu ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm (53,8%). Bảng 2: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ dựa trên các test Test khảo sát Tần số Tỷ lệ (%) Chỉ số 30:15 18 30% Biến thiên huyết áp theo tư thế 5 8,3% Biến thiên nhịp tim theo hít thở sâu 20 33,3% Vận động thể lực đẳng trường 33 55% Kích thích lạnh 32 53,3% Ghi đáp ứng giao cảm da 18 30% Nhận xét: Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ thay đổi tùy theo các test. Tỷ lệ bất thường cao nhất là ở test biến thiên huyết áp khi vận động thể lực đẳng trường (55%). Bảng 3: Phân loại mức độ tổn thương thần kinh tự chủ Số test bất thường Tần số Tỷ lệ 0 test 7 11,7% 1 test 18 30% 2 test 13 21,7% 3 test 12 20% 4 test 7 11,7% 5 test 3 5% 6 test 0 0% Nhận xét: Tỷ lệ cao nhất là bất thường chỉ ở 1 test, 18 trường hợp, chiếm 30%. 63,4% bất thường từ 2 test trở xuống. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 274 Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson Biểu đồ 1: Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi theo nhóm Nhận xét: Nhóm giai đoạn muộn (thang điểm Hoehn & Yahr sửa đồi ≥ 2) có mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trung bình cao hơn có ý nghĩa so với nhóm giai đoạn sớm (thang điểm Hoehn & Yahr sửa đồi < 2) (p = 0,001). Biểu đồ 2: Biểu đồ phân tán (scatter plot) biểu hiện mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và điểm UPDRS phần III (vận động) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 275 Nhận xét: Quan sát thấy có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS phần III, với hệ số tương quan Pearson r = 0,537 (mức độ tương quan cao) (p < 0,001). BÀN LUẬN Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu Chúng tôi nghiên cứu 60 trường hợp Parkinson, nam chiếm 46,7% , nữ chiếm 53,3%, tỷ lệ nữ: nam là 1,14: 1, sự khác biệt về số người mắc bệnh giữa giới nam và giới nữ không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuổi khởi bệnh trung bình là 56,8 ± 10. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi tương đối phù hợp với y văn, bệnh Parkinson thường khởi phát ở độ tuổi 50 – 60, những trường hợp dưới 50 tuổi chỉ chiếm khoảng 4%. Tại Mỹ tuổi khởi bệnh trung bình là 58 – 60 tuổi, cho nên bệnh Parkinson được xem là bệnh của người già(17). Qua hỏi bệnh sử và tiền căn 60 trường hợp, chúng tôi tìm thấy triệu chứng rối loạn thần kinh tự chủ trên lâm sàng thường gặp nhất là táo bón, chiếm 35%, kế đến là triệu chứng của hạ huyết áp tư thế, chiếm 25%. Có 20% biểu hiện triệu chứng rối loạn đi tiểu, bao gồm tiểu gấp, tiểu không hết, tiểu nhiều lần, tiểu đêm; trong đó 2 trường hợp tiểu không kiểm soát. Tần suất các triệu chứng tổn thương thần kinh tự chủ của chúng tôi thấp hơn so với các tác giả trên thế giới, có thể do cỡ mẫu của chúng tôi còn hạn chế và chúng tôi không sử dụng bảng câu hỏi hoặc thang điểm đánh giá (SCOPA-AUT - thang điểm đánh giá rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson). Tuy nhiên, chúng tôi và các tác giả đều tìm thấy sự giống nhau ở thứ tự thường gặp của các triệu chứng rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson, với 3 triệu chứng thường gặp nhất là: táo bón, rối loạn đi tiểu và cảm giác choáng váng khi thay đổi tư thế(1,14). Tỷ lệ tổn thương và mức độ tổn thương thần kinh tự chủ Tại Việt Nam, Lê Văn Bổn đã nghiên cứu biến chứng thần kinh tự chủ bằng các test trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ khảo sát các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ tim mạch, gồm biến thiên nhịp tim với các kích thích khác nhau và biến thiên huyết áp từ nằm sang đứng(2). Ở đây, ngoài các test về thần kinh tự chủ của tim mạch, chúng tôi còn khảo sát thêm các test đánh giá chức năng hệ giao cảm, bao gồm: test ghi đáp ứng giao cảm da, test thay đổi huyết áp khi vận động thể lực đẳng trường và khi kích thích lạnh. Tại phòng điện cơ của bệnh viện chúng tôi, có thể thực hiện được gần đầy đủ các test khảo sát chức năng thần kinh tự chủ, tương tự như ở các phòng điện cơ tại các nước tiên tiến(9,8). Tuy nhiên, chúng tôi không có đủ phương tiện để thực hiện một số test chuyên biệt như: test mồ hôi điều nhiệt (Thermoregulatory sweat test), test phản xạ sợi trục tiết mồ hôi định tính (Quantitative sudomotor axon reflex test – QSART) và test cảm giác định lượng (Quantitative sensory test – QST). Chúng tôi không thực hiện nghiệm pháp Valsalva, vì có nguy cơ rối loạn huyết động học, gây choáng, ngất hoặc rối loạn nhịp, đặc biệt là trên nhóm đối tượng đã có bệnh lý về tim mạch, dù các biến chứng này rất hiếm gặp(13). Trong các trường hợp test thần kinh tự chủ bất thường, có 54,7% ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu đã được báo cáo, bệnh Parkinson gây tổn thương thần kinh tự chủ trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm(6). Có 6 test thần kinh tự chủ được thực hiện, và kết quả cho thấy, tỷ lệ bất thường thay đổi trong khoảng 8,3 – 55% tùy theo các test, tỷ lệ bất thường cao nhất là ở test biến thiên huyết áp khi vận động thể lực đẳng trường (55%). Có nhiều bảng phân loại mức độ nặng dựa trên các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ. Trong đó, sử dụng phổ biến nhất hiện nay là bảng phân loại của tác giả Ewing. Tác giả khảo sát 5 test, bao gồm: 3 test khảo sát biến thiên nhịp tim (theo tư thế, hít thở sâu, Valsalva) và 2 test Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 276 khảo sát biến thiên huyết áp (theo tư thế, vận động thể lực). Dựa vào số test bất thường và mức độ bất thường, tác giả phân thành các nhóm: bình thường (normal), bất thường sớm (early involvement), bất thường rõ rệt (definite involvement) và bất thường nặng nề (severe involvement)(8). Trong nghiên cứu, chúng tôi thực hiện 6 test và đánh giá mức độ nặng dựa vào số test bất thường trong 6 test khảo sát, phân độ này đã được tác giả Lê Văn Bổn sử dụng khi khảo sát biến chứng thần kinh tự chủ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2(2). Trong 60 trường hợp khảo sát, tỷ lệ cao nhất là bất thường chỉ ở 1 test, 18 trường hợp, chiếm 30%. Như vậy, rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson hầu hết ở mức độ nhẹ với 63,4% trường hợp bất thường từ 2 test trở xuống. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với y văn, đồng thời cũng phù hợp với tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng Ngân Hàng Não của Hội bệnh Parkinson Anh Quốc, trong đó rối loạn thần kinh tự chủ nặng là một trong các tiêu chuẩn loại trừ chẩn đoán bệnh Parkinson(4). Trong các bệnh synuclein, rối loạn thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson chỉ mức độ nhẹ, teo đa hệ thống gây rối loạn chức năng thần kinh tự chủ rõ rệt và nặng, trong khi đó, sa sút trí tuệ thể Lewy gây rối loạn tự chủ mức trung bình. Chính vì vậy, kết hợp giữa lâm sàng và sử dụng các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ có thể giúp phân biệt các hội chứng Parkinson và bệnh Parkinson tự phát(11). Mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và độ nặng của bệnh Parkinson Dựa vào phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi, chúng tôi phân độ nặng bệnh Parkinson thành 2 nhóm: giai đoạn sớm với phân độ < 2, và giai đoạn muộn với phân độ ≥ 2. Kết quả nhóm giai đoạn muộn có mức độ tổn thương thần kinh tự chủ trung bình cao hơn có ý nghĩa so với nhóm giai đoạn sớm (p = 0,002). Kết quả này phù hợp với Pospisil, tác giả đánh giá chức năng thần kinh tự chủ tim mạch bằng test đáp ứng nhịp tim theo hít thở sâu trên bệnh nhân Parkinson giai đoạn sớm (phân độ Hoehn & Yahr < 2) và giai đoạn muộn (phân độ Hoehn & Yahr ≥ 2). Kết quả cũng cho thấy bệnh nhân ở giai đoạn muộn suy yếu chức năng tự chủ tim mạch nặng hơn so với bệnh giai đoạn sớm(16). Trong nghiên cứu, ngoài việc khảo sát mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và thang điểm Hoehn & Yahr sửa đổi, chúng tôi còn tìm mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS. Thang điểm UPDRS được chấp thuận rộng rãi nhất trong đánh giá bệnh Parkinson, cũng như trong theo dõi tiến triển bệnh và đáp ứng với điều trị. Thang điểm UPDRS đánh giá nhiều đặc tính trong bệnh Parkinson. Mỹ và Châu Âu dựa vào thang điểm này trong việc đánh giá đáp ứng điều trị với các loại thuốc mới, và hầu hết các thử nghiệm lâm sàng cũng dựa vào thang điểm UPDRS để đánh giá hiệu quả của can thiệp phẫu thuật trong bệnh Parkinson(12). Trong nghiên cứu, chúng tôi quan sát thấy có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo thang điểm UPDRS phần III (vận động), với hệ số tương quan Pearson r = 0,537 (mức độ tương quan cao) (p < 0,001). Như vậy điểm UPDRS càng cao thì mức độ tổn thương chức năng thần kinh tự chủ càng nặng, điều này cũng phù hợp với tiến triển bệnh Parkinson qua các giai đoạn tổn thương não theo Braak(10). Như vậy, qua khảo sát các yếu tố liên quan đến mức độ tổn thương thần kinh tự chủ theo phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến, kết quả của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới, mức độ tổn thương thần kinh tự chủ có liên quan với mức độ nặng của bệnh(14,7,16). Triệu chứng không vận động, bao gồm rối loạn thần kinh tự chủ, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, làm nặng thêm tình trạng của bệnh Parkinson, làm người bệnh nằm liệt giường hay tàn tật, và trở thành gánh nặng không chỉ cho bệnh nhân mà cho cả người chăm sóc. Gánh nặng của triệu chứng không vận động có vẻ còn quan trọng hơn cả triệu chứng vận động trong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Thần Kinh 277 chất lượng cuộc sống ở tất cả các giai đoạn bệnh Parkinson(1,14). Điều này cho thấy cần phải thực hiện các test đánh giá chức năng thần kinh tự chủ thường quy trên tất cả bệnh nhân bệnh Parkinson ở bất kỳ giai đoạn nào(15). KẾT LUẬN Tỷ lệ tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson là 8,3 – 55% tùy theo test thực hiện, trong đó bất thường cao nhất là ở test biến thiên huyết áp với vận động thể lực đẳng trường (55%). Tổn thương thần kinh tự chủ trong bệnh Parkinson ở mức độ nhẹ, chiếm tỷ lệ cao nhất là chỉ bất thường ở 1 test (30%) và 63,4% trường hợp bất thường từ 2 test trở xuống. Tổn thương ảnh hưởng trên cả hệ giao cảm và đối giao cảm (53,8%). Có mối liên quan giữa mức độ tổn thương thần kinh tự chủ và mức độ nặng của bệnh theo phân độ Hoehn & Yahr sửa đổi (p = 0,001), cũng như theo thang điểm UPDRS phần III (hệ số tương quan Pearson r = 0,537, p < 0,001). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bae HJ, Cheon SM, Kim JW (2009). Autonomic Dysfunctions in Parkinsonian Disorders. Journal of Movement Disorders, 2 (2): 72 – 77. 2. Bostantjopoulou S, Katsarou Z, Karakasis C, et al (2013). Evaluation of non-motor symptoms in Parkinson's Disease: An underestimated necessity. Hippokratia, 17 (3): 214-9. 3. Braak H, Del TK, Rub U, et al (2003). Staging of brain pathology related to sporadic Parkinson's disease. Neurobiol Aging, 24 (2): 197-211. 4. Chowdhury D, Patel N (2006). Approach to a case of autonomic peripheral neuropathy. J Assoc Physicians India, 54: 727-32. 5. Ewing DJ, Martyn CN, Young RJ, et al (1985). The value of cardiovascular autonomic function tests: 10 years experience in diabetes. Diabetes Care, 8 (5): 491-8. 6. Hori N, Newton RU, Kawamori N, et al (2009). Reliability of performance measurements derived from ground reaction force data during countermovement jump and the influence of sampling frequency. J Strength Cond Res, 23 (3): 874-82. 7. Hughes AJ, Daniel SE, Kilford L, et al (1992). Accuracy of clinical diagnosis of idiopathic Parkinson's disease: a clinico- pathological study of 100 cases. Journal of Neurology, Neurosurgery & Psychiatry, 55 (3): 181-184. 8. Ivanov B, Valkanova V, Deleva N (2004). Cardiovascular autonomic disturbances in early Parkinsons disease. J of IMAB, 10 (1): 15 - 18 9. Jain S, Siegle GJ, Gu C, et al (2011). Autonomic insufficiency in pupillary and cardiovascular systems in Parkinson's disease. Parkinsonism Relat Disord, 17 (2): 119-22. 10. Kim JB, Kim BJ, Koh SB, et al (2014). Autonomic dysfunction according to disease progression in Parkinson's disease. Parkinsonism Relat Disord, 20 (3): 303-7. 11. Lê Văn Bổn (2007). Biến chứng thần kinh tự chủ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường tip 2. Luận án chuyên khoa 2, Đại Học Y Dược TPHCM. 12. Low PA, Tomalia VA, Park KJ (2013). Autonomic function tests: some clinical applications. J Clin Neurol, 9 (1): 1-8. 13. Movement Disorder Society Task Force on Rating Scales for Parkinson's Disease (2003). The Unified Parkinson's Disease Rating Scale (UPDRS): status and recommendations. Mov Disord, 18 (7): 738-50. 14. Nagappan R, Arora S, Winter C (2002). Potential dangers of the Valsalva maneuver and adenosine in paroxysmal supraventricular tachycardia--beware preexcitation. Crit Care Resusc, 4 (2): 107-11. 15. Okubadejo NU, Danesi MA (2004). Frequency and predictors of autonomic dysfunction in Parkinson's disease: a study of African patients in Lagos, Nigeria. Niger Postgrad Med J, 11 (1): 45-9. 16. PospíŠiL P, KoneČný L, Vank P (2008). Autonomic dysfunction and progression of Parkinson's disease. Scripta Medica (Brno), 81 (4): 239 - 248 17. Wolters EC, Bosboom JLW (2010). Parkinson's Disease. In: Wolters EC, Larr TV, Berendse HW (eds). Parkinsonism and Related Disorders, 3rd edition, pp. 143 - 158. VU University Press. Ngày nhận bài báo: 14/10/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/10/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_muc_do_ton_thuong_than_kinh_tu_chu_tren_benh_nhan_p.pdf
Tài liệu liên quan