Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và sử dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Thông số ô nhiễm tính phí
Thông số ô nhiễm tính phí theo pháp luật
hiện hành gồm 6 chất gây ô nhiễm không phù
hợp với điều kiện về nguồn lực và phương tiện
thu phí của các địa phương đã tạo nên những áp
lực cho các địa phương trong việc thẩm định phí
và tạo điều kiện cho doanh nghiệp kê khai phí
không trung thực, gây thất thu cho ngân sách.
Hơn nữa, báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia
năm 2009 cho thấy không phải ngành công
nghiệp nào cũng phát sinh đủ 6 chất gây ô nhiễm,
đặc biệt là đối với 4 kim loại nặng Hg, Pb, As và
Cd. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu có trong nước
thải của các ngành công nghiệp là COD và TSS.
Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị chỉ nên áp dụng
thu phí BVMT đối với 02 chỉ tiêu ô nhiễm là
COD, TSS. Nếu ngành công nghiệp nào phát
sinh thêm chất gây ô nhiễm là kim loại nặng thì
thu thêm phí với 01 kim loại nặng có nồng độ
cao nhất trong nước thải. Quy định này có thể
phản ánh tương đối chính xác hiện trạng môi
trường của các ngành công nghiệp Việt Nam và
giúp cơ quan quản lý tại địa phương tiết kiệm
thời gian và chi phí trong việc thẩm định phí.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và sử dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
66
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỨC PHÍ VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN THU TỪ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC THẢI CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI MỤC TIÊU GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Lê Thị Thu Hằng1
Tóm tắt: Tác động của pháp luật về phí bảo vệ môi trường thể hiện qua hai khía cạnh quan
trọng đó là: i) mức phí cơ sở sản xuất phải trả có đủ để tạo ra khuyến khích giảm thiểu ô nhiễm
không; ii) hiệu quả của việc sử dụng phí bảo vệ môi trường (BVMT) đối với mục tiêu giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nước. Bài viết sẽ đánh giá khả năng tác động của pháp luật Việt Nam về phí bảo
vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trên hai khía cạnh này. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải công nghiệp nhằm nâng cao
hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Từ khóa: Nước thải công nghiệp, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp, tính phí,
sử dụng phí bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Nhận bài: 16/03/2018; Hoàn thành biên tập: 21/03/2018; Duyệt đăng: 02/04/2018
Abstract: According to the theoretical basis of taxation and environmental protection fees, the
impact to minimize pollution of environmental protection fees will be expressed in two important
aspects: i) fees to be paid by the producers is sufficient enough to create incentives to reduce
pollution; ii) the effectiveness of using environmental protection fees to minimize water pollution. The
paper will assess the impact of Vietnamese environmental protection fees for industrial wastewater
on these two aspects. On that basis, the paper proposes a number of solutions to improve legislation
on environmental protection fees for industrial wastewaterin order to improve the effectiveness of
environmental pollution reduction.
Keywords: water, environmental protection fee for industrial wastewater, charge schedule, using
environmental protection fees, environmental pollution reduction.
Date of receipt: 16/03/2018; Date of revision: 21/03/2018; Date of approval: 02/04/2018
1. Đặt vấn đề
Việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải đã được triển khai thực hiện tại Việt Nam từ
đầu năm 2004 với sự điều chỉnh của Nghị định số
67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ
về phí BVMT đối với nước thải. Trong quá trình
triển khai thực hiện việc thu phí, Chính phủ đã có
những điều chỉnh nhất định trong chính sách
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã
hội. Ngày 29/03/2013, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 25/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định
số 67/2003/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày
01/07/2013. Tiếp tục điều chỉnh về phí BVMT
đối với nước thải, ngày 16/11/2016, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 154/2016/NĐ-CP có
hiệu lực từ ngày 01/01/2017 thay thế Nghị định
số 25/2013/NĐ-CP.
Nhìn chung, pháp luật về phí BVMT đối với
nước thải đã mang lại những hiệu quả nhất định
trong công tác quản lý và BVMT, đó là: i) hạn
chế ô nhiễm môi trường từ nước thải; ii) tạo
nguồn thu cho hoạt động BVMT. Bên cạnh
những mặt tích cực đạt được, pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp
đã bộc lộ nhiều bất cập, làm ảnh hưởng đến hiệu
quả và hiệu lực giảm thiểu ô nhiễm môi trường
nước thải công nghiệp. Bài viết sẽ đánh giá tác
động của pháp luật về phí BVMT nước thải công
nghiệp đối với việc hạn chế ô nhiễm môi trường
nước thải công nghiệp và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả BVMT nước thải công
nghiệp của phí BVMT.
2. Đánh giá tác động của pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp đối với việc giảm thiểu ô nhiễm nước
thải công nghiệp
2.1. Pháp luật về mức phí bảo vệ môi trường
và khả năng tạo sự khuyến khích giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nước thải công nghiệp
1 Thạc sỹ, Khoa luật- Đại học Kinh tế Đà Nẵng
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
67
Khả năng tạo khuyến khích giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nước của phí BVMT nước thải
công nghiệp sẽ đạt được nếu mức phí mà cơ sở
sản xuất phải trả cao hơn so với chi phí xử lý ô
nhiễm cận biên của doanh nghiệp tại thời điểm
xem xét. Về lý thuyết, cơ sở sản xuất sẽ tự xử lý
ô nhiễm tới mức mà chi phí xử lý ô nhiễm cận
biên bằng với mức phí phải trả.
Ở giai đoạn đầu thu phí theo Nghị định số
67/2003/NĐ-CP, Việt Nam chỉ thu phí một nấc cho
tất cả các cơ sở sản xuất không phân biệt lưu lượng
xả thải và mức phí đối với các chất gây ô nhiễm
COD và TSS rất thấp, dao động từ 100- 400
đồng/kg. Với phương thức tính phí một nấc và mức
phí đối với các chất gây ô nhiễm thấp, các cơ sở sản
xuất chỉ phải trả một mức phí trung bình rất thấp,
khoảng 200đồng/m3 nước sử dụng cho hoạt động
sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, chi phí để xử
lý nước thải đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi
trường của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
chế biến thủy sản ở mức tối thiểu là 3000 đồng/m3
nước thải và có trường hợp chi phí xử lý có thể lên
tới 10.000đồng/m3. Theo phản ánh của các địa
phương, trong thời gian thực hiện thu phí BVMT
theo Nghị định số 67/2003/NĐ-CP, doanh nghiệp
sẵn sàng trả phí BVMT thay cho việc đầu tư hệ
thống xử lý nước thải. Điều này cho thấy, mục tiêu
giảm thiểu ô nhiễm môi trường của phí BVMT đối
với nước thải không đạt được như mong muốn.
Bên cạnh đó, phương thức tính phí một nấc
dựa trên lưu lượng nước thải và nồng độ chất gây
ô nhiễm được áp dụng cho tất cả các cơ sở sản
xuất đã khiến cho mức phí doanh nghiệp thực
nộp thấp hơn mức phí phải nộp. Việc xác định
lưu lượng nước thải và nồng độ chất gây ô nhiễm
của doanh nghiệp thông qua lấy mẫu quan trắc
nên khi các đơn vị tiến hành lấy mẫu quan trắc,
nhiều doanh nghiệp không hợp tác, cố tình giảm
bớt công xuất sản xuất, pha loãng nồng độ chất
gây ô nhiễm làm sai lệch số liệu quan trắc với
mục đích giảm thiểu số phí BVMT nước thải
công nghiệp phải nộp.
Qua phân tích pháp luật cho thấy mức phí
BVMT doanh nghiệp phải trả rất thấp và phương
thức thu phí không phù hợp nên sự tác động Nghị
định số 67/2003/NĐ-CP đối với mục tiêu giảm
thiểu ô nhiễm môi trường không đạt được mục
tiêu đã đặt ra.
Trước thực trạng đó, phương thức tính phí và
mức phí đã được điều chỉnh 2 lần bởi Nghị định
số 25/2013/NĐ-CP và Nghị định số 154/2016/NĐ-
CP. Theo quy định của Nghị định số 154/2016/NĐ-
CP, phương thức tính phí BVMT hai nấc gồm phí
cố định và phí biến đổi. Đối với doanh nghiệp xả
thải dưới 20m3/ngày đêm chỉ phải nộp phí cố
định 1.500.000 đồng/năm. Doanh nghiệp xả thải
từ 20m3/ngày đêm ngoài việc nộp phí cố định
còn phải nộp phí biến đổi tùy vào lưu lượng và
nồng độ xả thải. So với Nghị định số 67/2003/NĐ-
CP, mức phí đối với COD và TSS đã tăng từ 6
đến 10 lần, mức phí BVMT trung bình mà doanh
nghiệp phải trả tăng lên nhiều lần. Đối với cơ sở
sản xuất có lưu lượng xả thải dưới 20m3/ngày
đêm thì mức phí trung bình cơ sở sản xuất phải
trả thấp nhất là khoảng 23.000 đồng/m3, cao nhất
dao động khoảng 130.000- 150.000đồng/m3.
Đối với cơ sở có lưu lượng nước thải từ
20m3/ngày đêm, ngoài phí cố định tối thiểu phải
trả là 20.800 đồng/m3, cơ sở sản xuất phải trả
thêm phí biến đổi tùy theo lưu lượng nước thải,
thành phần và nồng độ chất gây ô nhiễm. Mức
phí biến đổi trung bình các cơ sở sản xuất phải
nộp có thể lên đến hàng trăm ngàn đồng/m3. Tuy
nhiên, chi phí xử lý ô nhiễm đối với 01 m3 nước
thải công nghiệp trong giai đoạn hiện nay đã tăng
lên nhiều lần, mức báo giá từ các đơn vị cung cấp
dịch vụ xây dựng và lắp đặt hệ thống xử lý nước
thải dao động từ 2 đến 3 triệu đồng/m3 tùy theo
công suất. Do đó, thực trạng doanh nghiệp có xu
hướng sẵn sàng trả phí hơn là đầu tư hệ thống xử
lý ô nhiễm môi trường vẫn tiếp diễn và chưa có
ý thức sử dụng tiết kiệm nước.
Ngoài ra, quy định tính phí đối với 6 chất gây
ô nhiễm (COD, TSS, Hg, Pb, As và Cd) không
phù hợp với điều kiện về nguồn lực và phương
tiện thu phí của các địa phương nên đa số các địa
phương không thực hiện đầy đủ việc thẩm định
đối với các chất gây ô nhiễm sau khi doanh
nghiệp tự kê khai phí. Chi phí thẩm định đối với
các chất gây ô nhiễm rất cao, có trường hợp phí
thẩm định còn cao hơn số phí thu được từ cơ sở
sản xuất nên dẫn đến tình trạng nhiều địa phương
chỉ tiến hành lấy mẫu phân tích thông số ô nhiễm
theo xác suất. Việc chỉ tiến hành lấy mẫu phân
tích thông số ô nhiễm theo xác suất dẫn đến tình
trạng hoạt động thu và nộp phí ở các địa phương
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
68
chủ yếu vẫn dựa vào việc tự kê khai phí của
doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nhiều doanh
nghiệp đã cố tình kê khai không trung thực để
giảm thiểu chi phí sản xuất.
Để có thể đánh giá một phần tác động của phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp theo quy
định Nghị định số 154/2016/NĐ-CP, tác giả đã
tiến hành khảo sát 49 cơ sở sản xuất tại Đà Nẵng.
Về cơ sở hạ tầng xử lý nước thải công nghiệp,
38/49 cơ sở sản xuất có lưu lượng nước thải dưới
20m3/ngày đêm khai có hệ thống xử lý nước thải
nhưng ở một số cơ sở sản xuất các thiết bị xử lý
nước thải hết sức thô sơ như chỉ có bể lắng, lọc
cặn; 11/49 cơ sở sản xuất còn lại khai không lắp
đặt hệ thống xử lý nước thải vì họ là những cơ sở
sản xuất nhỏ, lưu lượng nước thải ít (khoảng
hoặc ít hơn 1m3/ngày đêm) nên việc lắp đặt hệ
thống xử lý nước thải không cần thiết, làm tăng
chi phí sản xuất của cơ sở sản xuất. Về việc thay
đổi công nghệ sản xuất nhằm giảm lượng phát
thải ra môi trường, có 19/49 cơ sở sản xuất trả
lời có thay đổi một phần công nghệ sau khi nộp
phí và 30/49 cơ sở sản xuất trả lời không có bất
kỳ thay đổi công nghệ nào vì họ đã nộp phí, cơ
quan thu phí có trách nhiệm xử lý ô nhiễm bằng
chính số phí BVMT họ đã nộp.
Qua các phân tích và khảo sát cho thấy mức
phí thấp, thông số ô nhiễm tính phí phức tạp đã
hạn chế khả năng tạo khuyến khích giảm thiểu
ô nhiễm môi trường của pháp luật về phí
BVMT.
2.2. Pháp luật về sử dụng nguồn thu từ phí
bảo vệ môi trường và mục tiêu hạn chế ô nhiễm
môi trường từ nước thải công nghiệp
Ngoài mức phí, việc sử dụng nguồn thu từ
phí nước thải cũng tác động không nhỏ đến mục
tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường của phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp.
Giai đoạn đầu thu phí theo Nghị định số
67/2003/NĐ-CP, pháp luật quy định về việc sử
dụng nguồn thu từ phí BVMT còn khá chung
chung, chưa thực sự gắn với hoạt động hạn chế
ô nhiễm môi trường nước nên đã làm hạn chế khả
năng tác động giảm thiểu ô nhiễm của pháp luật
về phí BVMT nước thải công nghiệp.
Nghị định số 25/2013/NĐ-CP và Nghị định số
154/2016/NĐ-CP đã điều chỉnh quy định sử dụng
nguồn thu từ phí BVMT. Việc xác định cách sử
dụng nguồn thu từ phí BVMT nước thải công
nghiệp đã được quy định gắn liền với các hoạt
động BVMT nước thải công nghiệp. Theo Nghị
định số 154/2016/NĐ-CP, nguồn thu từ phí BVMT
đối với nước thải công nghiệp được chia làm 2
phần: i) Để lại 25% trên tổng số tiền phí bảo vệ
môi trường thu được để trang trải chi phí cho hoạt
động thu phí, trang trải chi phí đo đạc, đánh giá,
lấy mẫu, phân tích mẫu nước thải và kiểm tra định
kỳ hoặc đột xuất đối với nước thải công nghiệp; ii)
phần còn lại 75%trên tổng số phí BVMT đối với
nước thải công nghiệp thu được nộp vào ngân sách
địa phương để sử dụng cho công tác BVMT, bổ
sung nguồn vốn hoạt động cho Quỹ BVMT của
địa phương để sử dụng cho việc phòng ngừa, hạn
chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường do nước thải
và tổ chức thực hiện các giải pháp, phương án công
nghệ, kỹ thuật xử lý nước thải.
Mặc dù mục đích sử dụng nguồn thu từ phí
BVMT nước thải công nghiệp đã quy định một
phần được bổ sung nguồn vốn hoạt động cho
Quỹ BVMT của địa phương nhưng hệ thống
pháp luật lại thiếu vắng quy định về việc thành
lập và hoạt động của Quỹ BVMT địa phương,
dẫn đến việc thành lập Quỹ BVMT ở nhiều địa
phương rất chậm trễ. Theo số liệu của Tổng cục
Môi trường, tính đến tháng 11 năm 2016 cả nước
mới chỉ có 42 Quỹ Bảo vệ môi trường địa
phương. Việc chưa thành lập Quỹ BVMT địa
phương đồng nghĩa là tiền phí BVMT đối với
nước thải công nghiệp thu được tại nhiều địa
phương đã và đang “nằm trong két sắt” của ngân
sách địa phương trong thời gian khá dài và không
biết sử dụng vào việc gì, khiến cho việc sử dụng
nguồn thu từ phí BVMT không hiệu quả, mục
tiêu hạn chế ô nhiễm nước không đạt được như
mong muốn.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực
giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước của phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp
Dựa trên kết quả khảo sát thực tế và phân tích
đánh giá tác động của pháp luật về phí BVMT
đối với việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tác
giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về phí BVMT nhằm giúp hệ thống pháp luật về
phí BVMT thực sự phát huy tác động tích cực và
đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra là
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
69
hạn chế ô nhiễm môi trường nước, khuyến khích
sử dụng tiết kiệm nước và tạo nguồn thu cho
công tác BVMT. Các giải pháp đề xuất tập trung
vào các đặc điểm thiết kế căn bản của pháp luật
về phí BVMT gồm mức phí, thông số ô nhiễm
tính phí, sử dụng nguồn thu từ phí.
3.1. Mức thu phí
Mức thu phí cần được điều chỉnh tăng lên so
với mức hiện hành và nên có một lộ trình cho
việc tăng phí dự kiến cho khoảng thời gian từ 03
đến 05 năm tiếp theo.
Theo quy định của Nghị định số 154/2016/NĐ-
CP, mức chênh lệch giữa số phí BVMT trung
bình cơ sở sản xuất phải nộp đối với 01m3 nước
thải công nghiệp và chi phí bình quân để xử lý
01m3 nước thải công nghiệp đạt chuẩn là rất cao.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc tăng ngay mức phí
BVMT lên ngang bằng với chi phí bình quân để
xử lý 01m3 nước thải công nghiệp đạt chuẩn là
không thể thực hiện được vì hiện nay đa số các
cơ sở sản xuất công nghiệp ở Việt Nam có qui
mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu và
năng lực tài chính hạn hẹp. Việc tăng phí đột ngột
sẽ ảnh hưởng mạnh đến chi phí sản xuất của cơ
sở sản xuất và chắc chắn sẽ bị các cơ sở sản xuất
phản đối.
Theo kết quả điều tra tại các doanh nghiệp cho
thấy, mức phí hiện hành đối với COD và TSS có
thể điều chỉnh tăng thêm 1,5 đến 2 lần. Cụ thể mức
thu đối với COD có thể tăng lên và dao động ở
mức từ 3.000 - 4.000 đồng/kg, mức thu đối với
TSS có thể dao động từ 3.600 - 4.800 đồng/kg.
Mức phí cần điều chỉnh tăng cho các năm tiếp theo
trên cơ sở áp dụng hệ thống tự điều chỉnh mức phí
hằng năm theo chỉ số giá tiêu dùng.
Pháp luật về phí BVMT cũng cần được điều
chỉnh theo hướng giao quyền cho các địa phương
(cấp tỉnh) trong việc quy định mức phí BVMT
phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển kinh
tế, bảo vệ môi trường của từng địa phương.
3.2. Thông số ô nhiễm tính phí
Thông số ô nhiễm tính phí theo pháp luật
hiện hành gồm 6 chất gây ô nhiễm không phù
hợp với điều kiện về nguồn lực và phương tiện
thu phí của các địa phương đã tạo nên những áp
lực cho các địa phương trong việc thẩm định phí
và tạo điều kiện cho doanh nghiệp kê khai phí
không trung thực, gây thất thu cho ngân sách.
Hơn nữa, báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia
năm 2009 cho thấy không phải ngành công
nghiệp nào cũng phát sinh đủ 6 chất gây ô nhiễm,
đặc biệt là đối với 4 kim loại nặng Hg, Pb, As và
Cd. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu có trong nước
thải của các ngành công nghiệp là COD và TSS.
Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị chỉ nên áp dụng
thu phí BVMT đối với 02 chỉ tiêu ô nhiễm là
COD, TSS. Nếu ngành công nghiệp nào phát
sinh thêm chất gây ô nhiễm là kim loại nặng thì
thu thêm phí với 01 kim loại nặng có nồng độ
cao nhất trong nước thải. Quy định này có thể
phản ánh tương đối chính xác hiện trạng môi
trường của các ngành công nghiệp Việt Nam và
giúp cơ quan quản lý tại địa phương tiết kiệm
thời gian và chi phí trong việc thẩm định phí.
3.3. Phương thức sử dụng nguồn thu từ phí
bảo vệ môi trường đối với Quỹ bảo vệ môi
trường địa phương
Để phần phí bổ sung nguồn vốn hoạt động
cho Quỹ BVMT của địa phương được sử dụng
hiệu quả cần quy định rõ phương thức sử dụng
nguồn thu từ phí BVMT đối với Quỹ BVMT địa
phương. Tuy nhiên, trước hết cần phải quy định
việc thành lập Quỹ BVMT ở các địa phương là
bắt buộc nhằm tránh tình trạng tiền phí BVMT
thu về không được sử dụng trong khi nhu cầu về
nguồn vốn sử dụng cho hoạt động BVMT đang
là nhu cầu cấp thiết của mọi địa phương khi mà
ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách của
toàn xã hội.
Pháp luật điều chỉnh về phương thức sử dụng
nguồn thu từ phí BVMT nước thải công nghiệp
đối với Quỹ BVMT địa phương nên theo hướng:
i) thống nhất chức năng của Quỹ BVMT địa
phương là hỗ trợ tài chính, cho vay lãi suất ưu
đãi cho các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư bảo
vệ môi trường tại địa phương; ii) các Quỹ BVMT
địa phương ngay trong Điều lệ phải xác định rõ
các mục tiêu và tiêu chí lựa chọn đối tượng cho
vay, minh bạch hóa quy trình cho vay; đơn giản
hóa hồ sơ vay vốn giúp các doanh nghiệp có thể
tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng hơn; iii) hằng
năm các Quỹ BVMT địa phương phải xây dựng
chương trình và kế hoạch sử dụng nguồn thu từ
phí BVMT phù hợp với điều kiện của địa phương
và phù hợp chương trình, kế hoạch BVMT của
quốc gia.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
70
4. Kết luận
Phí BVMT đối với nước thải công nghiệp
được thực hiện tại Việt Nam trong gần 15 năm
qua và đã đạt được những kết quả nhất định trong
việc điều chỉnh hành vi của chủ thể xả thải theo
hướng có lợi cho môi trường. Tuy nhiên để hiệu
quả giảm thiểu ô nhiễm môi trường thực sự đạt
được mục tiêu đặt ra, cần phải xây dựng hệ thông
pháp luật phí BVMT chặt chẽ. Đặc biệt phải xây
dựng một mức phí BVMT nước thải công nghiệp
thực sự hợp lí đủ khả năng tạo khuyến khích
doanh nghiệp tự xử lý ô nhiễm nước thải công
nghiệp đạt chuẩn. Hệ thống pháp luật phí BVMT
chặt chẽ, các yếu tố tác động trực tiếp đến khả
năng tạo khuyến khích giảm thiểu ô nhiễm của
phí BVMT nước thải được đảm bảo thì phí
BVMT nước thải công nghiệp sẽ thực sự trở
thành công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý
và BVMT theo định hướng phát triển bền vững
ở nước ta./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2003), Nghị định số 67/2003
NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, ban hành ngày 13/06/2003.
2. Chính phủ (2013), Nghị định số 25/NĐ-CP
của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải, ban hành ngày 29/03/2013.
3. Chính phủ (2016), Nghị định 155/2016/
NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ban hành ngày
18/11/2016.
4. Chính phủ (2016). Nghị định số 154/2016/
NĐ-CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải, ban hành ngày 16/11/2016.
Thứ hai, nâng cao năng lực của chủ thể thực
thi pháp luật
Một là, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính liên quan đến nội dung thông
tin trong hoạt động báo chí cần tuân thủ việc áp
dụng các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm
nhẹ được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012. Cụ thể, đối với những vi phạm
có tình tiết tăng nặng hay tình tiết giảm nhẹ thì chủ
thể có thẩm quyền xử phạt cần ghi rõ các tình tiết
này trong quyết định xử phạt để từ đó quyết định
mức tiền phạt cho phù hợp theo nguyên tắc quy
định tại khoản 4 Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành
chính. Việc ghi nhận chính xác các tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ trong quyết định xử phạt
vi phạm hành chính là một nội dung thể hiện tính
hợp pháp của quyết định.
Hai là, chủ thể có thẩm quyền cần áp dụng
nghiêm minh, đúng pháp luật các chế tài xử phạt
và biện pháp khắc phục hậu quả liên quan đến
nội dung thông tin trong hoạt động báo chí. Cụ
thể, việc xử phạt cần tuân thủ đúng, đủ các hình
thức xử phạt được quy định đối với từng hành vi
vi phạm hành chính trong Nghị định số
159/2013/NĐ-CP. Đối với những vi phạm liên
quan đến nội dung thông tin trong hoạt động báo
chí mà Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định
phải đồng thời áp dụng hình thức xử phạt chính
và hình thức xử phạt bổ sung thì người có thẩm
quyền phải áp dụng cả hình thức xử phạt chính
và hình thức xử phạt bổ sung. Nếu người có thẩm
quyền chỉ áp dụng thức hình thức xử phạt chính
mà không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là
không thực hiện đúng quy định pháp luật. Đồng
thời, cần thiết lập thanh tra, kiểm tra công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này
nhằm phát hiện các sai phạm của người có thẩm
quyền xử phạt để xử lý nghiêm minh. Điều này
sẽ loại trừ việc áp dụng chế tài xử phạt một cách
tùy tiện của người có thẩm quyền xử phạt./.
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ NỘI DUNG THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
(Tiếp theo trang 60)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tac_dong_cua_phap_luat_ve_muc_phi_va_su_dung_nguon.pdf