Một là, tăng cường việc tự học, tự nghiên
cứu của học viên bằng cách giao các nhiệm
vụ cụ thể (viết thu hoạch theo một hồ sơ vụ
án cụ thể, viết tiểu luận ngắn về một chủ đề
nào đó, tập viết các bản án, soạn thảo các văn
bản tố tụng, soạn thảo hợp đồng ) để học
viên thực hiện đồng thời có biện pháp kiểm
tra, giám sát nhằm khuyến khích các học viên
tích cực và xử lý các học viên không hoàn
thành nhiệm vụ học tập ở nhà.
Hai là, nâng cao hiệu quả của giờ học
trên lớp bằng cách áp dụng triệt để phương
pháp dạy học tích cực, lấy người học làm
trung tâm, tạo điều kiện cho học viên phát
hiện vấn đề và nêu vấn đề trước lớp, tăng
cường trao đổi giữa giảng viên và học viên.
Ba là, chú trọng việc xây dựng thư viện
nhiều đầu sách, dễ dàng truy cập các thông
tin và tài liệu, phòng đọc rộng rãi và
tiện nghi để thu hút học viên tự làm việc tại
thư viện.
Bốn là, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, nhất là công nghệ thông tin trong
giảng dạy và học tập để thay đổi cách
truyền đạt và tiếp nhận thông tin truyền
thống.
Năm là, giảm bớt số lượng học viên trong
mỗi lớp học để phù hợp với tính chất của lớp
học đào tạo nghề (mỗi lớp không nên vượt quá
25 học viên)./.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÀO TẠO CHUNG NGUỒN THẨM PHÁN, KIỂM SÁT VIÊN
VÀ LUẬT SƯ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Đồng Thị Kim Thoa1
Lê Thị Thúy Nga2
Tóm tắt: Đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư là mô hình đào tạo mới
ở Việt Nam với mục tiêu đào tạo để học viên có năng lực tư duy pháp lý, phân tích và xử lý
tình huống, áp dụng pháp luật, trau dồi kỹ năng hành nghề, khả năng làm việc độc lập trong
môi trường công việc áp lực cao. Để triển khai mô hình đào tạo này cần có những đánh giá
trên nhiều khía cạnh trong đó có việc tham khảo kinh nghiệm đào tạo chung tại một số nước
trên thế giới. Bài viết đề cập tới kinh nghiệm đào tạo chung các chức danh thẩm phán, kiểm
sát viên, luật sư tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo trong
quá trình triển khai mô hình đào tạo này.
Từ khóa: Đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, mô hình
Nhận bài: 10/12/2017; Hoàn thành biên tập: 15/01/2018; Duyệt đăng: 26/01/2018
Abstract: Jointly training of Judges, prosecutors, lawyers is the new training model in
Vietnam with the aim to train trainees with capacity of legal thinking, analyzing and solving
cases, applying law, exchanging skills, ability of working independently in the high pressure
working environment. To implement this kind of training model, it requires assessment on
different aspects including understanding experience of jointly training of the above legal
professionals in some countries in the world. This article mentions the experience of jointly
training judges, prosecutors, lawyers in some countries and lesson for Vietnam in the process
of implementing this training model.
Keywords: Jointly training of judges, prosecutors, lawyers, model
Date of receipt: 10/12/2017 ; Date of revision: 15/01/2018; Date of approval:
26/01/2018
Đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm
sát viên, luật sư là hoạt động đào tạo được
thực hiện trong một chương trình đào tạo
cho cùng một đối tượng học viên nhằm
trang bị cho học viên kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp của cả ba chức danh Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Đây là mô
hình đào tạo mới trong lĩnh vực đào tạo
nguồn nhân lực tư pháp ở nước ta bên cạnh
mô hình đào tạo riêng từng chức danh
truyền thống. Mô hình đào tạo này được kỳ
vọng là góp phần tăng cường chất lượng,
hiệu quả đào tạo thông qua việc trang bị mặt
bằng chung về kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của ba chức
danh, đồng thời bảo đảm hợp lý tính chuyên
sâu về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng nghề nghiệp của mỗi chức danh cho
một người học; giúp người học dễ tiếp cận
và thực hiện tốt hoạt động tranh tụng sau khi
1 Tiến sỹ, Giảng viên chính, Phó Giám đốc Trung tâm liên kết đào tạo Luật sư thương mại quốc tế-Học viện Tư pháp
2 Thạc sỹ, Giảng viên, Phó trưởng Khoa Đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư-Học viện Tư pháp
34
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
hoàn thành chương trình đào tạo, làm cơ sở
để thực hiện chủ trương mở rộng tranh tụng
tại toà án đã được nhấn mạnh trong các
Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư
pháp và đã được quy định trong Hiến pháp
năm 2013.
Việc đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư theo một chương trình chung cũng
đã được triển khai ở một số quốc gia trên
thế giới. Ở các nước theo truyền thống
thông luật (common law), pháp luật của
Hoa Kỳ, Canada và một số nước xây dựng
mô hình đào tạo luật (ứng dụng J.D-Juris
Doctor) cho những người đã tốt nghiệp đại
học chuyên ngành khác để tạo nguồn Luật
sư và đến lượt mình, Luật sư là nguồn để bổ
nhiệm Thẩm phán và Công tố viên (tương
đương chức danh Kiểm sát viên ở Việt
Nam). Như vậy, đào tạo của các nước theo
mô hình thông luật về thực chất cũng là đào
tạo chung. Ở các nước theo truyền thống
dân luật (civil law), điển hình là Nhật Bản,
Hàn Quốc và một số nước châu Âu, mô hình
đào tạo chung ba chức danh thẩm phán,
công tố viên, luật sư hay hai chức danh
thẩm phán, công tố viên khá phổ biến3.
Theo quan điểm của các quốc gia này, việc
đào tạo chung nhằm tạo ra mặt bằng chung
về kiến thức và kỹ năng hành nghề luật, có
sự hiểu biết về nghề nghiệp của nhau giữa
các chức danh. Trong phạm vi hạn hẹp của
bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu của bản
thân cũng như kế thừa, sử dụng tư liệu của
Học viện Tư pháp trong nhiều năm qua,
chúng tôi trình bày một số nội dung cơ bản
trong kinh nghiệm đào tạo chung các chức
danh Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư của
một số quốc gia tiêu biểu và bài học kinh
nghiệm có thể tham khảo trong quá trình
Việt Nam xây dựng, triển khai mô hình đào
tạo này.
1. Đào tạo chung thẩm phán, kiểm sát
viên, luật sư ở một số nước trên thế giới
1.1. Cộng hòa Liên bang Đức
Hệ thống chức danh tư pháp ở Đức có
một số điểm đặc trưng. Phần lớn Thẩm phán
ở CHLB Đức là Thẩm phán bang, trừ các
Thẩm phán của Tòa án liên bang và Tòa án
Hiến pháp liên bang. Luật về thẩm phán của
Liên bang trước hết có giá trị bắt buộc đối
với các Thẩm phán liên bang và những vấn
đề cốt yếu của nghề Thẩm phán như thi cử
và đào tạo. Công tố viên ở Đức là một ngành
thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp. Công
tố viên liên bang tối cao là nhân viên nhà
nước và chịu sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp liên bang. Hệ thống Viện công tố
cũng được tổ chức tương đương với hệ thống
Tòa án. Luật sư là nghề tự do, chỉ được phép
hành nghề sau khi nhận được giấy phép hành
nghề do Bộ trưởng Bộ Tư pháp của bang sở
tại cấp với ý kiến của đoàn Luật sư sở tại và
sau khi đã tuyên thệ trước Tòa án cấp vùng
sở tại. Sau khi tuyên thệ, Luật sư sẽ được ghi
tên vào Đoàn Luật sư.
Đặc trưng cơ bản trên dẫn đến đặc thù
công tác đào tạo các chức danh tư pháp của
Đức: không có những thiết chế cố định
dưới hình thức Trường hay Viện đào tạo
nghề cho Thẩm phán, Luật sư, Công tố viên
3 Theo một nghiên cứu của Học viện Tư pháp trong Dự án xây dựng dự thảo Pháp lệnh đào tạo các chức danh tư
pháp tháng 11/năm 2014, trong số 21 nước có đào tạo thẩm phán và công tố viên được chọn nghiên cứu, có 15 nước
đào tạo chung hai chức danh này (Albania, Áo, Marcedonia, Moldova, Pháp, Đức, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Campuchia,
Thái Lan, Indonesia, Đài Loan, Đông Timor, Hàn Quốc, Nhật Bản), có 06 nước đào tạo riêng thẩm phán, công tố
viên (Armenia, Kyrgyzstan, Mexico, Phần Lan, Singapore, Trung Quốc).
35
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
mà do Bộ Tư pháp bang thực hiện thống
nhất trong một chương trình chung. Sau khi
tốt nghiệp đại học luật và đỗ kỳ thi tư pháp
quốc gia của từng bang, học viên sẽ được
đào tạo tư pháp tại từng bang. Để trở thành
Thẩm phán, Luật sư, Công tố viên, những
người đã đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia lần thứ
nhất phải đăng ký học một khóa đào tạo
nghề thời gian khoảng hai năm rưỡi. Sau
khi đỗ kỳ thi tư pháp quốc gia lần thứ hai
(của từng bang), học viên sẽ có bằng hành
nghề luật, trở thành Thẩm phán, Công tố
viên, Luật sư.
Hệ thống nội dung và chương trình đào
tạo các chức danh tư pháp ở Đức tương đối
thống nhất, trong đó giới thiệu cả kỹ năng
nghề nghiệp của Thẩm phán, Luật sư, Công
tố viên dưới sự hướng dẫn và giám sát của
cán bộ tư pháp tại Tòa án, Viện Công tố và
Văn phòng luật; chú trọng đào tạo kỹ năng
thực tế chuyên sâu bởi giảng viên là những
người hoạt động thực tiễn (Thẩm phán,
Công tố viên, Luật sư, Công chứng viên
hoặc công chức cấp cao từ các cơ quan tư
pháp và các cơ quan hành chính Chương
trình đào tạo được chia thành giai đoạn bắt
buộc và một giai đoạn tự chọn.
- Các giai đoạn bắt buộc:
+ Tư pháp: 06 tháng thực tập tại một Tòa
dân sự và 03 tháng thực tập tại một Tòa hình
sự hoặc Viện công tố, trong đó học viên phải
làm quen với mọi hoạt động tố tụng dân sự
hoặc hình sự tại Tòa án từ công việc điều
tra, chuẩn bị bản cáo trạng (hình sự), việc
chuẩn bị và điều khiển phiên tòa (dân sự
hoặc hình sự) và việc chuẩn bị các phán
quyết, bản án.
+ Hành chính: 05 tháng thực tập tại một
cơ quan hành chính cấp huyện hoặc cũng
có thể là cấp quận có ít nhất một công chức
có bằng Thẩm phán và 02 tháng thực tập
tại cơ quan chính phủ bang, tỉnh, Tòa án
hành chính hoặc Viện công tố bang; trong
đó học viên làm quen với công việc pháp lý
trong cơ quan hành chính, đặc biệt là thủ
tục hành chính, soạn thảo các quyết định,
hành vi hành chính, các thủ tục hành chính
từ giai đoạn khiếu nại hành chính đến
chấm dứt vụ án bằng các phán quyết hoặc
bản án hành chính
+ Văn phòng Luật sư: 04 tháng làm việc
tại một văn phòng Luật sư, không chỉ tham
gia soạn thảo các công văn nghiệp vụ (các
thư từ giao dịch với thân chủ, đối phương,
các cơ quan tư pháp, Tòa án) mà còn có thể
đại diện cho thân chủ thực hiện các thủ tục tố
tụng tố tụng trước Tòa án.
- Giai đoạn tự chọn: 04 tháng thực tập tại
một hay hai cơ quan khác nhau trong các lĩnh
vực có thể lựa chọn gồm: Tư pháp (Tòa án,
nhà giam, Văn phòng công chứng, Văn phòng
Luật sư), hành chính, kinh tế, luật lao động
và xã hội, Luật quốc tế và châu Âu, luật thuế.
Khóa học kết thúc với kỳ thi quốc gia do
cơ quan đặc trách về vấn đề thi cử của Bộ Tư
pháp bang (Vụ thi cử) tổ chức, gồm 02 phần:
Thi viết và thi vấn đáp. Kỳ thi viết gồm 11
bài thi trong 11 ngày liên tiếp (05 bài thi
trong lĩnh vực luật dân sự gồm luật thương
mại và luật công ty, luật lao động, luật tố
tụng; 02 bài thi trong lĩnh vực luật hình sự và
tố tụng hình sự; 04 bài thi với trọng tâm trong
lĩnh vực luật công bao gồm cả luật hình thức,
tố tụng và luật thuế). Học viên thi vấn đáp
trước hội đồng gồm 04 giám khảo, các câu
hỏi được giới hạn trong các lĩnh vực quy định
chung cho cả kỳ thi, mỗi thí sinh sẽ được hỏi
trong thời gian 50 phút từ đó nhận được 04
36
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
điểm thi cho các lĩnh vực luật dân sự, lao
động, hình sự, luật công và lĩnh vực tự chọn
của thí sinh.
1.2. Nhật Bản
Hoạt động đào tạo các chức danh tư
pháp (Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư)
của Nhật Bản đã trải qua nhiều giai đoạn
phát triển với những thay đổi quan trọng.
Hiện nay, cơ quan có nhiệm vụ đào tạo các
chức danh tư pháp là Trường đào tạo và
nghiên cứu tư pháp thuộc Toà án tối cao -
được thành lập năm 1947 với chức năng đào
tạo nghề nghiệp cho những người sẽ được
bổ nhiệm Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư
và bồi dưỡng (đào tạo lại) cho những người
đã được bổ nhiệm Thẩm phán4. Mô hình các
cơ quan đào tạo, bồi dưỡng này giúp cho
việc đào tạo nghề tập trung về một mối
nhằm trang bị kỹ năng nghề nghiệp với mặt
bằng chung ban đầu cho những người sẽ
được bổ nhiệm Thẩm phán, Công tố viên,
Luật sư.
Ứng viên muốn theo học tại Trường Đào
tạo và nghiên cứu tư pháp phải trúng tuyển kỳ
thi tư pháp quốc gia (National Bar
Examination) do Uỷ ban quản lý kỳ thi tư
pháp quốc gia5 tổ chức. Kỳ thi tư pháp quốc
gia là kỳ thi tuyển khó khăn bậc nhất của
Nhật Bản, vì số lượng người trúng tuyển là
rất ít so với số người dự thi. Những năm gần
đây, Nhật Bản đã có nhiều thay đổi trong
hoạt động thi tuyển tư pháp, trong đó có việc
thành lập hệ thống các trường luật (Law
school) nhằm trang bị kiến thức luật pháp và
kiến thức nghề nghiệp cơ sở (thời gian 2-3
năm) cho những người chuẩn bị đăng ký vào
kỳ thi tư pháp quốc gia6.
Chương trình đào tạo chung Thẩm phán,
Công tố viên và Luật sư ở Trường Đào tạo
và nghiên cứu tư pháp nhằm trang bị cho
khoá sinh nền kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp chung, hạn chế được những bất đồng
quan điểm không cần thiết khi các chức danh
này tham gia vào cùng một vụ việc. Chương
trình đào kéo dài 18 tháng, phân thành 03
giai đoạn:
(i) Giai đoạn 1: Học tập trung tại Trường
đào tạo và nghiên cứu tư pháp kéo dài 03
tháng, trang bị các kỹ năng nghề nghiệp
Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư với các
môn học cơ bản gồm: Xét xử dân sự, xét xử
hình sự, công tố, biện hộ dân sự và biện hộ
hình sự.
(ii) Giai đoạn 2: Đào tạo nghề thực tế
kéo dài 12 tháng, là nội dung trọng tâm
trong chương trình đào tạo, thực tập tại Toà
án, Viện Công tố, Văn phòng Luật sư ở các
địa phương (tương đương đơn vị hành chính
tỉnh của Việt Nam) do Toà án tối cao, Viện
kiểm sát tối cao và Hội liên hiệp Luật sư
Nhật Bản là các cơ quan trực tiếp tổ chức
thực hiện. Có 03 giai đoạn nhỏ: i) 06 tháng
4 Ở Nhật Bản, hoạt động bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho Công tố viên (đã được bổ nhiệm) được thực hiện
bởi một trường riêng của Bộ Tư pháp Nhật Bản, hoạt động bồi dưỡng cho Luật sư đang hành nghề do Hiệp hội Luật
sư tiến hành.
5 Uỷ ban này gồm các thành viên là đại diện của Toà án tối cao, Bộ Tư pháp và Hội liên hiệp Luật sư Nhật Bản.
Giúp việc cho Uỷ ban này là một Ban thư ký do Bộ Tư pháp đứng ra thành lập. Các giám khảo là những Thẩm phán,
Công tố viên, Luật sư, do các cơ quan sử dụng cán bộ đề cử. Ngoài ra, tham gia làm giám khảo còn có các giáo sư
luật có uy tín đang làm việc trong những cơ sở đào tạo luật lớn của Nhật Bản.
6 Với hệ thống Law school kiểu Nhật này, Nhật Bản hy vọng sẽ tăng được số lượng luật gia nói chung và số lượng
chức danh tư pháp nói riêng, đồng thời cải thiện một cách đáng kể chất lượng chuyên môn của đội ngũ này. Sau
khi tham gia học tại các law school, thời gian học tại Trường đào tạo tư pháp sẽ rút ngắn xuống còn 01 năm.
37
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
thực tập xét xử dân sự và xét xử hình sự tại
các toà án khu vực (District Courts); ii) 03
tháng thực tập tại Viện kiểm sát khu vực; iii)
03 tháng thực tập tại các văn phòng luật trực
thuộc các Hội luật sư địa phương theo 04
nội dung: Xét xử dân sự, xét xử hình sự,
kiểm sát và biện hộ. Học viên có thể được
giao thực hiện một số công việc của Thẩm
phán, Công tố viên, Luật sư như soạn thảo
một số văn bản tố tụng, tham gia hội đồng
xét xử, viết một số nội dung của phán quyết,
tham gia thu thập, đánh giá chứng cứ, soạn
thảo quyết định truy tố, cáo trạng, tiếp
đương sự, soạn thảo bản biện hộ hay thực
hiện một số hoạt động tư vấn pháp luật.
(iii) Giai đoạn 3: Sau thời gian thực tập,
kéo dài trong 03 tháng cuối cùng của khoá
đào tạo, với các môn: Xét xử dân sự, xét xử
hình sự, công tố, biện hộ dân sự và biện hộ
hình sự, nội dung đào tạo được thiết kế theo
hướng nâng cao và bổ khuyết những kiến
thức mà học viên còn thiếu và chuẩn bị cho
việc thi tốt nghiệp của học viên.
(iv) Thi tốt nghiệp: Kỳ thi tốt nghiệp
được điều hành bởi Hội đồng thi tốt nghiệp
do Toà án tối cao thành lập, tiến hành dưới
02 hình thức: Thi viết và thi vấn đáp, tập
trung vào 05 nội dung: Xét xử hình sự, xét
xử dân sự, công tố, biện hộ dân sự và biện
hộ hình sự. Học viên thi đỗ kỳ thi tốt
nghiệp có thể được lựa chọn để trở thành
Thẩm phán (phụ thẩm), Công tố viên hoặc
Luật sư (với thứ tự ưu tiên trước hết dành
cho Thẩm phán, sau đó là Công tố viên –
thông thường tỷ lệ là 10% thẩm phán, 10%
công tố viên, 80% luật sư). Để trở thành
Thẩm phán hoặc Công tố viên, người tốt
nghiệp khoá đào tạo nghề tư pháp phải nộp
đơn xin việc tại Toà án tối cao (trường hợp
muốn làm Thẩm phán) hoặc Bộ Tư pháp
(trường hợp muốn làm Công tố viên). Để
hành nghề Luật sư, người tốt nghiệp ra
trường phải đăng ký tên vào danh sách của
Hội liên hiệp Luật sư Nhật Bản thông qua
Hội Luật sư địa phương, nơi Luật sư dự
định đặt Văn phòng của mình. Do việc đào
tạo Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư
theo chỉ tiêu chặt chẽ hàng năm và nhu cầu
sử dụng cán bộ tư pháp rất cao mà những
người tốt nghiệp Trường đào tạo và nghiên
cứu tư pháp không gặp khó khăn trong tìm
kiếm việc làm và tạo chỗ đứng của mình
trong xã hội.
1.3. Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, người muốn trở thành thẩm
phán phải vượt qua kỳ thi tư pháp quốc gia
và hoàn thành khóa học 02 năm tại Viện
Nghiên cứu và đào tạo tư pháp (JRTI) để
được cấp giấy phép hành nghề luật tại Hàn
Quốc. Viện Đào tạo các viên chức tòa án
(Training Institute for Court Officials –
TICO) được thành lập năm 1979 là nơi cung
cấp chương trình đào tạo và phát triển thư ký
tòa án, cảnh sát viên và các nhân viên tư pháp
khác. Viện trưởng của TICO thực hiện công
việc theo chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
Về đào tạo nâng cao, Viện Nghiên cứu
và đào tạo tư pháp (JRTI) xây dựng khóa
đào tạo thẩm phán nâng cao từ năm 1978,
với mục đích tăng cường kiến thức pháp
luật chuyên ngành và kỹ năng thực tế cho
các thẩm phán đương nhiệm. Năm 1988,
JRTI tổ chức các khóa đào tạo cho thẩm
phán mới được bổ nhiệm (tập sự). Sau khi
hoàn thành khóa học này, các thẩm phán
tập sự tham gia khóa đào tạo thực tế 02 năm
dưới sự hướng dẫn của các thẩm phán cấp
38
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
cao. Sau khi kết thúc kỳ học này, thẩm phán
tập sự chính thức được bổ nhiệm. Các thẩm
phán mới được bổ nhiệm phải hoàn tất
chương trình kéo dài một tuần với mục tiêu
giúp họ nắm bắt được bí quyết xử lý các vụ
án thực tế tại phòng xử án. Từ năm 1992,
JRTI tổ chức đào tạo định kỳ cho các thẩm
phán ít nhất 05 năm một lần sau khi họ
được bổ nhiệm, gồm 04 khóa đào tạo cho
thẩm phán ở tất cả các cấp nhằm cập nhật
thông tin và các vấn đề pháp luật liên quan.
Ngoài ra, Tòa án tối cao còn tổ chức
chương trình đào tạo ở nước ngoài để giúp
các thẩm phán có thêm kỹ năng làm việc
tiên tiến, kiến thức chuyên môn và động lực
trong công việc. Các chương trình đào tạo
nước ngoài cho thẩm phán được phân loại
như sau: i) đào tạo dài hạn tại một trường
đại học, viện giáo dục hoặc trung tâm
nghiên cứu nước ngoài; ii) đào tạo quốc tế
hóa nhằm gia tăng hiểu biết về các nền văn
hóa khác nhau với môi trường toàn cầu
đồng thời phát triển những ý tưởng và sức
sống mới cho môi trường tư pháp.
Về đào tạo chung Công tố viên, Luật sư,
Thẩm phán, từ năm 1973, Hàn Quốc áp
dụng mô hình của Nhật Bản tại JRTI. Điểm
trọng tâm trong mô hình Nhật Bản – Hàn
Quốc là i) đào tạo rộng rãi sinh viên luật và
cung cấp sinh viên tốt nghiệp đảm trách
nhiều công việc trong doanh nghiệp và chính
phủ; ii) Kỳ thi chuyên ngành tuyển sinh vào
JRTI để đào tạo Công tố viên, Luật sư và
Thẩm phán. Theo truyền thống, trở thành
Thẩm phán và Công tố viên được xem là
danh giá hơn Luật sư. Tuy nhiên, thời gian
gần đây nhiều sinh viên thủ khoa gia nhập
các công ty luật đang có xu hướng phát triển
mạnh tại Hàn Quốc.
Kỳ thi tư pháp và giáo dục nghề luật tại
Hàn Quốc tập trung vào 06 ngành truyền
thống gồm: luật hiến pháp, luật dân sự, luật
thương mại, luật hình sự, luật tố tụng dân sự
và luật tố tụng hình sự. Kỳ thi gồm hai phần:
thi viết và vấn đáp. Chỉ tiêu đầu vào là dưới
100 người trúng tuyển/năm, vừa đủ để đáp
ứng nhu cầu của Bộ Tư pháp và Tòa án. Số
luật sư ở Hàn Quốc tính trên đầu người có lẽ
là ít nhất so với bất kỳ xã hội công nghiệp
nào. Vì số ít luật sư được gia nhập đoàn được
đảm bảo thu nhập cao nên áp lực vượt qua
kỳ thi là rất lớn. Trung bình thí sinh phải thi
bảy lần mới đậu và như vậy họ bước chân
vào nghề khi đã gần hết độ tuổi ba mươi.
Giới hàn lâm luật học Hàn Quốc đã đề
xuất áp dụng cách giáo dục pháp luật của
Hoa Kỳ - các trường luật sau đại học (cao
học) đào tạo sinh viên cho kỳ thi vào đoàn
luật sư được tổ chức ở cấp quốc gia. Giới
thẩm phán – những người kiểm soát JRTI
cũng như Bộ Tư pháp thì phản đối. Đầu thế
kỷ 21, các nhà cải cách đã tiến hành một hệ
thống mới (law schools) khi tháng 6/2003
Bộ Giáo dục chấp thuận các trường luật sau
đại học (được xác nhận trong báo cáo của
Ủy ban Tổng thống về cải cách tư pháp
tháng 10/2004). Trên thực tế, một số sinh
viên Hàn Quốc lấy bằng thạc sỹ luật (LLM)
tại Hoa Kỳ và nếu vượt qua được kỳ thi gia
nhập đoàn luật sư tại một tiểu bang Hoa Kỳ
có thể quay về Seoul làm việc với tư cách
chuyên viên tư vấn pháp luật tại các hãng
luật. Hầu hết các hãng luật hiện nay đều có
một đội ngũ ổn định các chuyên gia tư vấn
được đào tạo ở nước ngoài.
2. Một số bài học kinh nghiệm cho hoạt
động đào tạo chung nguồn Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Luật sư tại Việt Nam
39
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
Nghiên cứu kinh nghiệm đào tạo Thẩm
phán, Công tố viên, Luật sư của một số
nước trên thế giới như trình bày trên đây
cho thấy các quốc gia, dù khác nhau về thể
chế chính trị, chế độ tư pháp, hệ thống các
chức danh tư pháp nhưng hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh tư pháp đều có
một số nét tương đồng. Theo đó, các nước
đều rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ pháp luật nói chung và đào tạo nghề cho
các chức danh tư pháp nói riêng. Việc đào
tạo kỹ năng nghề nghiệp cho Thẩm phán,
Luật sư, Công tố viên có thể được tiến hành
trong cùng một cơ sở hoặc trong các cơ sở
riêng biệt. Một số nước áp dụng chương
trình đào tạo thống nhất cho các chức danh
Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư, một số
nước khác đào tạo Thẩm phán, Công tố
viên, Luật sư riêng biệt nhưng trong chương
trình đào tạo cho từng chức danh có nhiều
nội dung giới thiệu kỹ năng chung của tất
cả các chức danh. Chương trình đào tạo
chung các chức danh tư pháp thường kéo
dài từ 1,5 năm đến 03 năm và được chia
thành nhiều giai đoạn khác nhau; mỗi giai
đoạn đề ra mục đích đào tạo riêng và có
cách thức tổ chức thực hiện riêng. Thông
thường các chương trình đào tạo được thiết
kế gồm 03 giai đoạn: (i) Giai đoạn đào tạo
chung tại cơ sở đào tạo; (ii) Giai đoạn đào
tạo trong thực tế tại Toà án, Viện công tố
hay các Văn phòng Luật sư và (iii) Giai
đoạn đào tạo nâng cao học tập trung tại cơ
sở đào tạo. Trong chương trình đào tạo các
chức danh tư pháp, nội dung đào tạo nghề
thực tế (thực tập nghề nghiệp) rất được coi
trọng. Thời gian dành cho đào tạo nghề
thực tế luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
quỹ thời gian dành cho khoá học. Việc tổ
chức đào tạo nghề thực tế cũng hết sức chu
đáo và chặt chẽ, từ xây dựng chương trình
thực tập, phân bổ học viên về các cơ quan
tiếp nhận đến phân công những người có
nhiều kinh nghiệm hướng dẫn và phối hợp
quản lý học viên trong thời gian thực tập.
Nghiên cứu bước đầu về hoạt động đào
tạo 03 chức danh Thẩm phán, Công tố viên
và Luật sư ở các nước trong bối cảnh cải cách
tư pháp cho thấy còn nhiều quan điểm khác
biệt trong việc thống nhất mô hình đào tạo
chung hay riêng các chức danh này. Ví dụ:
Hàn Quốc đã từng xây dựng cơ chế đào tạo
chung như Nhật Bản, song thời gian gần đây
nước này đã và đang xem xét việc giảm thiểu
và thay đổi, bởi một số yếu tố trong hệ quả
của mô hình đào tạo chung (sự lo ngại đào
tạo chung sẽ tạo ra, duy trì mối quan hệ gần
gũi, gắn bó giữa các học viên và sau khi tốt
nghiệp được bổ nhiệm chức danh tư pháp thì
mối quan hệ đó sẽ chi phối, ảnh hưởng đến
tính khách quan, vô tư của nghề nghiệp khi
họ cùng tham gia hoạt động tố tụng). Nhật
Bản, trong xu hướng cải cách tăng dần sự
tiếp cận của người dân và doanh nghiệp với
nền tư pháp thông qua sự hỗ trợ của luật sư
và Chính phủ phải loại bỏ dần kỳ thi tư pháp
quốc gia (vốn rất ngặt nghèo với tỷ lệ đỗ rất
thấp) để thay thế bằng hệ thống trường luật
(law schools). Như vậy, mô hình đào tạo
chung nghề luật đang đứng trước những
thách thức không nhỏ mặc dù người ta đã
thừa nhận tất cả những ưu điểm của nó trong
việc tạo ra chất lượng của các chức danh tư
pháp đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe
của nghề luật trong bối cảnh hiện nay.
Ở Việt Nam, Học viện Tư pháp đang trong
bước khởi đầu ứng dụng, triển khai mô hình
đào tạo chung ba chức danh Thẩm phán, Kiểm
40
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
sát viên và Luật sư. Chương trình khung,
chương trình chi tiết đào tạo chung nguồn
thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư đã được
chính thức phê duyệt vào cuối năm 2016 và
Học viện đang tiến hành các bước chuẩn bị,
tuyển sinh cho khóa đào tạo chung đầu tiên.
Từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
nêu trên, chúng tôi cho rằng có một số điểm có
thể tham khảo, vận dụng cho mô hình đào tạo
chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sư tại Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, cần khẳng định và ghi nhận
những lợi ích tích cực có thể đạt được từ
chương trình đào tạo chung nguồn thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư. Từ góc độ kinh
nghiệm quốc tế, có thể thấy rằng mặc dù
không phải tất cả các quốc gia đều tiến hành
mô hình đào tạo chung các chức danh tư
pháp (Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư)
nhưng nhiều nước có điều kiện kinh tế - xã
hội tương đồng với Việt Nam đã và đang duy
trì mô hình này với những hiệu quả không
thể phủ nhận. Những xu hướng và lý do hạn
chế hay từ bỏ cơ chế đào tạo chung đều
không phải là chủ đạo và nếu có tái hiện ở
Việt Nam thì chúng ta đều có thể khắc phục,
giải quyết được để không ảnh hưởng đến tính
bền vững của mô hình này. Lấy trường hợp
của Hàn Quốc và Nhật Bản làm ví dụ. Vấn đề
mối quan hệ gần gũi giữa các học viên tham
gia đào tạo chung có thể chi phối, ảnh hưởng
đến tính khách quan, vô tư của nghề nghiệp
sau này hoàn toàn không phải là lý do cơ bản
để từ bỏ mô hình đào tạo chung, bởi chúng ta
có thể đảm bảo tính khách quan, vô tư trong
hoạt động nghề nghiệp bằng các công cụ và
chế tài pháp lý. Tương tự như vậy, vấn đề
tính ngặt nghèo của việc sát hạch “đầu vào”
trong mối liên hệ với điều kiện đảm bảo cho
chương trình đào tạo chung ba chức danh
quan trọng nhất của thiết chế tư pháp có thể
giải quyết được bằng cách cải tiến nội dung
của kỳ thi tư pháp quốc gia sao cho phù hợp
với điều kiện và yêu cầu của hoạt động đào
tạo và bổ nhiệm cán bộ tư pháp ở Việt Nam.
Thứ hai, từ góc độ xây dựng chương
trình đào tạo, cần chú trọng việc xây dựng
chương trình đào tạo linh hoạt, thích ứng với
nhiều đối tượng. Theo đó, chương trình đào
tạo nên chia thành “phần cứng” (bắt buộc
mọi học viên đều phải học) và “phần mềm”
(học viên được tự lựa chọn một số môn học
phù hợp với khả năng, sở thích và lĩnh vực
hoạt động tương lai). Thời gian đào tạo cũng
nên chia thành nhiều giai đoạn khác nhau để
học viên có thể chủ động tích lũy kiến thức
và bố trí thời gian theo học.
Thứ ba, cần tăng cường vai trò của thực
tập nghề nghiệp đối với hoạt động đào tạo
kỹ năng nghề nghiệp. Điều này không chỉ
thể hiện ở tỉ trọng đáng kể về mặt thời gian
trong chương trình đào tạo dành cho thực
tập nghề nghiệp mà còn cần xây dựng đồng
bộ nội dung, chương trình thực tập; giám sát
hoạt động thực tập; đánh giá kết quả thực
tậpmà giải pháp trọng tâm là tăng cường
hiệu quả phối hợp giữa cơ sở đào tạo với cơ
sở tiếp nhận học viên thực tập.
Thứ tư, về phương pháp đào tạo, hoạt
động đào tạo các chức danh tư pháp ở Việt
Nam tuy bước đầu đã chú trọng đến phương
pháp dạy học tích cực, lấy người học làm
trung tâm nhưng thực tế còn nhiều vướng
mắc, bất cập. Để khắc phục tình trạng trên
đối với tất cả các chương trình đào tạo, trong
đó có chương trình đào tạo chung nguồn
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, cần lưu
ý một số vấn đề sau: (Xem tiếp trang 43)
41
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
HỌC VIỆN TƯ PHÁP - MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP TẠO NÊN SỰ KHÁC BIỆT
Nguyễn Thị Thủy1
Tôi vẫn nhớ như in mùa thu năm 2000 - tôinhận lời mời của Học viện Tư pháp giảng
bài cho lớp đào tạo thẩm phán. Thời gian ấy
kinh nghiệm giảng dạy của tôi là 05 năm
giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội.
Một chút lo lắng khi em trợ lý Phòng Đào tạo
gửi cho tôi tập hồ sơ phục vụ cho buổi lên lớp.
Đó là hồ sơ về vụ án hành chính với tình
huống đánh giá điều kiện khởi kiện vụ án
hành chính. Tuy nhiên, khi đọc hồ sơ vụ án
tôi bắt đầu bị cuốn hút bởi các tình tiết, sự
kiện có thật mà tôi chưa từng được đọc khi
giảng cho các em sinh viên chính quy. Tôi đã
dành hai ngày và 3 giờ buổi tối để đọc và
nghiên cứu hồ sơ, đưa ra phương thức giảng
bài cho buổi học ấy. Tâm thế chuẩn bị buổi
lên lớp đầu tiên tại Học viện được chuẩn bị
khá kỹ lưỡng, từ văn bản pháp luật, phương
pháp triển khai, cách đặt vấn đề... ấy vậy mà
tôi vẫn có cảm giác lo lắng...
Rồi buổi học ấy cũng đến, 13giờ chiều
ngày. tôi có mặt tại Học viện Tư pháp, gửi
xe máy lên tầng 3 nhà A và tìm đến lớp học.
Ngó vào lớp tôi đã thấy có một thầy giáo, áo
sơ mi trắng, quần tây, tóc cắt ngắn gọn gàng
đang đứng trên bục giảng. Nhìn xuống lớp
khoảng 40 học viên cả nam lẫn nữ. Bất chợt
tôi nghĩ phải chăng người trên bục giảng là
lớp trưởng hoặc cán bộ đào tạo đang điểm
danh. Tôi đang phân vân thì chính thầy giáo
mời tôi vào lớp. Tôi liền nói: Tôi là giảng
viên được phân công dạy lớp hôm nay. Thầy
cười thật tươi và nói: “Vậy thì chúng ta là
đồng nghiệp rồi. Tôi là thẩm phán của Tòa
án tỉnh NT, giảng viên thực hành kết hợp với
cô giáo giảng lý thuyết buổi học hôm nay”.
Tôi đã vô cùng bất ngờ bởi việc kết hợp song
giảng như vậy. Buổi học đã trôi nhanh với sự
hào hứng của học viên, với việc giảng say
sưa của thầy giáo cũng là thẩm phán, với
những lời tâm huyết của tôi. Hồ sơ giảng dạy
hôm ấy đã được tôi và thầy giáo là thẩm
phán hướng dẫn cho học viên khá tỉ mỉ, tôi
đã học được khá nhiều kiến thức thực tiễn từ
người thầy giáo thẩm phán ấy. Và dĩ nhiên
tôi tin, thầy giáo ấy cũng khá chăm chú với
những thông tin và cách thức chuyển tải của
tôi. Buổi học đầu tiên tôi lên lớp ở Học viện
Tư pháp đã ấn tượng trong tôi và bất giác tôi
mỉm cười: Học viện Tư pháp tạo nên sự khác
biệt bởi chính cách thức triển khai giảng dạy
từ những năm học ấy; đó là cách giảng dạy
và đào tạo khá ấn tượng; kết hợp tốt cả lý
thuyết và thực hành và dĩ nhiên luôn tạo ra
tính hấp dẫn mới mẻ cho học viên.
1 Tiến sỹ, Trưởng Bộ môn Hành chính, Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.
42
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Tôi trở thành giảng viên thỉnh giảng của
Học viện từ ngày đó. Mỗi buổi lên lớp ở Học
viện với mỗi hồ sơ càng khiến tôi đam mê
thích thú với vụ án hành chính, với kỹ năng
của luật sư tham gia giải quyết vụ án hành
chính. Tôi đã yêu quý Học viện Tư pháp như
chính ngôi trường Đại học Luật của tôi. Bởi ở
môi trường ấy tôi ngày càng trưởng thành hơn
trong nghề nghiệp. Tôi được giảng cùng với
khá nhiều thẩm phán, luật sư, ở họ đều có
những phương pháp chuyển tải ấn tượng và
đặc biệt kiến thức thực tiễn từ các thầy cô giáo
song giảng đã cho tôi nhìn nhận trở lại những
kiến thức lý luận của môn học kỹ năng giải
quyết vụ án hành chính. Học viện Tư pháp đã
thu thập nhiều bộ hồ sơ ấn tượng, rất hay và
khá linh hoạt để giảng dạy. Mỗi bộ hồ sơ lại
khiến tôi say mê nghiên cứu, tìm tòi những
phương án tối ưu. Dần dà, tôi đã yêu môn học
kỹ năng giải quyết vụ án hành chính rất nhiều
và lúc nào cũng mong có nhiều cơ hội được
giảng tại Học viện. Có lẽ với cách đào tạo từ
những ngày đầu ấn tượng như vậy nên Học
viện ngày càng có nhiều học viên tham gia từ
những lớp đào tạo thẩm phán, lớp đào tạo luật
sư, lớp đạo tạo chấp hành viên, lớp đào tạo
công chứng viên....cho đến những lớp đào tạo
chuyên đề đều khá thành công và để lại nhiều
kết quả rất tuyệt vời. Tôi, ngày ngày luôn
đồng hành cùng Học viện qua mỗi buổi lên
lớp, qua mỗi buổi tham gia họp chuyên môn
và tham dự các ngày lễ kỷ niệm của Học viện,
cảm nhận Học viện ngày càng phát triển và
ngày càng thành công với nhiệm vụ đào tạo
nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao.
Học viện Tư pháp giờ đã khang trang, đóng
trụ sở tại địa điểm rộng và thoáng đãng. Đội
ngũ giảng viên và cán bộ của Học viện đã phát
triển lên rất nhiều; tôi đã trở thành giảng viên
có tuổi tại Học viện.... vậy mà tôi vẫn có cảm
giác thời gian song hành cùng Học viện mới
chỉ mới bắt đầu. Có lẽ, chừng nào Học viện còn
cần đến những giảng viên như tôi thì hẳn tôi
vẫn đủ đam mê, đủ tình yêu để đến lớp với
những trang án hồ sơ và phương pháp nghiên
cứu hồ sơ đầy sáng tạo và nhiệt huyết.
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Học
viện, chúc Học viện phát triển hơn nữa, chúc
tập thể thày cô giáo, cán bộ của Học viện sức
khỏe, hạnh phúc và thành công!
Một là, tăng cường việc tự học, tự nghiên
cứu của học viên bằng cách giao các nhiệm
vụ cụ thể (viết thu hoạch theo một hồ sơ vụ
án cụ thể, viết tiểu luận ngắn về một chủ đề
nào đó, tập viết các bản án, soạn thảo các văn
bản tố tụng, soạn thảo hợp đồng) để học
viên thực hiện đồng thời có biện pháp kiểm
tra, giám sát nhằm khuyến khích các học viên
tích cực và xử lý các học viên không hoàn
thành nhiệm vụ học tập ở nhà.
Hai là, nâng cao hiệu quả của giờ học
trên lớp bằng cách áp dụng triệt để phương
pháp dạy học tích cực, lấy người học làm
trung tâm, tạo điều kiện cho học viên phát
hiện vấn đề và nêu vấn đề trước lớp, tăng
cường trao đổi giữa giảng viên và học viên.
Ba là, chú trọng việc xây dựng thư viện
nhiều đầu sách, dễ dàng truy cập các thông
tin và tài liệu, phòng đọc rộng rãi và
tiện nghi để thu hút học viên tự làm việc tại
thư viện.
Bốn là, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, nhất là công nghệ thông tin trong
giảng dạy và học tập để thay đổi cách
truyền đạt và tiếp nhận thông tin truyền
thống.
Năm là, giảm bớt số lượng học viên trong
mỗi lớp học để phù hợp với tính chất của lớp
học đào tạo nghề (mỗi lớp không nên vượt quá
25 học viên)./.
ĐÀO TẠO CHUNG NGUỒN THẨM PHÁN, KIỂM SÁT VIÊN ...
(Tiếp theo trang 41)
43
Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_tao_chung_nguon_tham_phan_kiem_sat_vien_va_luat_su_o_mot.pdf