ển đổi phương thức sản xuất và xuất khẩu.
Trong đó với hàng nông sản cần chuyển từ sản xuất
nhỏ, phân tán sang sản xuất tập trung quy mô lớn,
quản lý chất lượng từ nuôi trồng đến vận chuyển,
chế biến, bảo quản, tiêu thụ.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có
giá trị gia tăng cao. Đối với nông sản xuất khẩu,
sẽ chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản
phẩm đã chế biến, từ sản phẩm chế biến đơn giản
sang sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nông sản xuất
khẩu. Công việc cần thực hiện ngay là tăng cường
việc xây dựng nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế và tiêu
chuẩn của các nước ASEAN+3 trên 3 góc độ là
tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. Phổ biến, tư
vấn, đào tạo doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu về
áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các
thị trường nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường vai trò của doanh nghiệp
có vốn FDI trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng xuất khẩu Việt Nam. Theo đó sẽ ưu
tiên và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp FDI tham
gia vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy
sản. Bên cạnh việc tiếp tục chú trọng đến các thị
trường xuất khẩu nông sản truyền thống (trong đó
có các nước ASEAN+3) thì cần phải nâng cao
hiệu quả cũng như đổi mới các phương thức xúc
tiến thương mại, tập trung vào các nông sản có lợi
thế xuất khẩu cao.
Thứ năm, tăng cường xây dựng thương hiệu
quốc gia, thương hiệu sản phẩm xuất khẩu và
thương hiệu doanh nghiệp. Cần có các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng nông
sản xuất khẩu đạt thương hiệu quốc gia và xây
dựng thương hiệu riêng của doanh nghiệp. Ngoài
ra, việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của
doanh nghiệp cũng rất quan trọng nhằm đảm bảo
quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản của Việt Nam trước các đối thủ cạnh tranh tại
các thị trường xuất khẩu.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước Asean+3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
36
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC ASEAN+3
Ngô Thị Mỹ1, Nguyễn Thị Bích Liên2,
Trần Văn Dũng3
Tóm tắt
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa trong đó tập trung vào những nhóm hàng có lợi thế như hàng nông sản
đang là một trong những chiến lược phát triển kinh tế quan trọng của Việt Nam. Những năm qua, quan
hệ thương mại hàng nông sản giữa Việt Nam với các nước ASEAN+3 đang từng bước phát triển và đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận về kim ngạch xuất khẩu cũng như thị phần xuất khẩu. Bằng việc sử
dụng mô hình thị phần không đổi (CMS), bài viết đã tập trung phân tích tác động của 3 yếu tố đến biến
động về kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3 qua các giai đoạn khác
nhau. Trên cơ sở những khó khăn thực tế của hoạt động xuất khẩu nông sản, bài viết đã đề xuất 5 giải
pháp cần thiết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3 trong những
năm tiếp theo.
Từ khóa: Giải pháp, xuất khẩu, nông sản, Việt Nam, ASEAN+3.
PROMOTING VIETNAM'S AGRICULTURAL EXPORTS TO ASEAN+3
Abstract
Promoting commodity exports, focusing on advantageous ones such as agricultural products, is one of
Vietnam's important economic development strategies. Over the past years, agricultural trade between
Vietnam and ASEAN+3 has been gradually developing and achieved remarkable results in terms of export
turnover as well as export market share. Using the constant market share model (CMS), the article focused
on analyzing the impact of three factors on the fluctuation of Vietnam's agricultural export turnover to
ASEAN+3 in different periods. Based on the practical difficulties of exporting agricultural products, the
article proposed 5 necessary solutions to boost Vietnam's agricultural exports to ASEAN+3 in the
following years.
Keywords: Solution, export, agricultural products, Vietnam, ASEAN+3.
JEL classification: Q13.
1. Đặt vấn đề
Thời gian qua, quan hệ thương mại hàng hóa
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực
ASEAN+3 đã có những bước phát triển và đạt
được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Theo số liệu
thống kê từ Tổng cục Hải quan, các nước
ASEAN+3 (bao gồm 10 nước thành viên ASEAN
với 3 nước ở châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và
Hàn Quốc) là đối tác thương mại lớn của Việt
Nam với kim ngạch xuất khẩu (KNXK) nông sản
đạt 18,2 tỷ $ vào năm 2019 [11]. Với những ưu
thế như chi phí logistic thấp, có nhiều nét tương
đồng về văn hóa, thói quen tiêu dùng, nên Việt
Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất
khẩu nông sản lớn tại các nước ASEAN+3. So với
năm 2010, tốc độ tăng trưởng về KNXK nông sản
của Việt Nam sang các nước ASEAN+3 vào năm
2019 đạt 146,95%. Bên cạnh những kết quả đạt
được, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các
nước ASEAN+3 vẫn tồn tại một số khó khăn về
chất lượng nông sản, về khả năng đáp ứng thị hiếu
của người tiêu dùng hay việc tạo dựng thương
hiệu cho nông sản Việt tại các thị trường xuất khẩu
[6]. Trên cơ sở phân tích thực trạng về KNXK, về
tỷ trọng xuất khẩu cũng như thị phần xuất khẩu và
làm rõ các yếu tố tác động đến biến động của
KNXK nông sản, bài viết sẽ đưa ra một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu nông sản
của Việt Nam sang các nước ASEAN+3 trong
những năm tới.
2. Tổng quan tài liệu
Trên thế giới và trong nước đã có nhiều
nghiên cứu liên quan đến xuất khẩu nông sản. Các
nghiên cứu được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau (như phân tích thực trạng xuất khẩu nông sản
hoặc phân tích các yếu tố tác động đến KNXK
nông sản) cũng như được sử dụng bằng nhiều
phương pháp phân tích khác nhau. Với góc độ
nghiên cứu các yếu tố tác động đến KNXK nông
sản, ngoài việc sử dụng mô hình trọng lực
(Gravity model) thì nhiều bài viết đã sử dụng
phương pháp phân tích thị phần không đổi (CMS)
để phân tích. Phương pháp CMS được xuất hiện
đầu tiên bởi Tyszynski (1951) [12] cho rằng cơ
cấu xuất khẩu của một loại hàng hóa nhất định của
một quốc gia ảnh hưởng đến hiệu suất xuất khẩu
toàn cầu của chính quốc gia đó mặc dù có những
thay đổi trong các yếu tố khác. Đến năm 1971,
Rigaux [10] là người đầu tiên ứng dụng phương
pháp này vào phân tích thương mại đối với hàng
nông nghiệp và ở những thập kỷ sau đó nó đã trở
lên phổ biến hơn với các nghiên cứu của Ahmadi-
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
37
Esfahani (1995) [1], Ongsritrakul và Hubbard
(1996) [8], Chen và Duan (2001) [3], Fogarasi
(2008) [5] cho các mặt hàng nông nghiệp ở các
quốc gia khác nhau và thị trường khác nhau. Về
cơ bản các nghiên cứu khi sử dụng mô hình CMS
đều chỉ ra thay đổi thực tế trong xuất khẩu các
hàng hóa cụ thể của một quốc gia phụ thuộc nhiều
vào lượng hàng hóa đó của các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường (khả năng cạnh tranh) và sự phát
triển của các thị trường xuất khẩu. Ở trong nước
nghiên cứu của Ngô Thị Mỹ (2017) [7] đã vận
dụng mô hình CMS để phân tích biến động về
KNXK nông sản ở các thị trường châu Á, châu Âu
và thế giới. Những năm qua, hoạt động xuất khẩu
nông sản của Việt Nam sang thị trường châu Á
nhưng thực chất là tập trung nhiều vào các nước
ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
(ASEAN+3) (chẳng hạn nghiên cứu của Nguyễn
Tiến Dũng (2011)) [4]. Tuy nhiên, các nghiên cứu
về thực trạng xuất khẩu nông sản sang các nước
ASEAN+3 mới dừng lại ở việc vận dụng các
phương pháp phân tích truyền thống hoặc sử dụng
các chỉ tiêu thương mại như lợi thế so sánh (RCA),
mức độ tập trung thương mại (TII), để đánh giá
mà rất hiếm các nghiên cứu có sử dụng mô hình
CMS. Đây sẽ là khoảng trống mà bài báo này sẽ
tập trung để nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu
Bài viết sử dụng các dữ liệu thứ cấp có liên
quan đến hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt
Nam sang các nước ASEAN+3 trong giai đoạn
2010-2018 để phân tích. Nguồn dữ liệu được thu
thập từ các tổ chức có uy tín trên thế giới và trong
nước, cụ thể như sau:
Bảng 01: Nguồn số liệu chính được sử dụng
Loại dữ liệu Nguồn dữ liệu sử dụng
1. Các dữ liệu chuỗi về KNXK từng loại nông sản của các nước
ASEAN+3 (giai đoạn 2010-2018)
World Bank, 2020
2. Dữ liệu chuỗi về KNXK nông sản của thế giới (giai đoạn
2010-2018)
World Bank, 2020
3. Dữ liệu rời rạc về KNXK nông sản của Việt Nam năm 2019 Tổng cục Hải quan, 2020
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Phương pháp phân tích
Để làm rõ thực trạng xuất khẩu nông sản của
Việt Nam trong giai đoạn 2010-2019, ngoài việc
sử dụng các phương pháp phân tích truyền thống
như thống kê mô tả, phương pháp so sánh, bài
viết còn sử dụng mô hình phân tích thị phần không
đổi (CMS) để phân tích. Mô hình CMS được sử
dụng nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến
biến động về KNXK nông sản của Việt Nam tại
các nước ASEAN+3 qua các giai đoạn nghiên cứu
khác nhau. Mô hình CMS có dạng sau:
∑ ∆xi = ∑ xi (∆M/M) + ∑ xi [(∆Mi/ Mi) – (∆M/M)]
+ ∑ xi [(∆xi/xi) - (∆Mi/ Mi)]
(A) (B) (C)
Trong đó:
∆xi: Sự biến động về KNXK nông sản của
Việt Nam sang các nước ASEAN+3 qua 2 kỳ
xi: KNXK nông sản của Việt Nam sang các
nước ASEAN+3
Mi: Kim ngạch nhập khẩu nông sản của các
nước ASEAN+3
M: Tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của
các nước ASEAN+3
Theo đó, trong mô hình sẽ có 3 yếu tố tác
động đến biến động về KNXK nông sản của Việt
Nam sang các nước ASEAN+3 đó là: (A) sự phát
triển của thị trường các nước ASEAN+3 (tác động
cầu); (B) tăng trưởng của tổng giá trị nhập khẩu
nông sản của các nước ASEAN+3 (tác động cấu
trúc) và (C) sự thay đổi về khả năng cạnh tranh
của nông sản Việt Nam trước các đối thủ cạnh
tranh (tác động cạnh tranh). Như vậy, A nhận giá
trị dương khi nhu cầu tiêu dùng nông sản tại các
nước ASEAN+3 tăng và ngược lại; B nhận giá trị
dương khi nông sản xuất khẩu của Việt Nam đáp
ứng được nhiều thị hiếu của người tiêu dùng tại
các nước ASEAN+3 và ngược lại và C nhận giá
trị dương khi khả năng cạnh tranh của nông sản
sản Việt Nam tăng hơn các đối thủ cạnh tranh tại
các nước ASEAN+3 và ngược lại.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Khái quát tình hình xuất khẩu nông sản
của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
KNXK nông sản của Việt Nam sang các
nước ASEAN+3
Giai đoạn 2010-2018, cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ cả trên thế
giới và trong khu vực đã làm cho hoạt động xuất
khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản
nói riêng của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
cũng có những bước tiến đáng kể. Bảng 01 sẽ mô
tả khái quát về tình hình xuất khẩu hàng hóa và
nông sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
giai đoạn 2010-2018.
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
38
Bảng 02: Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam
sang các nước ASEAN+3 giai đoạn 2010-2018
Năm
KNXK sang các nước ASEAN+3
(Tỷ $)
Tăng trưởng về KNXK sang các nước
ASEAN+3 (%)
Hàng hóa Nông sản Hàng hóa Nông sản
2010 28,93 7,37 - -
2011 41,23 10,26 42,52 39,09
2012 48,91 11,20 18,63 9,20
2013 51,99 11,09 6,30 -1,02
2014 55,88 11,46 7,48 3,36
2015 57,78 11,41 3,40 -0,47
2016 65,48 12,61 13,32 10,52
2017 88,67 15,25 35,43 20,95
2018 103,07 16,38 16,24 7,41
Bình quân 60,21 11,89 17,21 7,41
Nguồn: Worldbank [14] và tính toán của tác giả, 2020.
Bảng 01 cho thấy, KNXK hàng hóa và nông
sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3 có xu
hướng tăng dần với tốc độ tăng bình quân lần lượt
là 17,21%/năm và 7,41%/năm trong giai đoạn
2010-2018. Nếu như KNXK hàng hóa đạt giá trị
bình quân là 60,21 tỷ $/năm thì KNXK nông sản
chỉ đạt giá trị bình quân là 11,89 tỷ $/năm (chiếm
khoảng 20% trong tổng KNXK hàng hóa của Việt
Nam sang các nước ASEAN+3). Trên thực tế,
ngoài hàng nông sản thì Việt Nam đang xuất khẩu
đã và đang xuất khẩu vào các nước ASEAN+3
nhiều loại hàng hóa khác như điện thoại, máy vi
tính, các sản phẩm điện tử, hàng dệt may, Tuy
nhiên, với một số lợi thế riêng về điều kiện tự
nhiên, nguồn lao động cũng như những nét tương
đồng về phong tục, văn hóa của người dân chính
là cơ hội tốt để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản vào khu vực thị trường này trong
thời gian tới.
Tỷ trọng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
các nước ASEAN+3 trong tổng KNXK nông sản
Nông sản của Việt Nam đã có mặt ở nhiều
quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới. Các
nước ASEAN+3 cũng đang là thị trường quan
trọng cả trong hiện tại và tương lai đối với xuất
khẩu nông sản của Việt Nam. Bảng 02 sẽ cho thấy
tỷ trọng nông sản xuất khẩu sang các nước
ASEAN+3 trong tổng xuất khẩu nông sản của
Việt Nam giai đoạn 2010-2018.
Bảng 03: Tỷ trọng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
Năm KNXK nông sản của Việt Nam (Tỷ $) Tỷ trọng xuất khẩu nông sản của
ASEAN+3 so với thế giới (%) Thế giới ASEAN+3
2010 16,84 7,37 43,80
2011 22,23 10,26 46,14
2012 23,40 11,20 47,86
2013 23,29 11,09 47,60
2014 25,76 11,46 44,49
2015 24,43 11,41 46,69
2016 26,20 12,61 48,11
2017 30,22 15,25 50,44
2018 30,39 16,38 53,89
TTBQ (%) 7,66 11,89 -
Nguồn: Worldbank [14] và tính toán của tác giả, 2020.
So với tăng trưởng về KNXK nông sản nói
chung của Việt Nam thì tăng trưởng về KNXK
nông vào các nước ASEAN+3 đang cao hơn gần
4% trong giai đoạn 2010-2018. Tỷ trọng xuất
khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước
ASEAN+3 đạt thấp nhất vào năm 2010 (43,80%)
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
39
và cao nhất vào năm 2018 (53,89%). Xét trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế thế giới thì kinh tế
Việt Nam mặc dù đã có sự tăng trưởng khá cao
trong những năm qua song về quy mô nền kinh tế
cũng như chất lượng tăng trưởng vẫn còn rất hạn
chế. Việc cạnh tranh với các đối thủ mạnh gặp
nhiều khó khăn chính là nguyên nhân làm cho
tăng trưởng bình quân về KNXK nông sản nói
chung của Việt Nam chỉ đạt 7,66%/năm. Là một
nước thành viên của ASEAN nói riêng và châu Á
nói chung đã mang lại cho Việt Nam khá nhiều cơ
hội từ các chính sách thương mại trong khu vực,
những nét tương đồng về phong tục tập quán của
người dân, Tuy nhiên, cũng chính từ những đặc
điểm này đã đưa đến cho xuất khẩu nông sản của
Việt Nam không ít khó khăn, thách thức đặc biệt
là vấn đề cạnh tranh khi xuất khẩu. Bên cạnh đó
không thể bỏ qua thực tế sản xuất nông sản trong
nước vẫn còn manh mún, thiếu tập trung, việc đầu
tư khoa học kỹ thuật chưa đồng bộ làm cho chất
lượng nông sản không cao gây ra những ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu nông sản
của cả nước [9]. Với tốc độ tăng trưởng bình quân
đạt 11,89%/năm trong giai đoạn 2010-2018 đã
cho thấy những nỗ lực, cố gắng cao các doanh
nghiệp, của chính phủ Việt Nam trong hoạt động
xuất khẩu nông sản tại thị trường các nước
ASEAN+3.
Về thị phần nông sản xuất khẩu của Việt Nam
so với thế giới tại các nước ASEAN+3
Những năm qua, hàng nông sản Việt Nam
ngày càng khẳng định vị thế của mình ở thị trường
các nước ASEAN+3 thông qua việc nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa mẫu mã cũng như đảm bảo sức
cung ổn định cho các nước nhập khẩu. Bảng 04
cho thấy thị phần xuất khẩu nông sản của Việt
Nam tại các nước ASEAN+3 so với thế giới trong
giai đoạn 2010-2018 như sau:
Bảng 04: Thị phần xuất khẩu nông sản của Việt Nam tại các nước các nước ASEAN+3
Năm
KNXK nông sản sang các nước
ASEAN+3 (Tỷ $)
Thị phần XK nông sản của Việt
Nam tại các nước ASEAN+3 (%)
Thế giới Việt Nam
2010 261,14 7,37 2,82
2011 343,86 10,26 2,98
2012 352,14 11,20 3,18
2013 366,39 11,09 3,03
2014 364,17 11,46 3,15
2015 338,39 11,41 3,37
2016 351,56 12,61 3,59
2017 399,82 15,25 3,81
2018 420,49 16,38 3,89
TTBQ (%) 6,14 11,89 -
Nguồn: Worldbank [14] và tính toán của tác giả, 2020.
Bảng 04 cho thấy thị phần nông sản của Việt
Nam so với thế giới tại các nước ASEAN+3 đang
tăng lên trong giai đoạn 2010-2018. Năm 2010, thị
phần nông sản của Việt Nam tại các nước
ASEAN+3 chiếm 2,82% tương ứng với 7,37 tỷ $
thì tỷ lệ này đã tăng lên 3,89% vào năm 2018 tương
ứng với 16,38 tỷ $. Như vậy, thị phần nông sản của
Việt Nam tại các nước ASEAN+3 đã có sự tăng
đều song hơi chậm trong giai đoạn nghiên cứu. So
sánh tốc độ tăng trưởng bình quân về KNXK nông
sản của thế giới với Việt Nam vào các nước
ASEAN+3 (tăng trưởng bình quân về KNXK nông
sản của thế giới đạt 6,14%; của Việt Nam đạt
11,89%) với cho thấy tốc độ tăng trưởng trong xuất
khẩu mặt hàng này của Việt Nam cao hơn nhiều tốc
độ tăng trưởng của Thế giới. Tuy nhiên, xét về giá
trị thì KNXK nông sản của Việt Nam vào các nước
ASEAN+3 vẫn còn rất khiêm tốn so với những
tiềm năng sẵn có của đất nước [2].
4.2. Phân tích các yếu tố tác động đến KNXK nông
sản của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
Với cách tiếp cận từ mô hình CMS cho thấy
biến động về KNXK nông sản của Việt Nam tại
các nước ASEAN+3 chịu sự tác động của 3 nhóm
yếu tố là tác động cầu, tác động cấu trúc và tác
động cạnh tranh. Hình 01 cho thấy mức độ tác
động cụ thể của từng yếu tố ở từng thời kỳ tại các
nước ASEAN+3.
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
40
Hình 01. Sử dụng mô hình CMS để phân tích các yếu tố tác động đến
KNXK nông sản của Việt Nam tại các nước ASEAN+3
Nguồn: Worldbank và tính toán của tác giả, 2020.
Từ hình 01 cho thấy, biến động về KNXK nông
sản tại các nước ASEAN+3 tăng lên và đạt 3826,3
triệu $ trong giai đoạn 2010 -2012. Các tác động đều
là tích cực đến biến động về KNXK nông sản của
Việt Nam. Trong đó, tác động lớn nhất phải kể đến
chính là nhu cầu tiêu dùng nông sản tại các nước
ASEAN+3 (làm KNXK nông sản của Việt Nam
tăng 2451,6 triệu $), tiếp đến là tác động cạnh tranh
(làm KNXK nông sản của Việt Nam tăng 1050,2
triệu $) và cuối cùng là tác động cấu trúc (làm
KNXK nông sản của Việt Nam tăng 324,4 triệu $).
Với kết quả này cho thấy khả năng cạnh của nông
sản Việt Nam đã được nâng lên và người tiêu dùng
tại các nước ASEAN+3 cũng khá hài lòng về chủng
loại, mẫu mã của nông sản Việt Nam.
Giai đoạn 2013 - 2015 với nhiều sự kiện quốc
tế nổi bật như biến động chung về giá dầu thô trên
thế giới hay những hành động của Trung Quốc
liên quan đến biển đông, đã gây ra những ảnh
hưởng lớn đến hoạt động thương mại mà đặc biệt
là xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Kết quả cho
thấy, biến động về KNXK nông sản của Việt Nam
tại các nước ASEAN+3 chỉ tăng 319,3 triệu $ cho
cả giai đoạn 2012-2015 (bằng 8,3% biến động
tăng KNXK nông sản trong giai đoạn 2010-2012).
Trong khi tác động cấu trúc và tác động cạnh tranh
vẫn là những yếu tố tích cực thì tác động cầu chính
là yếu tố tiêu cực gây ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt
động xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào khu
vực thị trường này. Nhu cầu tiêu dùng nông sản
của Việt Nam bị sụt giảm nghiêm trọng (làm
KNXK nông sản giảm 2158,6 triệu $) là do chính
sách thương mại tại các nước nhập khẩu (đặc biệt
là các hàng rào phi thuế quan) được lập ra ngày
một nhiều hơn. Trong khi chất lượng nông sản hay
những quy định về an toàn vệ sinh thực lại chưa
được các doanh nghiệp quan tâm dẫn đến khá
nhiều sau khi làm thủ tục xuất khẩu đã bị trả lại.
Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua lý do làm cho
cầu tại các nước ASEAN+3 giảm là do sự quan
tâm đầu tư từ phía chính phủ của những nước này
đối với sản xuất nông nghiệp trong nước.
Giai đoạn 2016 - 2018 cho thấy sự khởi sắc
lại của xuất khẩu nông sản Việt Nam tại các nước
ASEAN+3. Biến động về KNXK nông sản tăng
3769,6 triệu $, và sự tăng lên này chủ yếu do tác
động cầu (tăng 3521,7 triệu $) và tác động cạnh
tranh (tăng 985,1 triệu $). Giai đoạn 2016-2018
đánh dấu sự sự tăng trưởng mạnh của 2 mặt hàng
nông sản chủ lực là rau quả và gạo [13]. Nếu như
rau quả xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc và Nhật
Bản thì gạo lại được xuất khẩu mạnh vào 2 nước
là Indonesia và Philippines. Để có được kết quả
trên là do hàng loạt các cơ chế, chính sách hỗ trợ
từ Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn như thông tư số 06/2018/TT-
BNNPTNT ngày 21/6/2018 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn sửa đổi Thông tư số
48/2012/TT-BNNPTNT ngày 26 tháng 9 năm
2012 quy định về chứng nhận sản phẩm thủy sản,
trồng trọt, chăn nuôi được sản xuất, sơ chế phù
hợp với Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp
tốt; và các hoạt động xúc tiến thương mại đối với
hàng nông sản thông qua việc tổ chức các triển
lãm cả trong nước và quốc tế Tuy vậy, cũng
không thể bỏ qua lý do vô cùng quan trọng là nhu
3826.288
2451.632
324.432
1050.225
319.308
-2158.637
1607.429
870.515
3769.642
3521.716
-737.199
985.125
-3000.00
-2000.00
-1000.00
.00
1000.00
2000.00
3000.00
4000.00
5000.00
Tăng
(giảm)
KNXK
nông
sản
Tác
động
cầu
Tác
động
cấu trúc
Tác
động
cạnh
tranh
Tăng
(giảm)
KNXK
nông
sản
Tác
động
cầu
Tác
động
cấu trúc
Tác
động
cạnh
tranh
Tăng
(giảm)
KNXK
nông
sản
Tác
động
cầu
Tác
động
cấu trúc
Tác
động
cạnh
tranh
2010-2012 2013-2015 2016-2018
Giá trị (Triệu $)
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
41
cầu tiêu dùng thực tế tại các nước ASEAN+3 đã
có sự tăng lên rõ rệt trong giai đoạn này. Khác với
2 giai đoạn trước, tác động cấu trúc trong giai
đoạn 2016-2018 nhận giá trị âm (làm biến động
KNXK nông sản giảm 737,2 triệu $) cho thấy
nông sản của Việt Nam có dấu hiệu không phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng tại các nước
ASEAN+3. Đây chính là bài toán đặt ra cho ngành
nông nghiệp nói chung và các doanh nghiệp liên
quan đến xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt
Nam về việc cải tiến mẫu mã, chủng loại sản phẩm
nhằm đáp ứng nhiều hơn nhu cầu của người tiêu
dùng trong thời gian tới.
4.3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản
của Việt Nam sang các nước ASEAN+3
Trước bối cảnh nhu cầu tiêu dùng nông sản
tại các nước ASEAN+3 ngày một tăng đã tạo cơ
hội để nông sản của Việt Nam có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu đóng
góp tỷ trọng ngày càng cao trong tổng KNXK của
cả nước. Tuy nhiên, đứng trước những biến động
thực tế của nền kinh tế toàn cầu như chiến tranh
thương mại, dịch bệnh, sự suy giảm của thị trường
tài chính toàn cầu, sẽ gây ra nhiều khó khăn,
thách thức hơn cho hoạt động xuất khẩu nông sản
của Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng về
xuất khẩu nông sản kết hợp với bối cảnh chung
của nền kinh tế thế giới và trong khu vực, để đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản sang các nước
ASEAN+3 trong thời gian tới Việt Nam cần thực
hiện nay một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tổ chức lại sản xuất thông qua
chuyển đổi phương thức sản xuất và xuất khẩu.
Trong đó với hàng nông sản cần chuyển từ sản xuất
nhỏ, phân tán sang sản xuất tập trung quy mô lớn,
quản lý chất lượng từ nuôi trồng đến vận chuyển,
chế biến, bảo quản, tiêu thụ.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có
giá trị gia tăng cao. Đối với nông sản xuất khẩu,
sẽ chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản
phẩm đã chế biến, từ sản phẩm chế biến đơn giản
sang sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nông sản xuất
khẩu. Công việc cần thực hiện ngay là tăng cường
việc xây dựng nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế và tiêu
chuẩn của các nước ASEAN+3 trên 3 góc độ là
tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. Phổ biến, tư
vấn, đào tạo doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu về
áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các
thị trường nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường vai trò của doanh nghiệp
có vốn FDI trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng xuất khẩu Việt Nam. Theo đó sẽ ưu
tiên và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp FDI tham
gia vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy
sản. Bên cạnh việc tiếp tục chú trọng đến các thị
trường xuất khẩu nông sản truyền thống (trong đó
có các nước ASEAN+3) thì cần phải nâng cao
hiệu quả cũng như đổi mới các phương thức xúc
tiến thương mại, tập trung vào các nông sản có lợi
thế xuất khẩu cao.
Thứ năm, tăng cường xây dựng thương hiệu
quốc gia, thương hiệu sản phẩm xuất khẩu và
thương hiệu doanh nghiệp. Cần có các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng nông
sản xuất khẩu đạt thương hiệu quốc gia và xây
dựng thương hiệu riêng của doanh nghiệp. Ngoài
ra, việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của
doanh nghiệp cũng rất quan trọng nhằm đảm bảo
quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản của Việt Nam trước các đối thủ cạnh tranh tại
các thị trường xuất khẩu.
5. Kết luận
Hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam
sang các nước ASEAN+3 đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận như KNXK nông sản không
ngừng tăng lên trong giai đoạn 2000-2018, và thị
phần của nông sản Việt Nam so với thế giới cũng
có xu hướng tăng dần tại các nước ASEAN+3.
Việc sử dụng mô hình CMS để phân tích cho thấy
xu hướng biến động của các yếu tố (tác động cầu,
tác động cấu trúc và tác động cạnh tranh) là không
giống nhau qua các giai đoạn nghiên cứu. Về cơ
bản, biến động về KNXK nông sản của Việt Nam
phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu tiêu dùng tại các
nước ASEAN+3. Tuy nhiên, do thị hiếu của người
tiêu dùng ngày một tăng nên vấn đề cần quan tâm
trong thời gian tới với nông sản Việt Nam là
không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu
mã sản phẩm, xây dựng được thương hiệu vững
chắc cho hàng nông sản Việt trước các đối thủ
cạnh tranh.
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ahmadi-Esfahani. (1995). Wheat Market Shares in the Presence of Japanese Import Quotas. Journal
of Policy Modeling 17 (3), 315-323.
[2]. Xuân Anh. (2019). Nâng cao giá trị nông sản, website: https://bnews.vn/nang-cao-gia-tri-nong-san-
bai-1-chua-tuong-xung-tiem-nang/143009.html, truy cập ngày 26/02/2020
[3]. Chen and Duan. (2001). Competitiveness of Canadian Agri-Food Exports against Competitors in
Asia: 1980–97. Journal of International Food and Agribusiness Marketing 11 (4), 1-19.
[4]. Nguyễn Tiến Dũng. (2011). Tác động của khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc đến thương
mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ - ĐH quốc gia Hà Nội, tr. 219-231.
[5]. Fogarasi. (2008). Hungarian and Romanian Agri-Food Trade in the European Union. Management 3
(1), pp 3-13.
[6]. Hồng Hạnh. (2019). Cơ hội và thách thức cho nông sản Việt, website:
https://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cptpp-co-hoi-va-thach-thuc-cho-nong-san-viet-
15825-402.html, truy cập ngày 22/03/2020.
[7]. Ngô Thị Mỹ. (2017). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu một số nông sản của Việt
Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Thái Nguyên.
[8]. Ongsritrakul and Hubbard. (1996). The Export Market for Thai Frozen Shrimps in the European
Union. British Food Journal 98 (8), 24-28.
[9]. Minh Phương. (2016). Sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ là thua, website:
truy cập ngày
20/2/2020.
[10]. Rigaux. (1971). Market Share Analysis Applied to Canadian Wheat Exports. Canadian Journal of
Agricultural Economics/ Revue canadienne d’agroeconomie 19 (1), 22-34.
org/10.1111/j.1744-7976.1971.tb01133.x.
[11]. Tổng cục Hải quan, website: ngày truy cập:
8/3/2020.
[12]. Tyszynski. (1951). World trade in manufactured commodities, 1899-1950. The Manchester School
of Economic and Social Studies 19(3), 272–304.
[13]. VITIC. (2019). Xuất khẩu nông sản, trái cây Việt Nam: Cơ hội từ các thị trường mới,
website:
moi-723520.html, ngày truy cập:16/3/2020
[14]. World Bank. (2020). World Bank Integrated Trade Solution (WITS), website:
WITS/, ngày truy cập: 20/2/2020.
Thông tin tác giả:
1. Ngô Thị Mỹ
- - Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD Thái Nguyên
- Địa chỉ email: ntmy@tueba.edu.vn
2. Nguyễn Thị Bích Liên
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
3. Trần Văn Dũng
- - Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD Thái Nguyên
Ngày nhận bài: 14/04/2020
Ngày nhận bản sửa: 29/6/2020
Ngày duyệt đăng: 30/06/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- day_manh_xuat_khau_nong_san_cua_viet_nam_sang_cac_nuoc_asean.pdf