MỤC LỤC
Phần 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Lý luận về đầu tư phát triển 1
II . Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 4
III. Hoạt động đàu tư với phát triển nông nghiệp 11
Phần 2: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. Chính sách đầu tư phát triển nông nghiểp 16
trong thời gian qua
II. Tổng quan tình hình đầu tư cho nông nghiệp nôngthôn Việt Nam giai đoạn 1991-2000 .18
III. Cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp nông thôn Việt Nam 18
IV. Đánh giá toàn diện về tình hình đầu tưcho nông nghiệp nông thôn Việt Nam 28
Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐT PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Đánh giá năng lực phát triển nông nghiệp ở việt nam 32
II. Mục tiêu và địng hướng phát triển nông nghiệp 34
III. Một số giải pháp về đầu tư phát triển nông nghiệp 38
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
MỤC LỤC 50
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Định hướng chiến lược và một số giải pháp đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiếu so với nhu cầu, mà còn "thiếu" so với mức đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu giá trị sản xuất toàn xã hội, theo nguyên tắc trao đổi ngang giá thì "tỷ trọng đầu tư vốn cho mỗi ngành phải tương đương với tỷ trọng GDP do ngành đó tạo ra". Nhu cầu là rất lớn trong khi các nguồn đều eo hẹp, bên cạnh đó các chính sách thu hút nguồn vốn còn kém đồng bộ, nhiều chồng chéo. Tính hấp dẫn thấp, thiếu năng động, kém hiệu quả. Vốn đầu tư thấp đã không đủ sức làm chuyển dịch nhanh chóng Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, tạo sự đột biến cho sự phát triển.
Thứ hai, Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế, vùng kinh tế trong nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm chạp, thiếu năng động; hơn nữa, còn chưa thực sự phát huy được lợi thế của các ngành, vùng và của cả nền kinh tế nông nghiệp nông thôn. Việc chuyển dịch còn rất cục bộ, manh mún, tính chiến lược thấp.
Thứ ba, Cơ cấu đầu tư còn dàn trải, chưa thực sự tập trung cho một số lĩnh vực cần thiết như cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế biến... gây lãng phí lớn, tính hiệu quả thấp. Đặc biệt, vốn đầu tư XDCB của Nhà nước có tỷ lệ lãng phí trung bình 15 - 20%, cá biệt có những công trình đến 30%.
Như vậy, nhìn chung trong thời gian qua, với sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung và chuyển dịch Cơ cấu đầu tư trong khu vực này nói riêng đã thu được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận và có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại, mà việc giải quyết được nó không phải chỉ ngày một, ngày hai, hơn nữa còn đòi hỏi sự quyết tâm của mọi thành phần, đối tượng trong khu vực nông nghiệp nông thôn cả nước. Vì vậy, trong thời gian tới Đảng, Nhà nước ta cần có nhiều chiến lược, chính sách hơn nữa để khuyến khích đầu tư và chuyển dịch Cơ cấu đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, theo hướn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
PHẦN 3
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO ĐT PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Tiêm năng phát triển
Nông nghiệp Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển trong thời gian tới. Điều này thể hiện rõ nét trong các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội của nước ta như đất đai, khí hậu, địa hình, dân số và lao động...
Tài nguyên thiên nhiên: đất đai, mặt nước, khí hậu, cây trồng, vật nuôi còn nhiều tiềm năng to lớn chưa được khai thác cả về chiều rộng cũng như chiều sâu... Đó chính là những nhân tố còn tiềm ẩn, cho phép chúng ta với tác động mạnh mẽ của khoa học công nghệ và khoa học quản lý có thể nâng cao trình độ tăng trưởng và mức độ phát triển nông nghiệp lên tầm cao mới.
Về chiều rộng, chúng ta còn nhiều tiềm năng mở rộng và trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đa dạng hoá sản phẩm, phát triển nông nghiệp toàn diện, khai thác, tận dụng mọi điều kiện khí hậu và địa hình để tăng tổng sản phẩm nông nghiệp.
Về chiều sâu, chúng ta còn nhiều tiềm năng để tăng vụ, năng năng suất cây trồng vật nuôi, tăng năng suất sinh học, nâng cao chất lượng sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ suất nông sản hàng hoá.
Với vị trí địa lý kinh tế tương đối thuận lợi, đường lối ngoại giao độc lập tự chủ của Đảng, mối quan hệ của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới về nhiều mặt, trước hết là về kinh tế, thương mại, ngày càng mở rộng, tạo khả năng hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo điều kiện tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ mới, các kinh nghiệm, kiến thức quản lý, kinh doanh nông nghiệp để đưa nông nghiệp nước ta tiến nhanh hơn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tiềm năng lao động trong nông nghiệp và nông thôn dồi dào, có trình độ nhận thức cao, chịu khó học hỏi, khả năng tiếp thu công nghệ mới tiên tiến nhanh, tiền công tương đối rẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phát triển nông nghiệp Việt Nam thời gian qua có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ổn định kinh tế, tạo dựng lòng tin đối với các nhà đầu tư, với tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định trong thời gian dài (từ năm 1988 đến năm 2001, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 4,3%) là tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là sản xuất lương thực, từ chỗ là nước hàng năm phải nhập khẩu lượng lớn lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới và ngày càng có nhiều hàng hoá xuất khẩu khác. An ninh lương thực từng bước được bảo đảm, trên cơ sở đó tạo ra khả năng phân bố lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Một số vùng sản xuất tập trung chuyên canh sản xuất nông sản hàng hoá và xuất khẩu theo lợi thế, tiềm năng từng vùng, từng địa phương (như cao su, cà phê, chè, cây ăn quả...) đã được hình thành. Hàng năm, nông nghiệp đóng góp tới trên 30% giá trị xuất khẩu toàn ngành kinh tế quốc dân và đóng góp vào GDP trên 23%.
Đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là cư dân nông thôn làm nông nghiệp ngày càng được nâng cao, thu nhập ngày càng tăng tiềm ẩn một thị trường tiều thụ sản phẩm nông nghiệp rộng lớn.
Đảng và nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là những công trình nằm trong mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các vùng khó khăn như chính sách đất đai, chính sách ưu đãi hợp lý về tín dụng, về thuế...
2. Thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
Bên cạnh những tiềm năng to lớn, vấn đề phát triển nông nghiệp còn nhiều khó khăn mà việc khắc phục đòi hỏi đầu tư không ít thời gian, công sức và tiền vốn.
Chúng ta hiện có gần 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 60% lao động xã hội là sản xuất nông nghiệp trong khi đó diện tích đất canh tác bình quân ngày càng thu hẹp, có nơi chỉ còn 100m2 cho một nhân khẩu. Khả năng mở rộng diện tích tương đối lớn nhưng đòi hỏi phải có sự đầu tư và thời gian dài. Dân số đông và diện tích đất canh tác lại manh mún, phân tán nên việc đưa máy móc vào sản xuất rất khó khăn. Đến nay sản xuất nông nghiệp phần lớn vẫn là lao động thủ công.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế vùng nông thôn chuyển biến còn chậm, hiệu quả sản xuất thấp, 75% dân số sống ở nông thôn chỉ là ra được 23% GDP. Do đó khả năng tự tích tụ vốn cho đầu tư phát triển của khu vực nông thôn còn hạn chế.
Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới, khí hậu có nhiều thuận lợi nhưng cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai như mưa lớn, bão, lũ lụt, hạn hán... Thêm nữa, khí hậu thế giới cũng tác động tiêu cực đến nông nghiệp như hiện tượng Elnino... Đây sẽ là những khó khăn rất lớn làm hạn chế khả năng phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn yếu kém. Hệ thống các công trình thuỷ lợi thời gian qua tuy có được quan tâm đầu tư xây dựng nhưng chưa đồng bộ và hiện nay nhiều hạng mục công trình đang xuống cấp, hiệu quả khai thác thấp. Mạng lưới giao thông nông thôn còn kém phát triển ảnh hưởng đến lưu thông vật tư, nông sản hàng hoá ở nông thông. Cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp tuy gần đây có tăng cường (mạng lưới điện, máy móc cơ khí, kho tàng cơ sở chế biến, bảo quản...) nhưng còn ở mức thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thị trường nông nghiệp và nông thôn đang hình thành nhưng còn phát triển chậm, chưa hoàn chỉnh cả về đầu vào và đầu ra. Sức mua của nông dân chưa lớn, chưa trở thành động lực để thu hút đầu tư vào nông nghiệp.
Tiếp cận và đi đến hoà nhập vào thị trường nông sản và khu vực và thế giới trong xu thế quốc tế hoá thương mại là một thách thức lớn đối với nông nghiệp nước ta trong thời gian tới. Khó khăn với chúng ta là mới bắt đầu đi lên sản xuất nông sản hàng hoá, chủng loại nông sản xuất khẩu của ta tuy đa dạng nhưng chất lượng chưa cao, khối lượng chưa nhiều, giá thành nhiều khi còn cao, nhiều mặt hàng chưa xâm nhập được vào thị trường quốc tế, chưa tạo ra ưu thế cạnh tranh với những nông sản xuất khẩu cùng chủng loại của các nước láng giềng trong khu vực.
Tóm lại, trong thời gian tới, khu vực nông nghiệp Việt Nam có nhiều tiềm năng đề phát triển nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức.
MỤC TIÊU VÀ ĐỊNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1. Mục tiêu
Từ những thành tựu nổi bật trong giai đoạn vừa qua cũng như căn cứ vào thực lực và tiềm năng phát triển của nông nghiệp, Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu đến năm 2010 cho nông nghiệp Việt Nam là: Đạt được tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân hàng năm 4,0 - 4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16 - 17%; tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ sản đạt sản lượng 3,0 - 3,5 triệu tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng). Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thuỷ sản đạt khoảng 9 - 10 USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD.
Bảng 22: Một số chỉ tiêu phát triển nông nghiệp đến 2010
Chỉ tiêu
2000
2005
2010
1. Tốc độ tăng trưởng GDP trong nông - lâm - thuỷ sản (%)
4,1
4 - 4,5
4,5
2. Cơ cấu GDP toàn bộ nền kinh tế (%)
- Nông nghiệp
68
60
45
- Công nghiệp và xây dựng
15
20
30
- Dịch vụ
17
20
25
3. Cơ cấu nông nghiệp (%)
- Nông nghiệp
80,7
70
50
- Lâm nghiệp
4,2
5
10
- Thuỷ sản
15,1
25
40
4. Thu nhập bình quân (triệu đồng/năm/ha)
17
30
50
5.Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp (%)
68
65
50
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
2. Định hướng phát triển nông nghiệp
- Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn.
Đẩy nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng suất lao động nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước.
Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn hoá ở làng xã; nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần, xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng văn minh ở nông thôn.
- Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cấp chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hoá và ngô làm thức ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cà phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu, dừa, dầu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá..., hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến.
Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi nông nghiệp.
Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi, trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ; ổn định khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông, nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để định canh, định cư, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt, phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm rừng.
- Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể cả cây công nghiệp, nuôi, trồng thuỷ sản) và đời sống nông dân. Đối với những khu vực thường bị bão, lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại.
- Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da - giầy...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành, nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn
3. Quan điểm phát triển
Để thực hiện tốt chủ trương tập trung cao độ cho lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn làm nền tảng ổn định kinh tế - xã hội, đầu tư vào nông nghiệp dựa trên các quan điểm:
Tập trung ưu tiên vốn và mọi nguồn nhân lực nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, ngành nghề; gắn sản xuất với thị trường hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường địa bàn nông thôn cả nước.
Tập trung vốn cho ngành mũi nhọn để thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn (như thuỷ lợi, công nghệ sinh học hiện đại về giống, bảo đảm cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt; công nghệ chế biến nông sản, hải sản; công nghệ sau thu hoạch), phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển vùng nguyên liệu và công suất các nhà máy chế biến, tránh sự chồng chéo lãng phí; đồng thời đẩy mạnh công tác xuất khẩu nông sản.
Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như đường giao thông, điện, thủy lợi, trường học... chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình giải quyết việc làm, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, chương trình định canh, định cư, chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Sử dụng nguồn vốn của các chương trình có hiệu quả cao nhất, thúc đẩy nhanh năng lực sản xuất nông, lâm , ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.
Tăng cường quản lý nhà nước về các nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp; phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng; khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Ưu tiên, tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, trước hết phải chú trọng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp để đạt được các mục tiêu cơ bản như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản, nhất là hàng hoá đã qua chế biến; tăng kim ngạch xuất khẩu; tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn; xoá hộ đói, giảm tỷ lệ nghèo; phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn. Bảo vệ môi trường sinh thái, có chính sách huy động nhân dân tích cực khoanh nuôi, tái sinh bảo vệ rừng, đưa tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43% vào năm 2010. Nâng cao hiệu quả và năng lực đánh bắt, đồng thời đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Từ những hạn chế, yếu kém trong hoạt động đầu tư phát triển ngành nông nghiệp và căn cứ vào phương hướng phát triển chung của ngành trong thời gian tới có thể đưa ra ba nhóm giải pháp chính sau:
1. Giải pháp về huy động vốn
Đánh giá đúng vai trò và vị trí của nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ đó chuyển mạnh và tăng cường đầu tư cho nông nghiệp lúc này là rất cần thiết. Không chỉ nước ta mà các nước trong khu vực hiện nay cũng đã và đang làm như vậy.
Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn là một trong hai ngành sản xuất vật chất chính, đóng góp trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm và thu hút trên 60% lao động. Phát triển nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng, quyết định với sự phát triển kinh tế đất nước. Bởi vậy tăng cường đầu tư cho nông nghiệp tương ứng với vai trò, vị trí của nó trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng đầu. Từ hệ số ICOR và kinh nghiệm của các nước quanh ta cho thấy, muốn duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp từ 5 - 6%/năm thì tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong tổng vốn tư hàng năm phải từ 20 - 25%. So với tỷ lệ 15% hiện nay thì con số trên là rất lớn. Do đó, cần xây dựng chính sách huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng hợp nguồn lực, gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn trong nước là quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài là quan trọng, cụ thể:
1.1. Tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp:
Nhiệm vụ quan trọng trước mắt của nông nghiệp là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà quá trình này đòi hỏi rất nhiều vốn mà bản thân nông nghiệp còn nghèo, tự nó không thể giải quyết được. Vì vậy, vai trò của nhà nước trong chính sách đầu tư cho nông nghiệp có tính quyết định. Từ năm 1999, nhà nước đã tăng 50% vốn đầu tư cho nông nghiệp, đó là bước tiến rất có ý nghĩa và đúng đắn. Song so với yêu cầu tăng trưởng kinh tế và vị trí của ngành trong nền kinh tế, đầu tư cho nông nghiệp vẫn chưa thoả đáng. Vì vậy để nhà nước cần thay đổi một cách cơ bản chính sách đầu tư, trong đó tăng tỷ trọng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách cho nông nghiệp lên trên 20% tương ứng với tỷ lệ nông nghiệp trong GDP.
1.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nông nghiệp
Thông qua các kênh huy động vốn khác nhau như: tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu kho bạc Nhà nước, công trái, kỳ phiếu ngân hàng ghi thu bằng đồng nội tệ, ngoại tệ, vàng...với các loại thời gian huy động khác nhau. Theo thống kê lượng vốn nhàn rỗi trong dân thường tồn tại dưới các dạng sau:
-Tổng số 100%
- Mua vàng và ngoại tệ để dành 44%
- Mua nhà đất và cải thiện
đời sống sinh hoạt 20%
- Gửi tiết kiệm (chủ yếu ngắn hạn) 17%
- Đầu tư 19%
Như vậy, mức huy động vốn nhàn rỗi trong dân mới chỉ đạt ở mức 36% (17%+19%) trong tổng lượng vốn hiện có. Để thu hút tối đa nguồn vốn trong dân cư vào các kênh huy động nói trên, Nhà nước cần có các chính sách như bảo hiểm tiền gửi, ưu đãi đối với các dự án đầu tư dài hạn vào sản xuất nông nghiệp, ổn định tiền tệ và thiết lập một hệ thống luật pháp đầy đủ.
+ Ưu tiên phát triển các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn nhằm phục vụ cho các mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp dịch vụ và dịch vụ ngành nghề trong nông nghiệp nông thôn của vùng.
+ Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Đây là giải pháp thu hút vốn khá mạnh, vì vậy nhà nước cần tích cực hỗ trợ các ngân hàng và tổ chức tín dụng để thực hiện giải pháp này.
+ Có cơ chế hợp lý để huy động vốn thông qua các đại lý và quỹ tín dụng ở nông thôn.
Thực tế cho thấy, mặc dù các khoản tiền, vàng, tiết kiệm trong dân thường nhỏ, nhưng tổng lượng vốn này lại rất lớn do đó chính sách thu hút tiền gửi phải rất linh hoạt, đảm bảo được niềm tin, sự thuận lợi và lợi ích cho nông dân. Ngoài ra cũng cần có cơ chế để các tổ chức tín dụng ở các lĩnh vực khác có thể sử dụng hình thức tín dụng chiết khấu của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nông thôn để tái đầu tư vào nông nghiệp nông thôn.
1.3. Có chủ trương thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp để bổ sung cho nguồn vốn trong nước
- Về nguồn vốn FDI: Hiện tại, tỷ lệ số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp còn quá thấp và có xu hướng giảm liên tục từ năm 1995 đến nay. Một câu hỏi đặt ra là vì sao thị trường đầu tư ngành nông nghiệp Việt Nam rộng lớn và nhiều tiềm năng mà việc thu hút FDI lại khó khăn. Ai cũng biết đầu tư vào nông nghiệp gặp nhiểu rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng nhiều về thời tiết, giá nông sản trên thị trường rất biến động. Trong khu vực Châu Á, xuất hiện nhiều thị trường đầu tư hấp dẫn cạnh tranh với chúng ta như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia đã làm giảm lượng vốn đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác một số nhà đầu tư nước ngoài chưa nghiên cứu kỹ thị trường Việt Nam nên khi đầu tư có những phương án chưa khả thi, dễ thất bại đã gây tâm lý ngần ngại cho các nhà đầu tư khác muốn đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, đó chỉ là những nguyên nhân khách quan còn nguyên nhân chủ quan là hệ thống chính sách đối với FDI còn nhiều bất cập. Mối quan hệ giữa Bộ kế hoạch đầu tư với các Bộ, ngành trong việc quản lý nhà nước đối với dự án FDI chưa rõ, chưa phát huy cao sự quản lý của các cán bộ chuyên ngành. Tỷ lệ góp vốn của đối tác Việt Nam thường thấp, chủ yếu góp bằng giá trị sử dụng đất, nhà xưởng, thiết bị sẵn có và khi định giá tài sản vốn góp thường nâng cao giá trị thực, phía đối tác cũng nâng giá thiết bị, gây khó khăn cho hoạt động của liên doanh. Hệ thống cơ sở vật chất yếu kém cũng là rào cản cho việc đầu tư nước ngoài (hiện Việt Nam còn 4 tỉnh thuộc miền núi phía Bắc chưa có dự án nước ngoài là Tuyên Quang, Lai Châu, Lào Cai và Bắc Cạn). Từ thực tế trên, để thu hút nhiều hơn đầu tư FDI thì ngành nông nghiệp trước hết phải xem xét đánh giá lại các dự án vào nông nghiệp, phát hiện những vướng mắc, hạn chế để có biện pháp giải quyết. Nhanh chóng xóa bỏ những rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài, củng cố lại hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách chuyển đổi ngoại tệ, điều chỉnh giá thuê đất, giá thuê lao động. Cải tiến các thủ tục hành chính nhằm giảm bớt sự chồng chéo chức năng, sự phiền phức và tệ quan liêu của bộ máy quản lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhất là bộ máy chính quyền cơ sở nơi triển khai dự án đầu tư.
Các dự án đầu tư nước ngoài đã ít lại không phục vụ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu. Vì vậy, ngành nông nghiệp cần nhanh chóng xây dựng chiến lược lâu dài, xác định các lĩnh vực cụ thể từ đó lập danh mục khuyến khích đầu tư. Hoạt động này vừa đem lại lợi ích cao hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, vừa đảm bảo đúng mục tiêu đề ra của phía Việt Nam.
- Với nguồn vốn ODA: ODA hiện nay là nguồn vốn quan trọng đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam, chiếm khoảng 15% tổng vốn ODA cả nước tuy nhiên tốc độ giải ngân còn chậm, quy mô các dự án còn nhỏ, cơ cấu thu hút còn bất hợp lý giữa các vùng. Bởi vậy, trong thời gian tới để tăng cường thu hút ODA vào nông nghiệp cân thực hiện những biện pháp sau:
+ Nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch thu hút ODA, xác định thứ tự ưu tiên phân bổ ODA theo từng ngành và từng địa phương.
+ Hoàn thiện các quy định về quy trình và thủ tục tiếp nhận vốn. Đơn giản hoá các quy trình ra quyết định và có quy chế cụ thể với từng nhà tài trợ. Mỗi nhà tài trợ đều quan tâm đến một lĩnh vực riêng khi đến Việt Nam (chẳng hạn như Pháp thì quan tâm đến nông nghiệp). Bởi vậy Việt Nam nên có danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với sự quan tâm của từng nhà tài trợ. Có như vậy, việc thu hút vốn sẽ dễ dàng hơn.
+ Ưu tiên và phân bổ vốn đối ứng cho các dự án, đề ra các biện pháp chống tham nhũng để một mặt đảm bảo chất lượng công trình, mặt khác giữ được uy tín với các đối tác cấp ODA nước ngoài.
+ Có các biện pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu, chuẩn bị dự án, thẩm định và xét duyệt dự án, hướng dẫn đấu thầu và xét duyệt nhà thầu; đẩy nhanh và thực hiện các biện pháp hữu hiệu để giải phóng mặt bằng kịp tiến độ dự án.
1.4. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tài chính tín dụng để nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư
Hiện nay, thiếu vốn là vấn đề rất nan giải trong sản xuất nông nghiệp vì thu nhập của người nông dân còn thấp, khả năng tích luỹ chưa nhiều. Bởi vậy, làm thế nào để nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư là nhiệm vụ cấp bách.Vốn cho nông nghiệp được hình thành từ nhiều kênh nhưng hiện nay vốn tín dụng đang khẳng định là nguồn chủ yếu cho nông dân hiện nay. Vì vậy, nhà nước nên tăng cường các giải pháp tài chính, tín dụng đi sâu nghiên cứu tháo gỡ những vướng mắc hiện tại nhằm tăng cường nguồn vốn cho nông nghiệp.
+ Tín dụng ngân hàng:
Để nông dân có thể vay được vốn của Ngân hàng, các quy chế và thủ tục vay vốn của Ngân hàng cần tiếp tục được cải thiện. Cụ thể là:
Về mức vay: Xây dựng định mức vốn cho vay thích hợp với nhu cầu vay của người nông dân căn cứ theo loại hình sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư (mở rộng sản xuất kinh doanh hay đầu tư chiều sâu cho công nghệ, máy móc thiết bị).
Về lãi suất vay: Lãi suất vay của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT đối với vùng nông thôn hiện nay là 1%. Theo ý kiến của đại diện phía Ngân hàng thì lãi suất này đã ở mức lãi suất sàn, không thể hạ thấp được nữa. So với lãi suất 2,5% năm 1995 thì đây là một cố gắng rất lớn của Ngân hàng và so với lãi suất vay ngoài từ 5 - 10% thì lãi suất mới của Ngân hàng với việc đơn giản hoá thủ tục thực sự sẽ có sức hấp dẫn hơn nhiều. Tuy nhiên lãi suất này vẫn là cao với các hộ nông dân làm ăn nhỏ, mới bắt tay vào khai hoang, lập nghiệp, các hộ nông dân ở vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng không thuận lợi. Vì vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho hộ nông dân ở vùng sâu, vùng xa trong thời hạn nhất định từ 3 năm, 5 năm cho đến 10 năm khi bắt đầu vay vốn.
Về thời hạn vay: Tạo điều kiện cho hộ nông dân vay vốn dài hạn, đặc biệt với những hộ trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày, những hộ làm trang trại. Có thể kết hợp cho các hộ nông dân vay cả vốn ngắn, trung và dài hạn để các hộ có thể thực hiện tốt chủ trương lấy ngắn nuôi dài.
Về phương thức vay: Ngân hàng nên cải tiến, có chính sách đa dạng hoá các phương thức cho vay đối với hộ nông dân. Phương thức vay - trả hết - vay tiếp của Ngân hàng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu vì chu kỳ của sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp là tương đối dài và mang tính thời vụ. Vì vậy, ngân hàng nên mở thêm các phương thức vay - trả linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của nông dân.
Về thế chấp tài sản: Ngân hàng nên cải tiến quan niệm về tài sản thế chấp. Nên xem xét đến cả các loại tài sản đang hình thành và nhìn vào mục đích, khả năng sinh lời, khả năng trả nợ của dự án đầu tư cũng như giá trị sinh lời thực trên loại cây, con hộ đang đầu tư để quyết định cho vay. Bởi giá trị tái sản có thể thế chấp của người nông dân theo quy định hiện nay của ngân hàng rất thấp. Nếu căn cứ theo quy định này thì hầu hết các hộ nông dân không thể vay được vốn hoặc số vốn vay không đáng kể, không phát huy được tác dụng.
Về thủ tục: Giảm tối đa các thủ tục cho vay của ngân hàng. Loại bỏ các loại giấy tờ có ý nghĩa chồng chéo không cần thiết. Một trong những yếu tố hạn chế khả năng vay vốn của các hộ nông dân là so các thủ tục của Ngân hàng khá rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian chờ đợi. Điều đó vừa gây tâm lý ngại ngùng vừa làm mất đi khả năng chớp thời cơ trong kinh doanh của người đi vay.
Mặt khác, thủ tục giấy tờ phức tạp cũng làm gia tăng chi phí vay vốn do phải giao dịch, đi lại nhiều lần, chi phí cho lệ phí, đơn từ...
+ Các tổ chức tín dụng khác:
Ngoài các ngân hàng, cung cấp vốn tín dụng trong nông nghiệp còn nhiều tổ chức khác như: quỹ tín dụng nhân dân, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các hội phụ nữ, đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài... Các nguồn quỹ này có ưu thế là lãi suất thường thấp hơn lãi suất Ngân hàng, không phải trả chi phí giao dịch, thủ tục không phức tap và gần dân hơn. Tuy nhiên, các nguồn vốn này mới chỉ dừng lại đối tượng cho vay là các hộ nghèo với số tiền vay hạn chế từ hai trăm đến một triệu đồng. Trong thời gian tới, nhà nước cần tìm cách khuyến khích các tổ chức này mở rộng cho mọi đối tượng với quy mô vốn lớn hơn.
Vốn tín dụng là nguồn vốn rất quan trọng trong nhân dân, vì vậy nhà nước cần tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài trợ cho các định chế tài chính này, tránh phân tán, chồng chéo trong việc bố trí vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn.
2. Về sử dụng vốn đầu tư
Trong điều kiện vốn ít mà mục tiêu phát triển nông nghiệp ngày càng cấp bách thì việc nâng cao hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp là nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng đầu. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, nhà nước cần có có giải pháp để việc sử dụng vốn đầu tư ngày càng hợp lý, hiệu quả theo mục tiêu đặt ra.
Trước hết, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, tránh để tình trạng đầu tư tự phát. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, người nông dân trồng gì, nuôi gì hầu hết đề là theo kinh nghiệm, theo phong trào. Khi có lợi, cả xã, cả vùng cùng đồng loạt sản xuất, đến khi mất giá lại ồ ạt bỏ sang nuôi trồng cây, con khác. Do thị trường nông sản chưa ổn định nên thiệt hại chủ yếu người nông dân phải gánh chịu. Do đó nhà nước nên có quy hoạch và chiến lược phát triển lâu dài trong nông nghiệp để người nông dân có thể chuyên tâm sản xuất, không ngừng tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng giảm đầu tư chiều rộng (khai hoang, tăng vụ, phát triển gia súc, trồng rừng - quảng canh...), tăng đầu tư chiều sâu (thâm canh, khoa học kỹ thuật, chất lượng nông sản...) và công nghiệp chế biến, bảo quản lương thực, thực phẩm, cụ thể:
Về đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ.
Nhiệm vụ của ngành Nông nghiệp đến năm 2010 là: “Xây dựng ngành khoa học và công nghệ nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực và trình độ để vừa tiếp thu làm chủ được khoa học công nghệ hiện đại nước ngoài, vừa tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật trong nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn”. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh các hoạt động sau:
Hệ thống nghiên cứu cần được sắp xếp lại và tăng cường năng lực để các viện nghiên cứu gắn với các trường đại học và hệ thống khuyến nông. Trong giai đoạn đầu, nên tập trung tiếp thu và áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới vào ứng dụng sản xuất, kinh doanh của Việt Nam. Gắn nghiên cứu với chuyển giao và hỗ trợ áp dụng, ưu tiên đầu tư cho các công nghệ phục vụ trực tiếp mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá (như các công nghệ bao bì đóng gói, các công nghệ sơ chế nông sản, các tiến bộ kỹ thuật về giống và cây ăn quả, các công nghệ chế biến gỗ, công nghệ thông tin, công nghệ giống ưu thế lai...). Trong thời gian dài, phát huy thế mạnh của nông nghiệp và của cán bộ nghiên cứu chiến lược nông nghiệp để ứng dụng khoa học kinh tế và các khoa học mang tính liên ngành vào việc hoạch định chiến lược, chính sách và tham mưu phát triển.
Mức vốn đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ phải tương xứng với mức đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp. Kinh phí đào tạo cho cán bộ khoa học kỹ thuật phải tăng. Hình thành một số khu công nghệ cao về khoa học công nghệ trong nông nghiệp cho các vùng sinh thái chính, tạo nên các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho nông thôn. Phải xác định một tỷ trọng đầu tư đáng kể cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và áp dụng công nghệ. Ví dụ, hàng năm nhà nước dành hẳn trên 3% tổng kinh phí đầu tư ngân sách cho ngành (125 - 400 tỷ/năm) để đầu tư cho hoạt động khoa học kỹ thuật, trong đó 50% dành cho đề tài nghiên cứu so với hơn 30% hiện nay.
Mặt khác, khoa học công nghệ chỉ có thể trở thành lực lượng sản xuất của toàn xã hội một khi các hoạt động nghiên cứu, tư vấn, dịch vụ khoa học được trực tiếp ứng dụng với hình thức tổ chức xã hội hoá một cách cao độ; các thành phần kinh tế được khuyến khích tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ. Vì vậy trong thời gian tới, nhà nước nên tạo một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành thị trường cho hàng hoá khoa học và công nghệ; nâng cao thu nhập cho các nhà khoa học; tạo mọi điều kiện để mọi người có thể tiếp cận với công nghệ mới.
Hiện nay, đầu tư vào khoa học công nghệ đang được sự quan tâm của toàn xã hội. Tuy nhiên trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn nhiều yếu kém. Vì vậy ngành nên có cơ chế thu hút các nhà khoa học vào lĩnh vực này như có giải thưởng hàng năm cho các phát minh, sáng tạo mới trong nông nghiệp...
Về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Trong giai đoạn tới, cần có bước chuyển biến cơ bản về kết cấu đầu tư để đáp ứng những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược mới. Thuỷ lợi, lĩnh vực đầu tư lớn nhất từ trước đến nay trong nông nghiệp, cần được điều chỉnh hướng vào phát triển các cây trồng và các hình thức sử dụng nước đa dạng (cây công nghiệp, ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản...) phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng (miền núi, cao nguyên...), không chỉ vùng đồng bằng mà miền núi, vùng sâu, vùng xa cũng cần được quan tâm đầu tư; dành phần đầu tư thích ứng cho việc khai thác, nâng cấp các công trình đã có để tăng hiệu quả sử dụng nước, hiệu quả đầu tư công trình, phát triển các công trình thuỷ lợi nhỏ.
Những công trình thuỷ lợi thường là công trình kỹ thuật phức tạp, suất đầu tư cao, địa hình khó khăn, nắng nóng, mưa nhiều, hoặc nhiều đất cát dễ bị mất nước, phải bê tông hoá. Không ít công trình phải chặn dòng, vượt lũ đúng thời điểm dừng kỹ thuật nên bên thi công phải ứng vốn để đẩy nhanh tiến độ, buộc phải vay ngân hàng với lãi suất cao, dễ cụt vốn, trong khi nguồn vốn đầu tư của Nhà nước dù ưu tiên vẫn còn quá nhỏ. Vì vậy, nhà nước nên tăng cường phân cấp đầu tư cho các địa phương, giao cho địa phương quyền phục hồi, nâng cấp, xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng, bê tông hoá kênh mương, các tuyến đê địa phương
Huy động các nguồn vốn đa dạng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng như: giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước ở nông thôn. Kinh phí nhà nước cấp cần tập trung vào xây dựng các trục giao thông, cầu, cảng quan trọng để kết nối liên vùng và khai thác thế mạnh của từng vùng, nhất là miền núi. Các địa phương và cộng đồng dân cư phối hợp đóng góp sức người, sức của đầu tư hạ tầng cơ sở.
Tập trung đầu tư một số kết cấu hạ tầng quan trọng để phục vụ tiếp thị nông sản ở các vùng chuyên canh và các thị trường chính (như chợ đấu giá, bán buôn, sàn giao dịch cho thị trường giao sau, mạng lưới thông tin thị trường, các trung tâm trưng bày và giới thiệu sản phẩm, các phòng kiểm nghiệm chất lượng...). Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các hệ thống vận tải chuyên dụng (như kho, xe, tàu lạnh, máy bay, các trạm trung chuyển gia súc...) phục vụ vận chuyển nông, lâm, hải sản.
Phát triển con người thành trung tâm của quá trình phát triển. Tài nguyên quý nhất của Việt Nam là con người. Nguồn tài nguyên này phải được phát triển và khai thác hợp lý bằng cách đào tạo và rèn luyện tổng hợp cả về văn hoá, khoa học, công nghệ, năng lực sáng tạo, khả năng hoạt động phối hợp,... Muốn vậy một hệ thống đồng bộ các biện pháp tổ chức phải được áp dụng, gồm đào tạo, tuyển chọn học sinh, tuyển chọn, tuyển dụng, điều động cán bộ, chế độ lương bổng và thưởng phạt, cơ chế cất nhắc người tài, phương pháp tổ chức công việc để phát huy tài năng con người, khuyến khích cán bộ giỏi về công tác ở cơ sở, ở nông thôn...
Áp dụng các thể chế cụ thể như: cấp học bổng để hỗ trợ nhân tài, cấp kinh phí hỗ trợ cán bộ có năng lực nghiên cứu, tiêu chuẩn hoá khi lựa chọn, thi tuyển theo đề án để đề bạt, đề bạt theo bầu cử, lãnh đạo theo nhiệm kỳ, trả lương theo đóng góp, trả phụ cấp cao và chế độ nghĩa vụ cho cán bộ công tác ở nông thôn, trợ cấp cho nông trại hoặc doanh nghiệp sử dụng cán bộ kỹ thuật, khoán quỹ lương,... phải được áp dụng để tạo ra thị trường và nhu cầu cán bộ trình độ cao trong ngành.
Đầu tư phát triển thị trường. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước là điều kiện cơ bản hiện nay để mở rộng hoạt động đầu tư trong nông nghiệp hiện nay. Đối với thị trường trong nước, cần phải có kế hoạch điều tra nhu cầu của 13 triệu hộ nông dân ở các vùng dân cư khác nhau đối với từng mặt hàng cả về quy cách, mẫu mã, phẩm chất, khối lượng, từ đó có kế hoạch sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Đối với thị trường nước ngoài, cần phải có sự điều tra, nghiên cứu, dự báo về nhu cầu giá cả các mặt hàng, từng ngành hàng. Xây dựng chiến lược về thị trường, xác định thị trường lâu dài, ổn định và thị trường tạm thời. Các đơn vị xuất khẩu phải phối hợp chặt chẽ với nhau, tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài ép cấp, ép giá.
Nắm vững thị trường nước ngoài còn tạo ra khả năng nhập khẩu các loại vật tư, máy móc phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý.
3. Giải pháp về tổ chức sản xuất
Hình thức tổ chức sản xuất phù hợp sẽ góp phần tích cực giải phóng sức sản xuất và huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Để có thể thu hút và sử dụng hiệu quả nhất vốn đầu tư vào nông nghiệp, cần phát triển các hình thức tổ chức sản xuất sau:
3.1. Phát triển hợp tác xã và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn
Trong thập niên 2001 - 2010, hình thức tổ chức sản xuất cơ bản và giữ vai trò quyết định đối với nông nghiệp, nông thôn nước ta là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá và kinh tế trang trại. Để thực sự hỗ trợ cho được kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại phát triển một cách có hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trong một nền kinh tế sản xuất hàng hoá mở cửa, trong thời gian tới, phải tập trung phát triển hệ thống hợp tác xã và các hình thức hợp tác của nông dân. Mở ra hành lang pháp lý và có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ thích hợp cho các hình thức tỏ hợp tác và các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của nhân dân.
Ngoài những biện pháp hỗ trợ như tăng cường đào tạo, tạo điều kiện cho vay vốn, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu trình quốc hội chỉnh sửa Luật hợp tác xã để tăng thêm các chức năng khác cho hợp tác xã như kinh doanh, phát triển công nghiệp chế biến, thương mại, xuất nhập khẩu, tín dụng, bảo hiểm... Từng bước gánh bới vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân. Tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng của các hợp tác xã cũ để tạo điều kiện cho xã viên chuyển đổi, xây dựng hợp tác xã theo luật mới.
Hoàn thiện và ban hành các văn bản pháp quy về hiệp hội nhằm phát huy vai trò của các hiệp hội trong các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như xúc tiến thương mại, thông tin thị trường, xây dựng quỹ bảo hiểm ngành hàng...
3.2. Củng cố các doanh nghiệp nhà nước
Để nâng cao hiệu quả đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cần đẩy mạnh tiến độ sắp xếp lại các doanh nghiệp mà nhà nước không nhất thiết phải nắm 100% vốn. Giao bán khoán, giải thể, sáp nhập... các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, làm ăn kém hiệu quả. Đối với một số doanh nghiệp nòng cốt do nhà nước quản lý, gắn quyền lợi của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp với hiệu quả. Đối với một số doanh nghiệp nòng cốt do Nhà nước quản lý, cần tập trung hỗ trợ đủ mức vốn lưu động, tăng cường năng lực cán bộ.. Nghiên cứu hình thành một cơ chế quản lý đề cao quyền tự chủ của doanh nghiệp, gắn chế độ trách nhiệm của cá nhân người quản lý, gắn quyền lợi của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh, gắn mức độ của nhà nước cho doanh nghiệp với năng lực của đơn vị phục vụ, hỗ trợ và phối hợp với nông dân, có cơ chế tách bạch quyền sở hữu của nhà nước khỏi quyền quản lý của người lãnh đạo doanh nghiệp.
Thông tin rộng rãi về các cam kết quốc tế để ứng phó với những thách thức và triển vọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc dân diễn ra ngày càng nhanh. Tiến hành các nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của tiến trình hội nhập đến các đối tượng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương và các doanh nghiệp có khả năng bị thua thiệt trong quá trình hội nhập, đề có chủ trương, chính sách thích hợp nhằm khắc phục những rủi ro có thể xuất hiện trong tiến trình hội nhập.
Xây dựng các chương trình tập trung hỗ trợ (như đào tạo con người, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, cải tiến công nghệ, cải tiến quản lý, hài hoà hoá các quy định...) cho các doanh nghiệp, các ngành hàng có thế mạnh, có lợi thế so sánh. Từng bước nâng các đơn vị này lên ngang tầm các đối tác trong khu vực và thế giới.
3.3. Phát triển nền nông nghiệp hợp đồng
Một mâu thuẫn lớn đang đặt ra đối với nền nông nghiệp nước ta là: có nhiều sản phẩm có khối lượng hàng hoá lớn nhưng lại được sản xuất ra ở những nông hộ có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ. Vì thế mà chất lượng nông sản hàng hoá thấp, người sản xuất trực tiếp không nắm được thông tin thị trường, hậu quả là sản xuất và phân phối nông phẩm của nước ta chịu những thua thiệt không nhỏ. Tuy thế, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung và những đặc thù của nước ta, ta không thể tổ chức những doanh nghiệp lớn trực tiếp sản xuất nông phẩm nguyên liệu. Về điểm này, bài học về tập thể hoá còn nguyên giá trị.
Con đường để giải quyết mâu thuẫn này là phải tìm ra những hình thức kinh tế ngõ hầu kết hợp được hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản, trước hết là các doanh nghiệp nhà nước, với hàng triệu hộ nông dân. Tổ chức một nền nông nghiệp hợp đồng. Thông qua việc ký kết hợp đồng với các hộ nông dân hoặc những tổ chức kinh tế của họ, những doanh nghiệp này hướng dẫn kinh tế hộ nông dân sản xuất cái gì, bao nhiêu với chất lượng, chủng loại như thế nào để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong và ngoài nước. Đây chính là vai trò dẫn dắt chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước với nông dân. Đến lượt mình, các doanh nghiệp này cũng phải tự cải tạo mình, đủ mạnh để đứng vững trên thị trường trong nước.
Ở Việt Nam, mô hình “hệ thống hợp đồng” đã tỏ ra có sức sống đặc biệt, nhất là cho phép thoả mãn được ba yêu cầu về cung cấp vốn, công nghệ và tạo thị trường cho hộ nông dân sản xuất nhỏ, nhờ đó, tạo ra và duy trì được khả năng tái sản xuất của nông hộ và đóng góp tái sản xuất mở rộng cho cả doanh nghiệp. Hệ thống hợp đồng có thể được áp dụng cho cả các công ty trong nước (tư nhân hoặc nhà nước) và nước ngoài (đối với các công ty nước ngoài thường là các công ty đa quốc gia), cũng như thông qua hình thức liên doanh. Hạt nhân của hệ thống có thể là một nhà máy chế biến, một công ty kinh doanh, một nông trường, một doanh nghiệp tổng hợp...
Khác với mọi liên kết lỏng lẻo giữa nông dân và người chế biến, tiêu thụ, trong đó nông dân thường chịu mọi thua thiệt và rủi ro. Hình thức hợp đồng loại bỏ vai trò của các từng lớp mua và bán và làm dịch vụ trung gian như mua gom, cho vay lãi, cò mồi..., và trực tiếp bảo vệ người sản xuất, nhất là người nghèo khi bán sản phẩm. Hình thức hợp đồng cũng cho phép xoá bỏ độc quyền dẫn đến hiện tượng các cơ quan chế và lưu thông chèn ép giá và bóc lột lợi nhuận của người nông dân, và khiến các cơ quan ấy trực tiếp quan tâm đến khả năng giảm giá thành, tăng chất lượng của nông sản, bởi vậy hình thành cơ chế chia sẻ lợi nhuận, tạo ra khả năng tăng thu nhập và tái sản xuất mở rộng của nông dân.
Ngược lại, người chế biến, xuất khẩu cũng yên tâm về quy mô, chất lượng và tiến độ của nguyên liệu nông sản. Hai bên cùng có lợi, tạo nên cơ hội cùng đầu tư theo chiều sâu, áp dụng đồng bộ và phối hợp công nghệ mới, kỹ thuật mới từ nguyên liệu đến chế biến và tiếp thị.
Hình thức này tạo ra triển vọng cho hàng triệu hộ nông dân sản xuất nhỏ chưa có điều kiện tích luỹ đất đai có thể áp dụng công nghệ mới để tạo ra giá trị gia tăng, đồng thời cũng là chìa khóa mở lối thoát cho thị trường nông sản Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, đầu tư đã góp phần quan trọng tạo ra năng lực mới để tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp. Năng suất lao động ngày càng tăng, quan hệ sản xuất ngày càng hoàn thiện, đời sống của nông dân ngày càng được nâng cao góp phần tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới của đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu tăng trưởng kinh tế và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân, chính sách và hiện thực đầu tư cho nông nghiệp trong những năm qua là chưa thoả đáng. Vì vậy, để tăng trưởng sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, cần có sự đổi mới cơ bản và toàn diện trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp, trong đó đặc biệt coi trọng việc tăng tỷ trọng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, thu hút mạnh mẽ vốn trong dân và tạo môi trường thuận lợi để tăng vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp là những hướng cơ bản nhất. Việc đánh giá đúng vai trò và vị trí của nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam từ đó chuyển mạnh và tăng cường đầu tư cho nông nghiệp lúc này là rất cần thiết. Không chỉ ở nước ta mà các nước trong khu vực hiện nay cũng đã và làm như vậy.
Xuất phát từ thực tế đó, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao vai trò của nông nghiệp và có những chiến lược, chính sách phù hợp để phát huy mọi lợi thế của khu vực này. Với ý nghĩa đó, việc đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong nông nghiệp đóng vai trò rất lớn với quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Trên cơ sở phân tích thực trạng đầu tư và cơ cấu đầu tư phát triển nông nghiệp thời gian qua, đề tài đã rút ra được những đánh giá quan trọng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Hy vọng những đề xuất đó sẽ đóng góp vào sự phát triển của nông nghiệp, đưa nông nghiệp Việt Nam vững bước đi lên hoà chung vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đầu thế kỷ 21 - Nguyễn Điền - NXB Chính trị Quốc gia 1999
Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp Việt Nam - Đặng Kim Sơn - NXB Chính trị Quốc gia 2002
Kinh tế đầu tư - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai - NXB Giáo dục, Hà Nội 1997
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - Đặng
Kim Sơn - 2000
Kinh tế nông nghiệp - Phạm Đình Vân, Đỗ Kim Chung - NXB Nông nghiệp 1997
Tạp chí kinh tế và dự báo 2000, 2001
Kinh tế trang trại - Trần Đức - NXB nông nghiệp
Tạp chí Ngân hàng :13 ( 7-1998)
Tạp chí Con số và sự kiện: 7– 1999, thực trạng và triển vọng - Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm - NXB Chính trị Quốc gia 1995
Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - TS Nguyễn Bạch Nguyệt - NXB
Thống kê, Hà Nội 2000
Tạp chí kinh tế và phát triển 2000, 2001
Số liệu thống kê nông - lâm - thuỷ sản Việt Nam 1975 - 2000, NXB Thống kê 2001
Tạp chí Con số và sự kiện: 3; 4 – 2000
Tạp chí Nghiên cứu – Trao đổi: 1-1999
Tạp chí Kinh tế và Phát triển:37–2000
Tạp chí Kinh tế và Phát triển: 43; 45; 46
Tạp chí tài chính :3; 6; 7 -2001
Công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn ở các nước Châu á và Việt Nam - Nguyễn Điền - NXB Chính trị Quốc gia 1997
Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX - NXB Chính trị Quốc gia
Niên giám thống kê 1998, 1999, 2000 - NXB Thống Kê
Tạp chí nghiên cứu kinh tế 2000, 2001
Tạp chí Tài chính 2000, 2001
Tạp chí nghiên cứu và lý luận 2000, 2001
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐT PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐT PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Định hướng chiến lược và một số giải pháp ĐT phát triển nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua (52 trang)
MỤC LỤC
Phần 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Lý luận về đầu tư phát triển ..1
II . Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ..4
III. Hoạt động đàu tư với phát triển nông nghiệp 11
Phần 2: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. Chính sách đầu tư phát triển nông nghiểp ..16
trong thời gian qua
II. Tổng quan tình hình đầu tư cho nông nghiệp nôngthôn Việt Nam giai đoạn 1991-2000 ...........18
III. Cơ cấu đầu tư cho nông nghiệp nông thôn Việt Nam 18
IV. Đánh giá toàn diện về tình hình đầu tưcho nông nghiệp nông thôn Việt Nam 28
Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ĐT PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
I. Đánh giá năng lực phát triển nông nghiệp ở việt nam 32
II. Mục tiêu và địng hướng phát triển nông nghiệp 34
III. Một số giải pháp về đầu tư phát triển nông nghiệp 38
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
MỤC LỤC 50
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1142.doc