MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: Lí LUẬN XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU 3
I. Cỏc lý thuyết thương mại quốc tế 3
1. Các học thuyết thương mại quốc tế 3
2. Việt Nam trong phân công lao động quốc tế 3
II. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4
1. Khái niệm về xuất khẩu (Export) 4
2. Vị trí của xuất khẩu 5
3. Vai trũ của xuất khẩu 5
4. Nhiệm vụ của xuất khẩu 7
III. Những cơ sở đảm bảo cho việc xuất khẩu 8
IV. Phân tích những tác động thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức đối với xuất khẩu Việt Nam 9
1. Thuận lợi và khó khăn 9
1.1 Tác động thuận lợi 9
1.2 Tác động không thuận lợi 10
2. Những cơ hội và thách thức 11
2.1 Thời cơ 11
2.2 Thách thức 12
V. Năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu và những nhân tố ảnh hưởng 12
1. Năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu 12
2. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu 14
PHẦN II: TèNH HèNH XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM 17
I. Tổng quan tỡnh hỡnh hoạt động xuất khẩu 17
1. Tỡnh hỡnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990-2002 17
2. Tỡnh hỡnh xuất khẩu trong tương quan tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 18
3. Đánh giá tỡnh hỡnh xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1991-2002 21
3.1 Xuất khẩu 21
3.2 Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam 22
b. Thị trường khu vực Tây Bắc Âu 23
c. Thị trường các nước Nga, SNG, Đông Âu ÂÂ 23
d. Thị trường khu vực Bắc Mỹ 24
e. Thị trường khu vực Châu Mỹ La tinh 24
f. Thị trường Tây Nam Á - Phi 24
g. Thị trường Châu Phi 24
l. Thị trường Trung cận Đông 25
II. Những thành tựu đạt được và những yếu kém cần khắc phục 30
1. Thành tựu đạt được trong thời gian vừa qua 30
2. Những vẫn đề tồn tại của hoạt động xuất khẩu 31
3. Nguyên nhân của thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá 33
III. Phân tích năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 33
1. Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam 33
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 35
3. Cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 40
PHẦN III: GIẢI PHÁP NĂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM 42
I. Tầm vĩ mụ về quản lý nhà nước 42
II. Tầm vi mô về quản trị doanh nghiệp 44
1. Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá 44
2. Giải pháp xây dựng chiến lược xuất khẩu tại các doanh nghiệp 47
3. Cải tiến công nghệ 49
4. Nâng cao chất lượng sản phẩm 49
KẾT LUẬN 51
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc quan hệ buôn bán lớn nhất.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nước đều có xu hướng gia nhập vào các khối kinh tế, để có thể phát triển xuất khẩu đến từng nước thì cần thiết phải tham gia và đặt quan hệ với các khối kinh tế này, sau đây là phân cơ cấu xuất khẩu theo các khối kinh tế.
Bảng 3: Cơ cấu xuất khẩu theo các khối kinh tế
1999
2000
2001
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
ASEAN
2516
21.8%
2619
18.1%
2553
17.0%
APEC
7486
64.9%
10097
69.7%
10084
67.1%
EU
2515
21.8%
2845
19.6%
3002
20.0%
OPEC
713
6.2%
643
4.4%
757
5.0%
Nguồn: Kỷ yếu xuất khẩu 2002
Qua biểu đồ nhận thấy, trong khối APEC, với sự tham gia của nhiều quốc gia từ các châu lục khác nhau đã tạo cho APEC sự đa dạng hoá các nền kinh tế tham gia khối kinh tế này, đây là một điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam nói riêng. Mặc dù vậy, Việt Nam lại phải quan tâm nhiều đến các quốc gia thuộc khối ASEAN vì đây là khối sẽ có nhiều quốc gia cạnh tranh với Việt Nam nhất, sự tham gia của Việt Nam vào khối kinh tế này mở ra nhiều điều kiện thuận lợi và cơ hội phát triển xuất khẩu tuy vậy cũng hàm chứa nhiều nguy cơ đang thách thức chúng ta. Trong khi đó, EU luôn là thị trường cần vươn tới đáp ứng các yêu cầu của thị trường này. OPEC với điển hình của nền kinh tế có xuất khẩu dầu mỏ, hợp tác với các nước trong khối sẽ có nhiều cơ hội học hỏi để phát triển ngành dầu khí của Việt Nam.
Đồ thị 5&6: Cơ cấu và giá trị xuất khẩu của Việt Nam theo khối kinh tế
Bảng 4: 10 nước nhập khẩu hàng lớn nhất từ Việt Nam
Năm
Nhật
Trung Quốc
Mỹ
Singapore
Ôxtrâylia
Đài Loan
Đức
Anh
Pháp
Hàn Quốc
1999
1786
746
504
876
815
682
654
421
355
320
2000
2576
1536
733
886
1272
757
730
479
380
353
2001
2510
1417
1065
1044
1042
806
722
512
467
406
Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu 2002
Xét theo từng quốc gia cho thấy, Nhật Bản-một nước có lượng vốn đầu tư nói chung và vốn ODA nói riêng lớn nhất vào Việt Nam cũng đang là quốc gia dẫn đầu về giá trị hàng nhập khẩu từ Việt Nam (đạt 1786 triệu USD năm 1999, tăng nên 2576 triệu USD, năm 2001 có giảm xuống còn 2510 triệu USD do nền kinh tế của Nhật vào thời kỳ suy thoái). Đứng sau Nhật là quốc gia đông dân nhất thế giới-Trung Quốc, đây quả là một thị trường rộng lớn và đầy hấp dẫn, với chất lượng sản phẩm không quá khắt khe và phù hợp với giá cả của Việt Nam đông thời có cùng tương đồng yếu tố văn hoá, đây là những điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Quan hệ thương mại Việt-Mỹ vừa được mở rộng thì đã biểu hiện đầy những trở ngại, tuy vậy kết quả xuất khẩu năm 2001 đã cho thấy kết quả đáng mừng với giá trị xuất khẩu là 1065 triệu USD. Tiếp theo là các thị trường Singapore, Ôxtrâylia, ĐàI Loan, Đức, Anh, Pháp, Hàn Quốc.
Đồ thị 7: 10 nước nhập khẩu hàng lớn nhất từ Việt Nam
3.3 Cơ cấu giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước:
Bảng 5: Giá trị và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam theo kế hoạch nhà nước
Nhóm hàng
1999
2000
2001
trị giá
Tỷ trọng %
trị giá
Tỷ trọng %
trị giá
Tỷ trọng %
Hàng CN nặng và khoáng sản
3069
31.3
5382
37.2
5247
34.9
Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN
4243
36.7
4903
33.9
5368
35.7
Hàng nông sản và NSCB
2545
22.1
2563
17.7
2421
16.1
Hàng lâm sản
169
1.5
155
1.1
176
1.2
Hàng thuỷ sản
973
8.4
1478
10.2
1816
12.1
Nguồn:
Đồ thị 8: Giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước
Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt giá trị cao nhất (5368 triệu USD, 35.7% vào năm 2001), tiếp đến là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 34.9%, đạt 5247 triệu USD năm 2001, đứng thứ 3 là hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng thuỷ sản đứng thứ 4, và cuối cùng là hàng lâm sản.
Đồ thị 9: Cơ cấu giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước
Bảng 6: Tỷ trọng mặt hàng xuất khẩu chủ yếu (%)
Năm
Than đá
Hạt điều
Cao su
Cà phê
Linh kiện đtử
Hàng thuỷ sản
Gạo
Giầy dép
Dầu thô
Hàng dệt may
Hàng khác
2001
0.8
1.0
1.1
2.6
4.7
12.1
4.2
10.6
13.1
20.8
29.1
2002
1.0
1.3
1.7
2.0
3.0
12.5
4.5
11.5
17.0
20.2
15.5
Nguồn:
Đồ thị 10: Tỷ trọng hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2002
Tính về mặt hàng, với thế mạnh của mình, ngành dệt may đã thể hiện sự vượt trội trong đóng góp vào hoạt động xuất khẩu (20.2%). Khai thác dầu thô đã nhường vị trí dẫn đầu cho dệt may từ mấy năm trước, ngành này đã từng chiếm tỷ trọng cao nhất về giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm, hiện nay dầu thô chiếm khoảng 17% giá trị hàng xuất khẩu. Sản phẩm giầy dép của chúng ta đã chiếm được cảm tình của người tiêu dùng trên thế giới, hiện đang chiếm tỷ trọng khá cao trong các mặt hàng xuất khẩu và tạm đứng thứ 3 (11.5%). Hàng thuỷ sản có khả năng sẽ phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn hưon trong tương lai, nhưng hiện nay vẫn xếp sau hàng giầy dép. Gạo là hàng xuất khẩu truyền thống đang chiếm 4.5%. Mặt hàng xuất khẩu điện tử có thể coi là non trẻ như linh kiện điện tử cũng đã đóng góp một phần không nhỏ (3.0%). Còn lại các sản phẩm khác như than, cà phê, hạt điều....
II. Những thành tựu đạt được và những yếu kém cần khắc phục
1. Thành tựu đạt được trong thời gian vừa qua
- Xuất khẩu đã đạt được mục tiêu đề ra và đóng góp một phần đáng kể vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1991-2000 tiếp đến là bước đầu thực hiện tốt chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005. Hoạt động xuất khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đã thực hiện nhiệm vụ cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.
- Đã vượt qua được những khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do Liên Xô tan rã, chế độ XHCN ở Đông Âu bị xoá bỏ (thị trường trước đây chiếm trên 60% kim ngạch xuất - nhập khẩu của nước ta) và đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận nước ta; về cơ bản thực hiện được chủ trương đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới. Việc đa dạng hoá thị trường thể hiện ở đặc điểm, hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại với trên 70 quốc gia. Trong năm năm 1991-1995, khu vực Châu Á chiếm tới 77% kim ngạch xuất-nhập khẩu thì nay chỉ còn 57-58%, thị trường Châu Âu hiện nay chiếm khoảng 26-27%, Bắc Mỹ (6%) và Châu Đại Dương (7%), tỷ trọng các thị trường trung gian như Hồng Kông hay Singapore đã giảm dần. Hơn nữa, nước ta đã và đang tham gia vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới qua việc chủ trương gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện, Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, ASEM vào năm 1996, APEC năm 1998, và là quan sát viên của WTO vào năm 1995. Sau năm 1993, nước ta đã khai thông quan hệ tín dụng với các tổ chức IMF, WB, và ADB (mặc dù là thành viên của các tổ chức này sau khi giải phóng miền nam).
- Xuất khẩu của Việt Nam đã được đổi mới một cách cơ bản về cơ chế xuất-nhập khẩu theo hướng xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương; ngày càng mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các ngành sản xuất, địa phương, các thành phần kinh tế, trong đó có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giảm thiểu và dần xoá bỏ hạn ngạch, giấy phép từng chuyến, từ đó góp phần hạn chế cơ chế xin – cho, các cơ chế chính sách mới góp phần khuyến khích xuất khẩu nhận được sự quan tâm càng lớn; các công cụ tiền tệ vĩ mô như lãi xuất tín dụng, tỷ giá được sử dụng nhuần nhuyễn hơn để khuyến khích xuất khẩu và định hướng nhập khẩu. Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là lần đầu tiên thông qua luật thương mại, chế độ tối huệ quốc, mã số hàng hoá, giảm dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tiến tới chế độ đãi ngộ quốc gia.
2. Những vẫn đề tồn tại của hoạt động xuất khẩu
- Quy mô xuất khẩu của Việt Nam còn quá thấp so với các nước trong khu vực, xét về cả tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu người mà năm 1999 mới đạt khoảng 150 USD. Sự tăng trưởng còn chưa thực sự ổn định và bền vững.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam còn lạc hậu. Tỷ trọng hàng xuất khẩu thô và sơ chế còn cao so với các nước trong khu vực. Trong số sản phẩm công nghiệp chế tạo dành cho xuất khẩu, hàng gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, sản phẩm hàm lượng có tính chất công nghệ và trí tuệ cao dành cho xuất khẩu còn ít. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp so với tiềm lực của nước ta, khả năng cạnh tranh của phần lớn hàng hoá xuất khẩu thấp do giá thành sản xuất cao, chất lượng thấp, mẫu mã bao bì không phù hợp với đòi hỏi của thị trường nhập khẩu. Việt Nam còn bị rơi vào tình trạng nhập những máy móc công nghệ lỗi thời từ nước ngoài nên chưa đáp ứng được việc khắc phục tình trạng lạc hậu trong sản xuất một số ngành.
- Việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung, trong từng lĩnh vực, ngành hàng nói riêng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được (tình hình sản xuất chế biến tiêu, cà phê trong vài năm gần đây). Năng suất, chất lượng, giá thành nhiều sản phẩm không đủ cạnh tranh, trong khi đó quy mô đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu chưa thoả đáng; việc đầu tư trực tiếp cho các khâu tiêu thụ sản phẩm như hoạt động xúc tiến thương mại, lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan ở nước ngoài hầu như chưa có. Nhiều hình thức kinh doanh phổ cập trên thế giới như tái sản xuất, chuyển khẩu đều chưa phát triển.
- Sự hiểu biết về thị trường bên ngoài còn bị hạn chế. Nhà nước (các cơ quan quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện ở nước ngoài) chưa cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp, ngược lại nhiều doanh nghiệp ỷ lại trông chờ vào nguồn thông tin của nhà nước. Đối với nhiều thị trường khó tính trến thế giới, hàng hoá của chúng ta muốn xuất khẩu được sang thị trường đó đều phải qua một thị trường trung gian.
- Với việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng, cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn, các doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước, chưa giám sát vào việc chuẩn bị tham gia quá trình này.
- Bộ máy quản lý về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để theo sát tình hình thực tiễn nhưng nhìn chung vẫn khá thụ động và trì trệ. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các định chế quản lý đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa tốt, có khi còn triệt tiêu lẫn nhau, chưa tạo sức mạnh tổng hợp, cán bộ quản lý còn thiếu và yếu.
- Hơn nữa, từ thực tế hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, những tồn tại sau sẽ là những vẫn đề bức xúc mà các nhà hoạch định chiến lược cần quan tâm:
+ Các doanh nghiệp chưa khai thác hết khả năng sản xuất của mình.
+ Mặc dù Chính phủ đã cho hình thành các trung tâm chuyên thu thập, nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu ở Việt Nam, xong rất ít doanh nghiệp nhận được thông tin về chiến lược ngoại thương hay các kết quả nghiên cứu thị trường từ các trung tâm này. Theo điều tra, chỉ có 38,2% các doanh nghiệp nhận được thông tin từ đó. Và nội dung các thông tin đánh giá từ các doanh nghiệp là nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và thường lạc hậu so với biến động của thị trường.
+ Đối với phía Hải quan, các nhân viên thường gây phiền hà cho các nhà thực hiện xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải tốn thêm chi phí ngoài khoản quy định của nhà nước.
3. Nguyên nhân của thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá
Nguyên nhân dẫn tới thành tựu của xuất khẩu là nhờ những lý do liên quan tới chính sách thương mại trong giai đoạn này. Lý do đầu tiên là, nhờ vào đường lối đổi mới và những thành tựu đạt được nhờ công cuộc đổi mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy cơ cấu xuất nhập khẩu. Thứ hai, nhờ vào chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận nước ta, mở rộng thị trường xuất khẩu. Cũng nhờ vậy mà đầu tư nước ngoài vào nước ta trong thời gian hơn 10 năm đổi mới tăng nhanh. Nguyên nhân cuối cùng nhờ vào việc hoạch định chính sách nhằm vào xuất khẩu được coi là nhiệm vụ quan trọng kèm theo các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương, các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Tuy nhiên, vì bị ảnh hưởng của chính sách đóng cửa, nền kinh tế lạc hậu và trình độ lạc hậu lâu dài đã để lại những hậu quả không tốt cho mọi ngành kinh tế đất nước, đặc biệt là ngành xuất khẩu. Thứ nhất, trình độ phát triển nước ta còn thấp, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nước ta còn phụ thuộc vào cơ cấu nền kinh tế nói chung lạc hậu, từ năm 1997 lại còn ảnh hưởng liên tục các cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Vì thế tình hình xuất khẩu bị biến động theo cả về thị trường, khối lượng hàng hoá luân chuyển và tình hình tài chính. Thứ hai, nước ta rơi vào tình trạng quan liêu bao cấp lại bị bao vây cô lập khá lâu, nên khi chuyển sang cơ chế thị trường trong khi xu thế toàn cầu hoá kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng đã đưa Việt Nam tới chỗ không thể tránh khỏi những lúng túng. Đội ngũ cán bộ liên quan đến hoạt động xuất khẩu nhìn chung chưa năng động, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng. Thứ ba, Việt Nam còn lúng túng trong việc tạo ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hội nhập còn chưa sâu nên tạo ra môi trường và cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất khẩu còn hạn chế.
III. Phân tích năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
1. Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam
Nhìn chung, trong những năm đầu đổi mới kinh tế, Chính phủ Việt Nam bằng những công cụ hữu hiệu của mình đã góp phần tạo sức mạnh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Song do tình trạng lạc hậu lâu dài, ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên giai đoạn này hàng hoá của Việt Nam chưa thực sự có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Bởi sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vẫn mang nặng tính chất thô và chưa qua chế biến (chiếm 60%). Tuy nhiên chúng ta vẫn có ba mặt hàng là gạo, cà phê, và điều đã có tiếng trên thị trường thế giới và khối lượng xuất khẩu những mặt hàng này cũng đạt tỷ lệ cao.
Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được sản xuất dựa trên sử dụng nguồn nhân lực dồi dào trong nước và làm thủ công. Do vậy những sản phẩm này khó có thể cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại được sản xuất thông qua hệ thống máy móc công nghệ hiện đại.
Nhà nước đã tập trung hình thành các giải pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá có sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế, như các trung tâm xúc tiến thương mại, trung tâm thu thập và cung cấp thông tin… nhưng nguồn thông tin đến doanh nghiệp chưa nhiều, thông tin còn chưa cập nhật với thực trạng và xu thế thế giới, do vậy các doanh nghiệp của Việt Nam cũng gặp khó khăn trong việc so sánh sản phẩm của mình với mặt hàng cùng loại trên thế giới.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về mặt vốn để tập trung đầu tư vào máy móc, công nghệ. Có những doanh nghiệp tuy nhập công nghệ từ nước ngoài nhưng đều phải nhập những công nghệ đã cũ và lạc hậu. Việc nhập những công nghệ như vậy một phần cũng là do doanh nghiệp thiếu thông tin và thiếu vốn. Hậu quả là sau khi có công nghệ của nước ngoài các doanh nghiệp cũng không cải thiện được tình hình chất lượng hàng hoá.
Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công nghệ trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu, Việt Nam cũng đã và đang đầu tư chiều sâu vào phát triển công nghệ. Việt Nam đã xây dựng khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc (tại Hà Nội) và khu công viên phần mềm Quang Trung (tại TP. Hồ Chí Minh), như vậy trong tương lai, Việt Nam sẽ dần hoàn thiện hơn chiến lược phát triển kinh tế của mình. Khi đó các doanh nghiệp sẽ có điều kiện hơn trong việc tăng sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế bằng việc sử dụng các sản phẩm đầu vào trong nước với giá rẻ hơn.
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
Chuyển đổi sang kinh tế thị trường bắt đầu từ năm 1986, đặc biệt là trong khoảng hơn 10 năm thực hiện đổi mới, khi chính sách kinh tế nhiều thành phần đi vào cuộc sống, tư tưởng cạnh tranh giữa các đơn vị, các thành phần kinh tế được thừa nhận thì một số doanh nghiệp và mặt hàng của Việt Nam đã vươn ra thị trường tham gia cạnh tranh và cạnh tranh được với nước ngoài. Đây chính là biểu hiện kết quả bước đầu và chủ trương đúng đắn của Đảng trong kinh tế trước xu thế hội nhập. Tuy nhiên trước sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, bên cạnh những thành tựu nhỏ bé đạt được, sức cạnh tranh của phần lớn doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam còn yếu kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả. Tốc độ hội nhập của Việt Nam hiện nay được đánh giá là ở mức trung bình, ngoại trừ lĩnh vực hạ tầng thông tin. Theo như số liệu điều tra của diễn đàn kinh tế thế giới, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam nói riêng:
Năm
1998
1999
2000
2001
2001
Xếp hạng
38/53
59/62
53/59
62/67
60/80
Còn theo đánh giá năm 2001-2002 của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh quốc gia của 11 nước trong khu vực (trong đó có 6 nước ASEAN) thì Việt Nam đều xếp thứ 11/11. Như vậy nhìn chung sức cạnh tranh của ta còn yếu, vì vậy, nâng cao sức cạnh tranh trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá là vẫn đề sống còn của các doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta. Trước mắt, theo lộ trình của AFTA thuế quan sẽ phải giảm dần tới 0% và năm 2015, hiện tại là từ 0 đến 5% đến 2006. Trong xu thế này, hàng Việt Nam sẽ phảI cạnh tranh gay gắt với cùng loại của các nước trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung Quốc. Do vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam đang trở thành vẫn đề bức xúc.
Trong thời gian qua, một số mặt hàng xuất khẩu được trên thị trường thế giới của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng có lợi thế so sánh như tài nguyên có sẵn, những sản phẩm thông dụng lao động với nhân công rẻ. Nhưng theo dự báo, những lợi thế này dần mất đi. Trái lại, do nhiều yếu tố đầu vào với giá cao, chất lượng thấp làm tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng tới năng suất, giá thành và chất lượng hàng hoá, việc cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam vì thế sẽ khó khăn hơn. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu là một vẫn đề tổng hợp, chịu tác động của nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, năng lực hoạt động của doanh nghiệp, trình độ hạ tầng cơ sở, chính sách vĩ mô, trình độ kỹ thuật công nghệ và năng lực dự báo.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam thể hiện ở các nhân tố chủ yếu như về chất lượng sản phẩm, giá cả hàng hoá, dịch vụ đi kèm, và thương hiệu trên thị trường.
Khả năng cạnh tranh về chất lượng thấp bởi lực lượng sản xuất trong các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu có tay nghề thấp, cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thô và sơ chế (chiến gần 60%), cơ sở hạ tầng căn bản và cơ sở hạ tầng công nghệ cao còn chưa được đầu tư đúng mức…. Nhìn lại tình hình chất lượng sản phẩm từ ngày tiến hành công cuộc cải cách kinh tế - xã hội đất nước đến nay, nhận thấy có nhiều chuyển biến đáng kể, thậm chí có nhiều tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Thị trường ngày càng dồi dào, đa dạng, đáp ứng đáng kể những nhu cầu cũng rất đa dạng của người tiều dùng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ ngày càng được cải thiện hơn, chủng loại kiểu cách mẫu mã ngày càng phong phú hơn, bao bì đẹp và hấp dẫn hơn. Nhiều loại sản phẩm trước đây yếu kém triền miên nay đã được cảI tiến rõ rệt và được người tiêu dùng chấp nhận. Có được những chuyển biến tích cực này phải kể đến 3 nhân tố: sự xuất hiện của vai trò người tiêu dùng trên thị trường, vai trò mới của các doanh nghiệp Việt Nam, và sự đổi mới của cơ chế chính sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vẫn đề tồn tại về chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam: không ít mặt hàng có chất lượng kém không đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng; nhiều mặt hàng còn đơn điệu không chịu cảI tiến để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của khách hàng; không ít hàng không đảm bảo được các chỉ tiêu về an toàn, vệ sinh về các yếu tố độc hại trong thực phẩm.
Khả năng cạnh tranh về giá cũng gặp nhiều khó khăn do giá thành sản xuất trong nước cao, chi phí của các yếu tố đầu vào cho sản xuất cao (như điện, nước, xăng dầu, cước viễn thông. Hiện nay, đa số hàng hoá của các doanh nghiệp nhà nước độc quyền có giá cao hơn so với các nước trong khu vực, chẳng hạn giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hưon 70%, cước phí vận tải biển 27%, xi măng 7%, thép xây dựng cao hơn 20 USD/tấn, chi phí điện thoại quốc tế cao gấp 7 lần so với Singapore, gấp 2 lần so Trung Quốc, giá thuê đất ở các thành phố của Việt Nam cao hơn ở Trung Quốc bình quân là năm lần, cao hơn Thái Lan sáu lần.), nguồn nguyên liệu vật liệu để sản xuất các mặt hàng có hàm lượng chất xám cao thường phải nhập khẩu từ bên ngoài. Một số mặt hàng được đánh giá là có chất lượng tốt nhưng lại có giá quá cao nên khó cạnh tranh, lại có những mặt hàng có mức giá rất thấp, nhưng do chưa am hiểu luật lệ của nhiều nước nhập khẩu nên bị rơI vào nhiều cuộc kiện tụng về bán phá giá như vụ kiện của Mỹ đối với hàng cá basa của Việt Nam bán phá giá tại thị trường nước họ.
Khả năng cạnh tranh về thương hiệu, việc xây dựng thương hiệu ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa được chú trọng đầu tư đúng mức, đóng góp của giá trị thương hiệu vào sản phẩm xuất khẩu là hầu như không có. Ngoài một số ít các doanh nghiệp có chiến lược xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình và đã khá thành công trên thị trường trong nước cũng như quốc tế như Trung Nguyên, Thái Tuấn, Kinh Đô, Kim Đan, Biti’s còn rất nhiều doanh nghiệp có thể là chưa có khái niệm về thương hiệu một cách đúng nghĩa. Có thể thấy điều này cũng dễ hiểu bởi các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là làm gia công cho nước ngoài, do vậy mọi vẫn đề về thương hiệu là do phía đối tác nước ngoài quyết định. Khi các doanh nghiệp bắt đầu xuất khẩu hàng hoá với thương hiệu riêng của mình thì gặp phảI không ít lúng túng, rắc rối. Bắt đầu từ các vụ kiện cáo về tranh chấp thương hiệu như của các thương hiệu: Catfish, Trung Nguyên, Vifon... đã tốn không ít tiền của và công sức của các doanh nghiệp, không những thế còn ảnh hưởng xấu đến uy tín của doanh nghiệp và còn nhiều vụ phải chịu thua. Chỉ cần qua bao bì của các hàng hoá cũng cho thấy nhiều bức xúc, có mặt hàng không có nhãn hiệu hoặc có nhưng không ghi đầy đủ thông tin cần thiết, chủ yếu của hàng hóa đó, hay không ghi đúng quy cách đã quy định, lại có những mặt hàng trên nhãn hiệu, bao bì hầu như không dùng tiếng Việt, hoặc có thì ghi rất nhỏ, còn tiếng Anh lại chiếm phần lớn, hoặc là những thứ chữ ghép nhau không thuộc ngôn ngữ gì.
Khả năng cạnh tranh về khía cạnh dịch vụ trước, trong và sau khi xuất khẩu của Việt Nam chưa cao do do hệ thống ngân hàng chưa phát triển, khả năng cung cấp chuyên chở chưa hoàn thiện (Việt Nam chủ yếu bán theo giá FOB và mua theo giá CIF), hệ thống thông tin bưu chính viễn thông cung cấp dịch vụ với giá tương đối cao so với trên thế giới.
Nhiều mặt hàng của Việt Nam được đánh giá là có triển vọng và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao hiện nay lại là những ngành có sự bảo hộ của nhà nước như may mặc, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ. Yếu tố quyết định nhất khả năng cạnh tranh là năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lý thì lại rất kém.
Xét trong một số ngành có sản phẩm xuất khẩu cũng cho thấy nhiều vẫn đề tồn tại.
Với ngành công nghiệp, lợi thế cạnh tranh của nhiều mặt hàng phần lớn là dựa vào nguồn lao động rẻ và tài nguyên sẵn có, những lợi thế đang mất dần trong quá trình hội nhập. Việc xây dựng năng lực cạnh tranh cho ngành công nghiệp nói chung và từng sản phẩm nói riêng phải đi theo hướng phát huy khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Các sản phẩm trong ngành sản xuất giấy thể hiện sức cạnh tranh kém nhất, công nghiệp giấy của Việt Nam kém nhất trong số các nước ASEAN. Năm 2001, tổng sản lượng giấy của Việt Nam đạt 340.000 tấn, trong khi của Inđonêxia là 9.9 triệu tấn. Chất lượng giấy còn thấp, nhiều chủng loại giấy cao cấp chưa được sản xuất, phần lớn nguyên liệu phải nhập khẩu, giá thành luôn cao hơn giá nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do thiết bị công nghệ lạc hậu, hơn 30 năm qua hầu như ngành giấy không có đầu tư lớn mà chủ yếu là sửa chữa và nâng cấp máy móc cũ. Do năng xuất thấp, chi phí sản xuất cao hơn các nước trong khu vực. Cạnh tranh sẽ hết sức gay gắt và đối thủ chính là inđônêxia.
Ngành sản xuất vật liệu xây dựng cũng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, tuy những năm qua ngành sản xuất nguyên vật liệu đã có những bước phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà máy sản xuất xi măng, gạch ốp lát, kính xây dựng có công suất lớn, kỹ thuật khá hiện đại được xây dựng bằng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Nhưng hiện nay giá xi măng đóng bao của ta còn cao hơn so với một số nước ASEAN từ 10-20%, giá xi măng của Việt Nam hiện nay là 43-60USD/tấn, trong khi Thái Lan là 40USD/tấn, của Inđônêxia là 47.7USD/tấn. Tương tự, giá gạch ốp của ta là 4.36-5.5USD/m2, trong khi Thái Lan là 3.3-3.8USD/m2, Inđônêxia là 2.4-2,5USD/m2. Nguyên nhân chính là do chi phí nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào quá cao. Hiện nay giá điện dùng trong sản xuất của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực 20-25% (và còn tiếp tục tăng). Tiêu hoa năng lượng sản xuất của nước ta còn rất lớn, trung bình ở các nước là 95Kwh/tấn xi măng, còn ở nước ta là 100-140Kwh/tấn. Khâu khai thác chế biến còn manh mún, công nghệ lạc hậu.
Ngành sản xuất, lắp ráp điện tử non trẻ ở nước ta mới thực sự hình thành và phát triển mạnh trong thời gian hơn một chục năm gần đây, tức là sau khi các nước ASEAN vàI chục năm. Hiện nay, có thể chia các doanh nghiệp trong ngành điện tử thành hai loại: các doanh nghiệp xuất khẩu toàn bộ sản phẩm như Công ty Fujisu, Canon và các doanh nghiệp chủ yếu tiêu thụ sản phẩm trong nước. Hiện nay các doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử nước ta chủ yếu mới làm công đoạn lắp ráp sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên công đoạn này chỉ chiếm 2% trong tổng chi phí sản xuất của ngành điện tử. Giá thành của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều cao hơn so với giá từ các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaixia, Trung Quốc. Nguyên nhân chủ yếu là ta phảI nhập khẩu linh kiện từ nước ngoàI với giá cao, trong khi các nước ASEAN có nguồn cung cấp tại chỗ với giá rẻ. Chi phí lắp ráp của Việt Nam cũng cao hơn so với các nước ASEAN bởi nguyên nhân là các doanh nghiệp nước ta có quy mô nhỏ, công suất thấp. Năm 2002 sản lượng tivi lắp ráp ở Việt Nam là 1.5 triệu chiếc, trong khi đó một tổ hợp lắp ráp tivi ở Malaixia có thể đạt công suất 30 triệu chiếc một năm, nhờ đó mà chi phí của họ rất thấp.
Trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản, việc dựa vào yếu tố còn rõ ràng hơn. Hiện nay chi phí sản xuất trung bình đối với lúa là 950đ/kg lúa. Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, chi phí sản xuất chỉ có 580-600đ/kg lúa, chỉ bằng 80-95% so với Thái Lan. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí lao động chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan, đồng thời năng suất cao hơn gấp 1.5 lần. Tuy nhiên, lợi thế đó không tạo ra sức cạnh tranh thực sự của mặt hàng này. Hiện nay, các khâu sau thu hoạch của Việt Nam như phơi sấy, bảo quản, chế biến sau gạo đều kém Thái Lan. Tỷ lệ tổn thất sau khi thu hoạch lúa của nước ta rất cao, từ 13-16% trong khi Thái Lan là 7-10%, Nhật Bản chỉ là 3.9-5.6%. 80% tổng sản lượng thóc vẫn được xay xát tại các cơ sở nhỏ không có thiết bị đồng bộ. Sản phẩm gạo xuất khẩu của Việt Nam thua kém cả về chất lượng lẫn chủng loại. Do vậy, ta luôn phảI bán với giá thấp hơn rất nhiều, gạo 100% B của Thái Lan hiện giá 202 USD/tấn theo giá FOB, còn gạo 5% tấm của Việt Nam hiện khoảng 183-185 USD/tấn theo giá FOB, gạo 25% tấm bán khoảng 164-165 USD/tấn, FOB. Gạo 5% tấm của ấn Độ là 192 USD/tấn.
Có thể lấy ngành Thuỷ Sản để phân tích sâu hơn. Về chất lượng sản phẩm: Theo đánh giá của các nhà nhập khẩu Mỹ: do nuôi tôm và cá ở Việt Nam chủ yếu mang tính quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp ở Thái Lan và Inđônesia. Tuy nhiên trong khâu chế biến ta còn phi chú ý nhiều đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và hàm lượng kháng sinh trong sản phẩm chế biến. Về quy cách sản phẩm: Phần lớn tôm chín bán ở các nhà hàng, siêu thị với cỡ phổ biến 31/40 – 51/60 và đây là cỡ trở thành sở thích tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển, tuy nhiên chỉ có khu vực miền Trung của nước ta là cung cấp hàng khá phù hợp. Lượng tôm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ có cỡ lớn hơn 70 chiếm đến hơn 80%, chỉ 20% đạt tiêu chuẩn thị hiếu. Giá cả xuất khẩu: Giá tôm của Việt Nam 5 năm trước đây thường thấp hơn giá tôm của Thái Lan, ấn Độ, cùng một chủng loại nhưng nhờ uy tín về chất lượng tăng cho nên giá tôm có cao hơn so với các nước khác. Cá basa và các loại cá khác của Việt Nam có giá thấp ơn cá nheo của Mỹ.
Bảng 21: Giá của một số mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đơn vị: USD/kg
Tên hàng
2000
2001
Tôm sú bỏ đầu cỡ 4-6 pounds/con
26,5
21,85
Tôm sú bỏ đầu cỡ 6-8 pounds/con
24,85
20,85
Tôm sú bỏ đầu cỡ 16-20 pounds/con
17,15
13,35
Cá basa
3,35
3,65
Nguồn: VASEP, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
3. Cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
Đối với Việt Nam, với mục tiêu của cơ chế thị trường đặt ra đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh, cạnh tranh vì mục tiêu phát triển đất nước. Do đó, mọi chính sách kinh tế đều nhằm mục tiêu phát triển toàn diện nông-lân-ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ hải sản, đổi mới cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống. Cơ chế thị trường cũng đòi hỏi phát triển nhanh một số ngành công nghiệp có lợi thế, có sức cạnh tranh trên thị trường, hướng mạnh về xuất khẩu, hình thành một số ngành sản phẩm mũi nhọn trong các ngành chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và tin học, cơ khí chế tạo và sản xuất vật liệu.
Một thực tế là hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới rất yếu về cả mặt chất lượng, giá cả và dịch vụ. Lý do thứ nhất, xuất phát từ thực trạng sản xuất trong nước, Việt Nam còn thiếu nhiều cơ sở vật chất, trình độ khoa học kỹ thuật thấp và cán bộ quản lý còn yếu kém kỹ năng dẫn tới hàng hoá sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập, chất lượng kém mà giá thành sản xuất lại cao, điều này khiến cho Việt Nam bị thua ngay trên sân nhà, thế nên việc cạnh tranh trên thị trường nước ngoàI lại càng khó khăn hơn. Lý do thứ hai, việc chúng ta không đạt được tối huệ quốc (MFN) và ưu đãi thuế quan cũng làm tăng giá hàng hoá của Việt Nam ở thị trường nước nhập khẩu. Dịch vụ cung cấp hàng hoá của ta vẫn còn kém ngay từ tất cả các khâu dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng do sự kém nhạy bén, kỹ năng thấp của cán bộ xuất khẩu.
Từ những yêu cầu thực tế của nền kinh tế thị trường hướng vào xuất khẩu và trong điều kiện tự do hoá thương mại trong khu vực ASEAN cũng như Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của những thập kỷ 2001-2010, tầm nhìn 2020 là phải nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường thế giới nhằm phát triển đất nước, những yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam: để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới thì phải đồng thời tăng cường được sức cạnh tranh của hàng hoá ở thị trường trong nước.
PHẦN III: GIẢI PHÁP NĂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM
I. Tầm vĩ mô về quản lý nhà nước
Một là, Quá trình sản xuất và đầu tư trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải hướng vào những sản phẩm tận dụng được lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và thế giới. Mọi phương án sản phẩm phải đặt trong quan hệ so sánh hiệu quả về chất lượng và giá cả với hàng hoá nước ngoài. bất kỳ dự án đầu tư nào cũng phải đặt mục tiêu cạnh tranh của hàng hoá lên hàng đầu. Với dự án sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thì sản phẩm đó cũng phải đạt được cạnh tranh về giá cả và chất lượng với hàng cùng loại của nước ngoài trên thị trường trong nước. đồng thời việc xác định sức cạnh tranh của một ngành sản xuất hay một doanh nghiệp là không đơn giản chỉ dựa vào nội lực của ngành hay doanh nghiệp đó, mà còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh tổng thể của các khâu từ khai thác nguyên liệu, vận tải, lưu thông và hoạt động tín dụng, thanh toán trong nền kinh tế.
Hai là, Hoàn thiện chính sách cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển sản xuất và xuất khẩu. Các doanh nghiệp này thường sản xuất sản phẩm dưới dây truyền công nghệ cao, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và đóng góp vào mức tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Ba là, Sự bảo hộ hợp lý cho các ngành mới tham gia hội nhập trong thời kỳ đầu, và với những mặt hàng mũi nhọn của của nhà nước cho các doanh nghiệp sản xuất có khả năng cạnh tranh về khía cạnh giá. Tuy nhiên chính sách bảo hộ này phải được bảo hộ có chọn lựa, không tràn lan với mức bảo hộ giảm dần có sự công bố trước của nhà nước để tránh hiện tượng ỷ lại của các doanh nghiệp. Đồng thời phải tích cực ngăn chặn lượng hàng nhập lậu.
Bốn là, Chúng ta đã thực hiện mở rộng nhập khẩu cả máy móc thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu và hàng tiêu dùng nhằm mục đích kích thích các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt và giá cả hợp lý. Nhưng trong thời gian tới, Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nên vẫn phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho việc nhập khẩu mua sắm máy móc, thiết bị và công nghệ cao để hoàn thiện sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, việc nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ sẽ đòi hỏi một nguồn vốn lớn và chúng ta cần các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực chuyên môn để không bị rơi tình trạng nhập khẩu máy móc thiết bị lạc hậu hơn so với thời điểm hiện tại. với hàng tiêu dùng nên lựa chọn và giảm dần khối lượng nhập khẩu, vừa làm sản phẩm để cho các nhà sản xuất trong nước so sánh để sản xuất.
Năm là, Hoàn thiện cơ chế lưu thông hàng hoá và tăng sức cạnh tranh hàng hoá trong nước. đó là việc xây dựng và hoàn thiện các kênh lưu thông hàng hoá hợp lý, tổ chức những điểm kinh doanh ở vị trí then chốt, thuận lợi cho người tiêu dùng, phối hợp với các ngành để thực hiện tốt các giải pháp kích cầu trong nước, giải quyết tình trạng ứ động hàng hoá. Thực hiện tốt văn minh thương mại trong hoạt động kinh doanh thương mại: ứng xử văn minh, bảo đảm chữ tín trong kinh doanh. Đổi mới phương thức hoạt động và quản lý của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Khôi phục vai trò chủ đạo của thương nghiệp quốc doanh không phải bằng cách tổ chức mạng lưới rộng khắp trên địa bàn mà phảI bằng thực lực kinh tế, nắm chắc các nguồn bán buôn đủ lớn có phương thức kinh doanh phù hợp. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân cả hai lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. đồng thời cần xây dựng các trung tâm cụm xã để hình thành các tiểu vùng kinh tế – xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế – văn hoá, thúc đẩy phát triển khu vực thị trường miền núi.
Sáu là, Nghiên cứu khả năng cạnh tranh. Xác định các ưu thế cạnh tranh tương đối để tập trung đầu tư vào các mặt hàng có ưu thế nhất, tránh đầu tư tản mạn sẽ dẫn đến hiệu quả thấp. Phát huy những lợi thế cạnh tranh tương đối như giá lao động rẻ, lao động dồi dào, tàI nguyên phong phú, yếu tố vị trí đại lý ảnh hưởng tới vận tại và các yếu tố thời tiết khí hậu góp phần làm nên sự khác biệt hoá sản phẩm. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để tránh những khu vực mặt hàng khó cạnh tranh hay Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh. Đồng thời, Việt Nam cần tìm hiểu các chính sách nhập khẩu và thuế quan của thị trường trọng điểm để tìm ra các hướng đi mới cho hàng hoá xuất khẩu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn dựa vào sự thay đổi cơ bản về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Chuyển dần sang các sản phẩm có tính chế biến sâu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới. Chẳng hạn như việc xây dựng và nâng cao uy tín của sản phẩm quốc gia, xây dựng các tổ chức xúc tiến trong và ngoài nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu.
Bảy là, trong tương lai, ngoài những ngành cần đầu tư tạo điều kiện cho phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, và nguyên vật liệu tái sinh, công nghệ sản xuất và bảo vệ môi trường… là những ngành mà sức cạnh tranh phụ thuộc lớn vào hàm lượng tri thức và khoa học công nghệ, ít phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên sẵn có như lao động, tài nguyên, đất đai…. Để cạnh tranh được trên thị trường khu vực cũng như thế giới thì ngay tại thời điểm chuẩn bị cho hội nhập và tự do hoá thương mại này, việc xác định phát triển nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng. Ngày nay, các quốc gia phát triển thường lấy nhân tố con người là khởi nguồn cho mọi sự phát triển. Vì vậy, Việt Nam cần đầu tư vào các việc đào tạo và có chính sách thích hợp để sử dụng nguồn nhân lực này, tránh như trường hợp trong giai đoạn hiện nay, nguồn nhân lực chất xám của Việt Nam đã bị chảy máu tới mức báo động.
Việc hoạch định chính sách của nhà nước về ngoại thương, đầu tư phát triển và khuyến khích sự tham gia của đa thành phần kinh tế vào sản xuất kinh doanh sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường khu vực và thế giới.
II. Tầm vi mô về quản trị doanh nghiệp
1. Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá
Thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không phải in ra giấy tờ trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Thông tin ở đây bao gồm tất cả những gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử như: tệp văn bản, cơ sở dữ liệu, bản tính, bản vẽ kỹ thuật bằng máy vi tính, hình đồ hoạ (quảng cáo, hỏi hàng, hoá đơn, biểu giá), hình ảnh động, âm thanh.
Thương mại điện tử giúp công ty cắt giảm nhanh chi phí liên quan đến hàng hoá. Giảm chi phí sản xuất bao gồm việc cắt giảm chi phí thuê văn phòng giao dịch, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị thông qua internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch với nhiều khách hàng khác nhau, catalog điện tử trên các mạng Web thường phong phú và cập nhật hơn rất nhiều, việc cập nhật dễ dàng và không tốn kém so với các catalog in ấn. Ngoài ra, giao dịch qua mạng internet (từ quảng cáo đến tiếp xúc ban đầu, đặt hàng, giao hàng, giao dịch thanh toán) đảm bảo về cả không gian, thời gian, tốc độ. Chi phí giao dịch qua internet sẽ giảm đi rất nhiều so với giao dịch bằng điện thoại hay Fax. Chi phí thanh toán tiền đơn giản và nhanh chóng, không những vậy nó còn thấp hơn rất nhiều so với thanh toán thông thường (bằng 10-20% thanh toán thông thường)
Giúp khách hàng tham gia vào quá trình tìm kiếm và mua bán hàng hoá ở mọi nơi, với mọi thời gian. Cũng thông qua đây doanh nghiệp có thể nắm bắt được thông tin phong phú hơn từ môi trường bên ngoài cũng như là môi trường bên trong doanh nghiệp, đặc biệt là thông tin về khách hàng. từ đó có cơ sở để lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển với thị trường trong nước và quốc tế.
Sơ đồ 5: Các bước nghiệp vụ giao dịch B2C
Người mua
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp
Dịch vụ sau bán hàng
OTS của người bán hàng
Phần mềm quản trị bán hàng
Phần mềm quản trị kho hàng
Kho hàng
Đơn vị vận tải
Hệ thống dịch vụ thanh toán
Ngân hàng của người bán
Ngân hàng của người mua
PN
Thương mại điện tử giúp thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: khách hàng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục thông qua liên lạc trực tuyến không kể tới khoảng cách. Doanh nhân có thể dễ dàng tìm kiếm bạn hàng mới, phát hiện cơ hội kinh doanh mới không những trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới mà không tốn kém tiền của.
Đối với quy mô quốc gia, thương mại điện tử còn gián tiếp kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao đóng góp vai trò ngày càng lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá.
Các hình thức phổ biến của thương mại điện tử như: thư tín điện tử, thanh toán điện tử, trao đổi dữ liệu điện tử, mua bán hàng hoá, trao đổi các sản phẩm mà không cần tới vật mang tin, bán lẻ các hàng hoá hữu hình, quảng bá sản phẩm.
Các yếu tố cần thiết để sử dụng thương mại điện tử: hạ tầng cơ sở công nghệ, hạ tầng cơ sở nhân sự, trình độ công nghệ thông tin, bảo mật, an toàn, bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp luật (việc thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử, chữ kỹ điện tử, bảo vệ hợp đồng thương mại điện tử, thanh toán điện tử, pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập, quy định pháp lý đối với dữ liệu xuất phát từ nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước), sự hiện đại của khoa học và kỹ thuật.
Một ứng dụng rất lớn của thương mại điện tử đó là mua bán trực tuyến (B2C), thể hiện dưới sơ đồ sau cùng với những yếu tố cần thiết để thực hiện phương thức kinh doanh này.
Sơ đồ 6: Các yếu tố công nghệ hỗ trợ giao dịch B2C
Khách hàng trực tuyến
(1)
(3)
Website của doanh nghiệp
Máy chủ mạng cung cấp dịch vụ trực tuyến (Online Transaction Server - OTS) (4)
(2)
Internet
Hệ thống mạng xử lý (Processing Network - PN) (5)
Ngân hàng của khách hàng (6)
Ngân hàng của doanh nghiệp (7)
2. Giải pháp xây dựng chiến lược xuất khẩu tại các doanh nghiệp
Thứ nhất, các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa nhận thức về công tác xây dựng chiến lược xuất khẩu. Cần phải có quản điểm biệm chứng,cần nhìn xa trông rộng, cần phải đoán được các rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu của mình. Xây dựng chiến lược có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp hiện nay. Do vậy, nâng cao nhận thức là một biện pháp có tính toàn diện.
Thứ hai, có giải pháp đủ mạnh để nâng cao năng lực lãnh đạo của các nhà quản lý trong các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Năng lực của nhà lãnh đạo là một yếu tố có tính tổng hợp, phụ thuộc vào trình độ đào tạo và nhận thức, kinh nghiệm và môi trường, không ngoại trừ yếu tố bẩm sinh, ngoài ra nhà doanh nghiệp cần phải có 4 kỹ năng: năng động, tập thể, thường xuyên được đào tạo, được giao quyền.
Thứ ba, doanh nghiệp phải xác định và xây dựng cho được ưu thế cạnh tranh riêng của mình. Các nhà lãnh đạo phải biết tạo dựng lợi thế trong cuộc cạnh tranh thì có thể tạo ra sự cộng hưởng lợi thế so sánh của quốc gia cũng như của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp = lợi thế so sánh quốc gia + khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (khả năng + ưu thế).
Trong đó khả năng gồm cơ chế pháp luật, cơ cấu tổ chức, quy trình làm việc, người quản lý và phong cách quản lý; ưu thế gồm hàng hoá dịch vụ, uy tín nhãn hiệu sản phẩm, chính sách ưu tiên của nhà nước về xuất khẩu, đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ tư, xác định rõ chiến lược kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp, như là thị phần, trình độ khoa học công nghệ, tạo dựng sản phẩm, nâng cao vị thế, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ năm, lựa chọn phương án chiến lược phát triển phù hợp. Việc lựa chọn phương án có nhiều cách khác nhau, tuỳ theo điều kiện và môi trường kinh doanh ở từng nơi, từng địa điểm. Hiện nay có các phương pháp đang được áp dụng như: TOWS, SPACE, IEM, BCG, GRANT, QSPM, Mc.KINSEY.
Thứ sáu, các doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các bước để xây dựng chiến lược xuất khẩu:
Nghiên cứu thị trường trong nước và tìm ra mặt hàng xuất khẩu có lợi nhất
Nghiên cứu thị trường nước ngoàI tìm ra thị trường tiềm năng cho hàng hoá mà mình đã lựa chọn
Nghiên cứu khách hàng của đối thủ cạnh tranh
Xác định vị trí của doanh nghiệp mình trên thị trường cạnh tranh
Nghiên cứu điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp
Xác định cho được ưu thế
Xác định mục tiêu xuấtkhẩu
Lựa chọn chiến lược tối ưu
Phân bổ nguồn lực thực hiện chiến lược
Kiểm tra việc xây dựng và thực hiện thông qua toàn bộ quá trình
Thứ bảy, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải có chiến lược xây dựng thương hiệu của mình ở cả thị trường trong và ngoài nước. Cần quan tâm và đầu tư đúng mức cho việc xây dựng và quảng bá và bảo vệ thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, điều này có ý nghĩa rất lớn khi hội nhập. Trong cạnh tranh, giá cả và chất lượng của sản phẩm là điều sống còn, nhưng điều không kém phần quan trọng là phải làm cho khách hàng biết đến sản phẩm của mình, tin tưởng và trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp. Bởi vì cạnh tranh trong điều kiện hội nhập và bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ, thì không chỉ đơn thuần là cạnh tranh về giá cả, chất lượng mà còn là cuộc chiến về thương hiệu.Theo thời báo kinh tế Việt nam số 75, ngày 10/5/2003, Kết quả cuộc khảo sát gần đây cho thấy, có 75% doanh nghiệp đầu tư dưới 5% doanh số cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu, 20% doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu. Trong khi đó theo một điều tra ở một thành phố lớn cho biết có tới 80% khách hàng cho là thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ mua sắm.
Thứ tám, các doanh nghiệp việt nam cần áp dụng một phương pháp xây dựng chiến lược phù hợp.
3. Cải tiến công nghệ
Để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trước hết các doanh nghiệp cần phải tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, đây là yêu cầu có tầm quan trọng hàng đầu và cần phải đặt vào nhiệm vụ trọng tâm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới công nghệ cần xác định rõ chứ không phải công nghệ cao, hiện đại là tốt, mà vẫn đề là doanh nghiệp phải lựa chọn được công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động nhằm tối ưu hoá việc kết hợp các nguồn lực để đạt kết quả cao. Qua đó mới có thể nâng cao được năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh thắng lợi. Cùng với đổi mới công nghệ cần phải có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường công tác quản lý chất lượng, áp dụng các hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000.
4. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Do quản lý chất lượng có tác động trực tiếp tới mọi khâu và mọi yếu tố có liên quan đến chất lượng sản phẩm, từ khâu ra chiến lược, chính sách, mục tiêu chất lượng đến khâu đổi mới công nghệ, tổ chức thực hiện, kiểm tra, xử lý các sai lệch so với kế hoạch đề ra, lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp cần nắm lấy công cụ này và phải là người có trách nhiệm cao nhất trong việc đổi mới quản lý chất lượng trong doanh nghiệp mình. Quản lý chất lượng phải trở thành một phần hữu cơ trong guồng máy quản lý chung của doanh nghiệp.
Việc coi trọng yếu tố con người và yếu tố quản lý chất lượng trong quá trình giải quyết các vẫn đề về chất lượng không chỉ vì tầm quan trọng và tính thực tiễn của các yếu tố đó để giải quyết kịp thời, hợp lý những mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách không thể trì hoãn của giai đoạn trước mắt mà còn vì tầm quan trọng mang tính chiến lược lâu dài để giúp ta tăng nhanh và vững chắc tính cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Tạo lập yếu tố con người Việt Nam như một yếu tố chủ chốt của phương thức quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp nước ta là một công việc vô cùng khó khăn phức tạp, đòi hỏi sự kiên trì, tỷ mỉ và tính chủ động sáng tạo, tuyệt đối không phải là một công việc mang tính hô hào, cổ động chung chung, không thể tiến hàng theo lối chủ quan, tuỳ tiện, hời hợt. Doanh nghiệp nào làm tốt được việc này sẽ tạo được tài nguyên vô hình có ưu thế cạnh tranh cực lớn, mở ra tiềm năng vô tận cho sự phát triển không ngừng của doanh nghiệp.
Cùng với việc ứng dụng thương mại điện tử thì việc ứng dụng các giải pháp quản lý chất lượng trực tuyến cần được thúc đẩy áp dụng, nó sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho các doanh nghiệp khi hoạt động trên diện rộng vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Những giải pháp này nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho không những hàng hoá xuất khẩu mà cả vị thế cạnh tranh của quốc gia cũng được nâng cao hơn.
KẾT LUẬN
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ tiếp tục hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trước mắt là AFTA, những năm tới là WTO, những nguy cơ và thách thức vì thế sẽ ngày càng tăng lên. Nhưng bên cạnh đó cơ hội và lợi ích sẽ rất lớn. Để thu hút được lợi ích và hạn chế bất lợi trong quá trình hội nhập, đòi hỏi phải tăng cường sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và đặc biệt là của hàng hoá xuất khẩu. Điều đó chỉ thực sự có được nếu có sự phối hợp đồng bộ các giải pháp của Nhà nước và doanh nghiệp.
Để giải quyết vẫn đề này thì một vào giải pháp sẽ không bao giờ đủ thực hiện, trong đề tài này tôi cũng không thể nêu được toàn bộ các giải pháp mang tính vĩ mô cũng như là vi mô, những giải pháp đó cũng chỉ giải quyết một số khía cạnh khái quát của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, do vậy đề tài này còn có thể tiếp tục được các bạn nghiên cứu và phát triển thêm cho phù hợp hơn với từng giai đoạn phát triển nhanh chóng ngày nay.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của một người thầy trong việc hướng dẫn và sửa chữa đề tài này, cùng với sự tham gia của các công ty trong cuộc điều tra “năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu” của tôi, đồng thời sự góp ý kiến của các bạn sinh viên đã giúp tôi hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC2357.doc