Đề án Nhiệm vụ và các giải pháp giải quyết việc làm trong kế hạch 5 năm (2001-2005 )

Cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì vấn đề giải quyết việc làm luôn là một vấn đề nóng bỏng của toà xã hội. Giải quyết việc làm có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Một yêu cầu đặt ra đói với đảng và nhà nước ta là phải có những giải pháp phù hợp để có thể giải quyết việc làm cho người lao động. Giải quyết được vấn đề về lao động và việc làm sẽ tạo ra sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế.

doc36 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 712 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nhiệm vụ và các giải pháp giải quyết việc làm trong kế hạch 5 năm (2001-2005 ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời sống xã hội và ảnh hưởng xấu tới sự phát triển nhân cách của con người. Con người có nhu cầu lao động không chỉ vì lao động là nguồn gốc của thất nghiệp, mà lao động còn là điều kiện để phát triển nhân cách, để khẳng định mình là môi trường giao tiếp xã hội. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, trong nhiều trường hợp thất nghiệp làm mất đi lòng tự trọng, lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của nhiều vụ tội phạm, đổ vỡ hạnh phúc gia đình Vai trò của lao động và giải quyết việc làm. *. Lao động là hành động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng xuất chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Lao động là quá trình xảy ra giữa con người và thiên nhiên, qua đó con người tác động cách có ý thức và mục đích vào thế giới tự nhiên để biến nó thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội thì người lao động đóng vai trò tích cực, chủ động và quyết định. Người lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Mặt khácngười lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần cho con người. Mục tiêu và động lực chính của phát triển là vì con người vì vậy lao động luôn là nhân tố quyết định. *Giải quyết việc làm Mục đích cuối cùng của nghiên cứu việc làm là đề xuất ra các giải pháp giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc làm thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm. Đây là một vấn đề còn được ít chú ý khiđề cập đến vấn đề giải quyết việc làm. Do nhiều lí do khác nhau nên số lượng việc làm luôn luôn bị hạn chế. Trong xã hội thường có số lượng người nhất định không có việc làm. Điều này chỉ không chỉ gây ảnh hưởng đến bản thân người không có việc làm mà còn đến xã hội. Họ không những không đóng góp cho xã hội mà trái lại còn phải trợ cấp cho họ. Tình trạng không có việc làm còn tạo ra sự căng thẳng về mặt xã hội, 1 trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy vấn đề giải quyết việc làm có vai trò và nhiệm vụ hết sức qua trọng kế hoạch không chỉ của các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý xã hội mà của mỗi con người. Kế hoạch giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Nội dung của kế hoạch giải quyết việc làm a. Xác định nhu cầu lao động xã hội cần có trong thời kỳ kế hoạch *Khái niệm Tổng nhu cầu lao động xã hội kỳ kế hoạch là nhu cầu thu hút và giải quyết (huy động) người lao động vào trong các lĩnh vực kinh tế xã hội của thời kì kế hoạch, tổng chỗ làm việc mà các lĩnh vực kinh tế xã hội có khả năng giải quyết. *Các nhân tố ảnh hưởng Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu coi các yếu tố kế hoạch các kế hoạch không đổi thì nó phụ thuộc số lượng lao động và năng suất lao động. Nếu với mức năng suất lao động nhất định trên cùng một phương hướng, lượng nhu cầu lao động xã hội do quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kih tế quyết định kế hoạch quy mô ngày càng được mở rộng, tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì nhu của lao động càng lớn –Trình độ và tốc độ nâng cao năng xuất lao động. Khả năng quy mô sản xuất xã hội ở mức nhất định, năng suất lao động ngày càng cao thì sức lao động cần càng ít, do đó năng suất lao động là đại lượng tỉ lệ nghịch biến với nhu cầu lao động. Sự thay đổi trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu hoạt động kinh tế xã hội. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng sức lao động kế hoạch khác nhau, có hoat động cần 1 lượng sức lao động lớn, có hoạt động chỉ cần tương đối ít sức lao động bởi vậy kết cấu hoat động kinh tế xã hội, biến đổi cũng gây ảnh hưởng đến tổng lượng nhu cầu sức lao động xã hội . Khả năng đổi mới sức lao động ở một thời kì nhất định, do các nguyên nhân sức lao động vốn đang làm việc có 1 bộ phận rời khỏi kế hoạch Chỗ làm việc, cần có sức lao động mới thay thế và bổ sung. Bởi vậy, thay thế, đổi mới sức lao động ảnh hưởng đến nhu cầu sức lao động xã hội .*phương pháp xác định b.Xác định khả năng cung cấp lực lượng lao động xã hội kỳ kế hoạch. -Khái niệm: Khả năng cung cấp lực lượng lao độngxã hội là bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động có đủ khả năng tham lao động, đang tham gia lao động và có nhu cầu tìm việc làm. Các nhân tố ảnh hưởng + Quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số. Quy mô dân số mở rộng hay thu hẹp, tăng trưởng dân số nhanh hay chậm chi phối sự biến động của bộ phận dân số trong tuổi lao động. + Tình hình cấu tạo tuổi tác của dân số. Cùng 1 tổng lượng dân số như nhau có thể hình thành lượng tài nguyên sức lao động khác nhau nguyên nhân là do cấu tạo tuổi tác của dân số, cho nên mức độ ăn khớp giữa cấu tạo tuổi tác của dân số với quy định tuổi lao động sẽ chi phối lượng tài nghuyên sức lao động của 1 tổng lượng dân số nhất định. + Quy định độ tuổi lao động phụ thuộc sự phát triển trong tâm sinh lí của con người, nhu cầu phát triển xã hội, trình độ phát triển của thế giới bên ngoài. *Phương pháp xác định Cân đối giữa nhu cầu và khả năng, đưa ra các ghải pháp xử lí Thông thường ở Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung khi thực hiện cân đối cung cầu sức lao động xã hội tồn tại 1 thực tế: nhiệm vụ giải quyết việc làm thường lớn hơn khả năng, tức là cung lớn hơn cầu về mặt số lượng. Tình hình đó đòi hỏi phải điều tiết cả 2 mặt cung và cầu. Một mặt giữ cho dân số tăng trưởng không quá cao để hạn chế quy mô tăng sức lao động, giảm nhẹ áp lực xã hội do số lượng tài nguyên sức lao động quá thừa, đồng thời nâng cao chất lượng của dân số nhất là của sức lao động để thoả mãn nhu cầu. Mặt khác điều chỉnh và sắp xếp hợp lí kết cấu sản nghiệp, đặc biệt là căn cứ vào tình hình nhân lực của đất nước để điều tiết phương hướng phát triển các hoạt động kinh tế xã hội nhằm tạo ra nhiều chỗ làm việc nhiều hơn, sản phẩm có hiệu quả tài nguyên sức lao động. Các giải pháp, chính sách nhằm khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả lao động. Khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả người lao động là yêu cầu tất yếu của xã hội hoá nền sản xuất lớn, là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế hàng hoá. Theo đà tiến bộ của kĩ thuật và không ngừng nâng cao trình độ sức sản xuất đòi hỏi phải có sự khai thác, huy động và sử dụng 1 cách hợp lí. Trong cơ chế tập trung, việc lưu chuyển sức lao động giữa các ngàng các địa phương được thực hiện theo sự khống chế trực tiếp của cấp trên bằng các chỉ tiêu cụ thể. Phương pháp này có những hạn chế: Đối với những người có sức lao động cũng rơi vào tình trạng không được lựa chọn nơi làm việc dẫn đến vị trí công việc không phù hợp làm giảm động lực của người lao động. Đối với đơn vị có nhu cầu lao động không được lựa chọn chủ động tuyển dụng lao động dẫn đến việc sử dụng lao động kém hiệu quả. Cung lao động lớn hơn cầu lao động làm cho động lực cạnh tranh bị giảm đi và tạo nên các hiện tượng giả tạo vừa thiêú hụt lại vừa ngưng đọng sức lao động. Như vậy phương pháp kế hoạch hoá tập trung sức lao động đã gây ra sự mất cân đối trong bố trí, mất hiệu quả trong sử dụng. Cần thiết phải cải cách để xây dựng cơ chế mới lựu chuyển sức lao động. Trong cơ ché mới, với mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng lực lượng lao độngxã hội , mở rộng cơ chế tt trong lĩnh vực lao động và có sự tác độngmang tính điều tiết vĩ mô trong vấn đề khai thác và sử dụng nguồn lực. Với những mục tiêu đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện các nd: Thực hiện triệt để cơ chế ttld đó là các đơn vị kinh tế và người lao động thông qua ttld để thực hiện---của mình Chính phủ thông qua các cơ quan quản lý điều tiết vĩ mô khai thác huy động sử dụng người lao động, phối hợp giữa các cơ quan để thực hiện lập kế hoạch người lao động, sử dụng các chính sách vĩ mô như chính sách tiền lao động, đầu tư, chính sách đào tạo để khai thác và huy động 1 cách hợp lí. Trực tiếp quản lí và phân bổ 1 == lao động kế hoạchan hiếm gắn họ với 1 chế độ thù lao thích đáng. 2.Mỗi quan hệ kế hoạchh người lao động với hệ thống kế hoạch kế hoạchhnld là một bộ phận trong hệ thống kế hoạchh phát triển kinh tế xã hội nó xác định quy mô cơ cấu chất lượng của bộ phận dân số cần có trong kinh tếkế hoạch, xây dựng 1 số chỉ tiêu xã hội của lao động như nhu cầu việc làm mới nvụ giải quyết việc làm, mức tăng thất nghiệp bình quân của người lao động đồng thời đưa ra các chính sách cần thiết nhằm khai thác, huy động và sử dụng 1 cách có hiệu quả nhất lực lượng lao động. Nếu đứng trên góc độ lao động là một yếu tố nguồn lực thì kế hoạch là kế hoạch biện pháp, là 1 yếu tố để thể hiện tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 1 căn cứ để lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. Nếu đứng trên góc độ lao động là một yếu tố hiệu quả lợi ích thì kế hoạch nguồn lao động là kế hoạch mang tính mục tiêu, mang tính tính chủ động đặt các mục tiêu xã hội của lao động và yêu cầu kế hoạch tăng tổng kinh tế và kế hoạch khác giải quyết. Chương 2: Đánh giá tình hình thực hiện việc làm giai đoạn kế hoạch 5 năm (96-2000). Mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm 96-2000 Mục tiêu Mục tiêu cơ bản Mục tiêu cơ bản của chương trình việc làm đến năm 2000 là nhằm tạo việc làm mới và bảo đảm việc làm cho người có khả năng lao động có yêu cầu việc làm, thực hiện các biện pháp trợ giúp người lao động nhanh chóng có được việc làm đầy đủ, có việc làm có hiệu quả hơn. Thông qua đó giải quyết hợp mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội . Với mục tiêu cụ thể Mỗi năm thu hút thêm 1,3-1,4 triệu người có chỗ làm việc, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75% vào năm 2000. Trong 4 năm, nền kinh tế phải tập trung phát triển để tạo mở 5 triệu chỗ việc làm mới, đào tạo và đào tạo lại nghề cho 4,5 triệu người, nâng tỉ lệ lao động qua đaơ tạo trong lực lượng lao động lên 2,2-2,5 triệu người vào năm 2000. Tổ chức dạy nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người, cho vay vốn để giải quyết việc làm cho 925000 người. Phương hướng: Phương hướng cơ bản có tính chất chiến lược để thực hiện mục tiêu trên hướng tới việc sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nước ta là thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội tổ chức lại toàn bộ lao động xã hội để phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế; kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ là chính phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các vùng kinh tế xã hội dân cư mới để gắn lao động với đất đai và tài nguyên của đất nước, đồng thời mở rộng sự nghiệp đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, phát triển việc làm ngoài nước. Tổ chức đào tạo đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập nghề nghiệp cho lao động xã hội, trước hết là cho thanh niên, nhằm hình thành đội ngũ lao động có cơ cấu, số lượng và chất lượng phù hợp với cấu trúc của hệ thống kinh tế mới và yêu cầu của thị trường lao động. Đa dạng hoá việc làm, trên cơ sơ đó mà đa dạng hoá thu nhập, phát triển các hình thức tố chức sản xuất kinh doanh phong phú và đa dạng trong mối quan hệ đan xen giưã các thành phần kinh tế (kinh tế quốc doanh,kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, hộ gia đình và kinh tế tư bản tư nhân); coi trọng khuyến khích các hình thức thu được nhiều lao động và phù hợp với quy luật phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đối với khu vực thành thị: Phương hướng rất quan trọng là phải gắn với chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở các địa bàn có điều kiện lập các kế khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh của nhà nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao, phù hợp với tính chất công việc thành thị. Theo hướng này, phải đặc biệt quan tâm đến đào tạo và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động thành thị ở trình độ cao, thông qua việc phát triển các trung tâm huấn luyện cao cấp ở một số địa bàn trọng điểm. Một hướng quan trọng khác là phải phát triền các lĩnh vực ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của lao động ở thành thị. Trong đó phát triển khu vực phi kết cấu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ là hướng cần được đặc biệt quan tâm. Đồng thời phải coi gia công xuất khẩu là một quốc sách; lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta là lao động rẻ, dễ tiếp thu kĩ thuật và công nghệ mới lại có nguồn nguyên liệu trong nước, tại chỗ dồi dào. Vì vậy hướng phát triển gia công xuất khẩu là phải đa dạng hóa mặt hàng có công nghệ sử dụng được nhiều lao động như may mặc, da dày, gốm sứ và mở rộng thị trường nhất là thị trường ở các nước phát triển, trong đó coi trọng thị trường khu vực Châu á Thái Bình Dương. Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành phố, thị xã tạo ra nhiều việc làm cho thanh niên thành thị. Đặc biệt ở một số thành phố lớn (như Hà Nội, HCM) các khu công nghiệp tập trung (kể cả khu chế xuất). Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố thị xã, trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội ngoại thành là hướng quan trọng tạo việc làm ho lao động ở thành thị, theo hướng này cần hình thành các vành đai cung cấp và tiêu thụ sản phẩm giừa thành thị và nông thôn, đồng thời chuyển những cơ sở sản xuất công nghiệp thích hợp từ nội thành ra ngoại thành, tạo ra những cụm kinh tế vệ tinh của các thành phố, thị xã. Mặt khác, hình thành hệ thống dịch vụ con thoi giữa nội, ngoại thành để giải quyết việc làm cho lao động thành thị. Đối với khu vực nông thôn: Để giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, từ nay đến năm 2000 phải làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm dần số hộ thuần nông, giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì làm việc ấy, trên cơ sơ giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế chính sách và luật pháp tập trung dần ruộng đất, tạo điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá. Đa dạng hoá việc làm và đa dạng hoá thu nhập phải trở thành hình thức phổ biến trong nông thôn, đặc biệt là phát triển mạnh mẽ chiến lược phi nông nghiệp, xí nghiệp nhỏ ở nông thôn. Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác tự nguyện ở quy mô trên hộ gia đình (Hợp tác liên gia đình...) đồng thời có chính sách và cơ chế khuyến khích những người có vốn kĩ thuật mở rộng hình thức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại (với quy mô từ 10 đến 50 và hàng trăm hecta) ở các tỉnh miền trung, miền núi tây nguyên và Đông Nam bộ là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn nhưng cần ít vốn và hướng vào xuất khẩu, như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao các làng nghề gắn liền với việc đô thị hoá nông thôn, hình thành các thị trấn thị tứ (đặc biệt là trên các trục giao thông ). Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn phải hướng vào những có khả năng thu hút được nhiều lao động. Từ nay đến năm 2000, phải khai thác thêm và sử dụng có hiệu quả 3 triệu hecta đất trống, đồi trọc, diện tích hoang hoá, thông qua các chương trình dự án phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, khai thác các vùng Đông Nan Bộ, Tây Nguyên các dự án lấn biển, khai thác kinh tế biển và các đảo. Các hướng trên phải kết hợp với các dự án di dân, xây dựng các vùng kinh tế xã hội dân cư mới để phân bố lại lao động giữa các vùng và làm giảm sức ép về việc làm. Thực trạng của vấn đề giải quyết việc làm trong kế hoạch (1996-2000) Từ kết quả suy rộng điều tra mẫu quốc gia từ lao động-việc làm hàng năm có thể khái quát môt số vấn đề cơ bản về thực trạng và xu hướng biến động lực lượng lao động cả nước giai đoạn 1996-2000 trên các đặc trưng chủ yếu sau: Quy mô lực lượng lao động. Tính đến ngày 01/7/2000 tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2.7%/năm,trong khi tốc độ tăng dân số hàng năm thời kì là 1.5%/năm. Năm 1996 tỉ lệ lao động chiếm trong tổng dân số nói chung là 48% đến năm 2000 là 50% bình quân mỗi năm tỉ lệ này gia tăng 0.4%. Dưới đây là biểu về quy mô lượng lao đông cả nước năm 1996-2000 Chỉ tiêu 1996 (Người) 2000 (Người) Tăng, giảm bình quân hàng năm 1996-2000 Tuyệt đối (Người) Tương đối (%) 1. Tổng lực lưọng lao động 34.740.509 38.643.089 975.645 2.7 2. LLLĐ chia theo khu vực - Thành thị 6.621.541 8.725.998 526.121 7.14 - Nông thôn 28.118.968 29.917.091 449.524 1.56 3. LLLĐ trong độ tuổi lao động 33.116.761 36.725.271 889.628 2.58 4. LLLĐ chia theo 3 nhóm - LLLĐ trẻ (15-34 tuổi) 19.349.169 19.339.302 -13.717 -0.07 - LLLĐ trung niên (35-54 tuổi) 12.365.505 16.719.276 1.088.433 7.38 - LLLĐ cao tuổi (55 tuổi trở lên) 2.980.835 2.584.511 -99.081 -3.50 5. LLLĐ chia theo trình độ học vấn - Chưa biết chữ 1.999.114 1.547.901 -112.810 -8.19 - Chưa tốt nghiệp cấp I 7.268.634 6.367.490 -225.221 -3.25 - Đã tốt nghiệp cấp I 9.652.627 11.317.132 416.125 4.06 - Đã tốt nghiệp cấp II 11.138.942 12.748.073 402.283 3.43 - Đã tốt nghiệp cấp III 4.681.462 6.662.193 495.258 9.22 6. LLLĐ chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật - Không có chuyên môn kỹ thuật 30.563.419 32.650.666 503.562 1.60 - Đã qua đào tạo (từ sơ cấp/học nghề trở lên0 4.104.090 5.992.423 472.033 9.92 + Sơ cấp/học nghề/CNKT 1.955.404 2.019.746 165.835 7.59 + Trung học chuyên nghiệp 1.342.515 1.870.136 131.905 8.64 + Cao đẳng đại học trở lên 808.171 1.503.541 174.343 16.86 7. Cấu trúc đào tạo của LLLĐ đã qua đào tạo + Cao đẳng đại học trở lên 1 1 - - + Trung học chuyên nghiệp 1.7 1.2 - - + Sơ cấp/học nghề/CNKT 2.4 1.7 - - Bảng 1 Quy mô lực lượng lao động cả nước năm 1996-2000 Trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động : Năm 1996 lực lượng lao động khuvực thành thị chỉ chiếm 19.06% tổng lượng lao động cả nước,năm 2000 đã tăng lên 22.56%; trong khi tỉ lệ lực lượng lao động ở khu vực nông thôn giảm được từ 80.94% xuống còn 77.44%. Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn của lực lượng lao động ở cả hai khuvực thành thị và nông thôn trong những năm qua đã, đang và sẽ tạo thêm thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo dậy nghề cũng như chuyển giao kĩ thuật, nâng cao trình độ kĩ thuật và kinh nghiệm làm ăn tạo mở việc làm. Lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp-học nghề trở nên tăng lên đáng kể cả về số lượng và tỉ lệ trong tổng lực lượng lao động. Năm 1996,tỉ lệ này là 11.81% đến năm 2000 tăng lên 15.51%. Bình quân hàng năm tăng thêm 472.083 người với tốc độ tăng 9.92%/năm. Trong đó tăng nhiều nhất và nhanh nhất là lao động được đào tạo ở trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên (174.343 người với tốc độ tăng 16.86%/năm),tiếp đến là lao động đã qua đào tạo nghề/trên công nhân kĩ thuật (131.905 người với tốc độ tăng 7.58%; thấp nhất là tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp cũng tăng lên được hàng năm 131.905 người với tốc độ tăng 8.64%. ở các vùng lãnh thổ; khuvực thành thị, nông thôn, các tỉnh trọng điểm và nhiều tỉnh trong cả nước cũng diễn ra xu hướng tương tự. Cơ cấu lực lượng lao động. Chia theo nhóm ngành năm 2000 có sự chuyển dịch rõ rệt, so với năm 1996 theo hướng: giảm cả về số lượng và tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỉ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1996 có 23.601.918 người làm việc trong các ngành nông lâm, ngư (chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế), đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người (chiếm 62.565); trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 ngưòi (năm 1996) lên 4.743.705 người (năm2000) với tỉ lệ tăng từ 10.55% lên 13.15%; lao động làm viêc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỉ lệ (từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người và từ 19.65% lên 24,29%). Mặc dù qui mô và cơ cấu lực lượng lao động hiện nay chưa tương xứng với yêu cầu phát triển khi chuyển sang giai đoạn mới nhưng qua kết quả điều tra đã khẳng định thực tế là giai đoạn năm 1996-2000 đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc kiềm chế tốc độ gia tăng, nâng cao chất lượng, chuyển dịch cơ cấu của lực lượng lao động, cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó cũng chính là động lực để thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển việc làm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, xã hội giai đoạn 2001-2005. Hiện trạng cầu việc làm ở việt nam. Nước ta là một nước nông nghiệp nghèo,có dân số đông với tốc tăng còn cao, nguồn lao động dồi dào, năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động bởi vậy trong nền kinh tế luôn duy trì lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Năm 2000 tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6.42%, còn ở nông thôn tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ là 76.58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội về lâu dài, vậy cần phải có giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta. Trước hết chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây. Biểu về số người đủ 15 tuổi trở lên có viêc làm thường xuyên trong thời kì 1996-2001 Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng số 33978 34352 34801 35679 36205 37677 Trong đó 1. Theo nhóm ngành 1.1 Nông, lâm, ngư nghiệp 23431 22589 23018 22861 22670 22813 1.2 Xây dựng, công nghiệp 3698 4170 4049 4435 4744 5428 1.3 Dịch vụ 6849 7593 77344 8382 8791 8426 2. Theo thành phần kinh tế 2.1 Nhà nước 2973 3094 3533 3606 3644 3769 2.2 Ngoài nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33651 2.3 Có vốn đầu tư nước ngoài - 130 184 190 218 354 Theo các số liệu trong biểu trên chúng ta thấy rằng số người có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong thời kì 1996-2001, mỗi năm trung bình tăng gần 740.000. Trong đó năm tăng nhièu nhất là năm 2001 so với 2000 với số tuyệt đối là 1.472.000, và năm tăng ít nhất là 1998 so với 1997 với số người là 449.000. Xu hướng thay đổi như trên phần nào được phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu việc làm theo hai nhóm tiêu chí phân loại của biểu trên. Trước hết số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi 618.000 (trong khi dân số, nguồn lao động ở khu vực nông thôn trong thời kì này không hề giảm đi về số tuyệt đối). Đối với nhóm ngành xây dựng và công nghiệp xu hướng thay đổi là tích cực, số việc làm đã tăng liên tục trung bình mỗi năm tăng 346.000 viẹc làm. Đối với nhóm ngành dịch vụ xu hướng thay đổi cũng tích cực tương tự như trong xây dựng và công nghiêp, số tuyệt đối việc làm tăng trung bình mỗi năm kế hoạchoảng 320.000 người. Xét về tổng thể cơ cấu việc làm trong thời kì này năm 1996 tổng số việc làm là 100% thì các nhóm ngành sẽ là: nông, lâm, ngư nghiệp là 69%, xây dựng và công nghiệp là 10.9% còn dịch vụ là 20.1%. Năm 2000 số % tương ứng là 60.5%, 14.4%và 25,1%. Như vậy tỉ trọng việc làm trong nông, lâm ngư nghiệp đã giảm đi 8,5%, tương ứng với số việc làm tăng lên trong xây dựng và dịch vụ trong thời kì 5 năm 1996-2001. Đối với cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế chúng ta they xu hướng tăng trong cả ba nhóm: nhà nước, ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi năm tăng thêm 159.000, ngoài nhà nước tăng 510.000 và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 56.000 việc làm. Nếu so sánh về tốc độ tăng việc làm trung bình năm, thì thứ tự là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhanh nhất (43%) sau đó đến nhà nước (5.35%) và ngoài nhà nước (1,64%) Những hạn chế. Thứ nhất: Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ là bất lợi về kinh tế, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác, gây trở ngại trong việc giải quyết việc làm và làm quá tải hệ thống giáo dục, y tế, cũng như các dịch vụ xã hội khác. Thứ hai: Số dân trong độ tuổi lao động ở Việt Nam vẫn đang có xu hướng tăng. Theo dự báo, năm 2000 chiếm khoảng 55% đến năm 2005 chiếm khoảng 50.1% và năm 2010 chiếm khoảng 60,7% dân số, làm cho sức ép về việc làm càng trở nên gay gắt. Thứ ba: Tỉ lệ lao động qua đào tạo rất thấp năm 1998 tỉ lệ này là 17,8%, phần lớn làm việc ở cơ quan trung ương (94.4%): trongcác doanh nghiệp số lao động có trình độ cao đẳng trở nên chỉ chiếm 32% (con số này ở Hàn Quốc 48%, Nhật bản là 64.4%, Thái lan là 58.2%). ở nông thôn, lao động qua đào tạo chỉ chiếm 10%, trong đó đào tạo nghề chiếm 0.44%. Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kĩ thuật rất bất hợp lí. Hiện nay là 1-1,6-3,6 (trong khi đó ở các nước khác tỉ lệ này thường là 1-4-10). Còn theo đánh giá của tổ chức BARI về sức mạnh cạnh tranh của lao động theo thang điểm 100 thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lí, 20 điểm về năng suât lao động, 40 điểm về thái độ lao động, 16 điểm về kĩ năng lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. So với 59 nước thì Việt Nam đứng thứ 48. Thứ tư: Tuy lao động cần cù, tiếp thu nhanh khoa học kĩ thuật và công nghệ, có khả năng sáng tạo, song tính kỉ luật còn yếu tác phong và văn hoá công nghiệp còn thấp (40 điểm/100 điểm như đã thể hiện). Thứ năm: Tuy nhiên so với yêu cầu của đội ngũ đã qua đào tạo nói chung lực lượng lao động hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, trong đó đáng chú ý nhất là : Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên cũng như từ công nhân kĩ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu thành thị, đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77.44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp dạy nghề trở lên chỉ chiếm 46.26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kĩ thuật có bằng trở lên tỷ lệ chỉ có 40.96%. Hiện nay, trong số lực lượng lao động ở nông thôn cứ 100 người thì có 9 người có trình độ từ sơ cấp/ học nghề trở lên; trong đó có khoảng 6 người có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở nên; ở thành thị thì tương quan này là 37 người và 31 người gấp từ 4-5 lần so với nông thôn. Nguyên nhân của hạn chế. Những nguyên nhân hạn chế của cầu lao động. Những hạn chế đối với cầu lao động ở Việt Nam có thể do những nguyên nhân sau Thứ nhất: Phần lớn nguồn lao động nằm ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên do diện tích của đất canh tác bình quân đầu người thấp, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp chậm. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ kém phát triển, mức đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế cho nên tình trạng thiếu việc làm trầm trọng, biểu hiện cụ thể là tỷ lệ thời gian lao động đuợc sử dụng của lực lượng lao động không cao năm 2000 chỉ đạt 74.19%. Thứ hai: Khuvực ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và cá doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi có nhiều khả năng tạo việc làm vì những ưư thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ việc làm, tính năng động và lợi ích trực tiếp của lao động phù hợp với chất lượng lực lượng lao động và trình độ quản lí. Tuy nhiên khu vực này cũng đang đối đầu với các khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém tính cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Thứ ba: Khu vực nhà nước cũng đang gặp thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lí và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giảm biên chế. Sắp xếp lại số biên chế hiện có, hạn chế nhận thêm lao động mới. Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù có nhiều khoản đầu tư và chính sách hỗ trợ cũng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền, do đó cơ hội tạo thêm việc làm là rất hạn hẹp. Hơn thế nữa tình trạng dư thừa lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cũng đang là vấn đề đáng quan tâm với tỉ lệ lao động dôi dư năm 1999 lên tới 9%. Thứ tư: Khuvực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khá cao, khoảng 17%, tuy nhiên tỷ trọng trong GDP còn thấp, hơn nữa phần lớn tập trung vào những ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản, đó là những ngành cần nhiều vốn, có hệ số bảo hộ cao, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiều. Sau nữa phải kể đến chất lượng lao động của nước ta còn yếu kém, trình độ tay nghề thấp không phù hợp với yêu cầu. Tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn cao, chiếm khoảng 90% lực lượng lao động, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu vùng xa. Chương3: Những giải pháp cơ bản giải quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 ở việt nam. Hiện trạng kinh tế, xã hội ở nước ta cùng bối cảnh quốc tế tạo nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi đan xen vói những thách thức và khó khăn cho sự phát triển của đất nước trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những mục tiêu và phương hướng phát triển trong thời gian tới, trước mắt là thời kì 2001-2005. Mục tiêu và phương hướng của kế hoạch giải quyết việc làm thời kì 20002-2005. Mục tiêu. Mỗi năm tạo thêm 1.3-1.4 triệu việc làm mới, giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. Để đạt được mục tiêu trên, trong 5 năm cần phấn đấu đạt được các chỉ tiêu sau: Tập trung phát triển kinh tế xã hội duy trì tỉ lệ tăng GDP hàng năm không dưới 7% để tạo ra 5.0-5.5 triệu chỗ làm việc mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp xuống 55% công nghiệp và xây dựng 21%, dịch vụ 27% vào năm 2005. Đào tạo và đào tạo lại nghề cho 5-5.5 triệu người nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30% vào năm 2005. Trong đó các hoạt động hỗ trợ trực tiếp của chương trình việc làm sẽ tổ chức dạy nghề và bổ túc nghề gắn với việc làm cho 1.5-1.6 triệu người ; Đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và hệ thống cơ sở vệ tinh để cung cấp các dịch tư vấn, giới thiệu và chắp nối việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm, ngưòi muốn chuyển việc đã đăng ký tại trung tâm với người sử dụng lao động. Phương hướng. Thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tích cực với những nét đặc trưng chủ yếu sau: -Tăng nhanh tỷ trọng của các khu công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng khu vực nông nghiệp nhằm tạo cơ cấu của một nền kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới và thu hút ngày càng nhiêu lực lượng lao động. -Thúc đẩy quá trình đô thị quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy nhanh hiệu quả quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn. Nhà nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại dịch vụKhuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình theo phương châm “li nông bất li hương”, “vào xưởng không vào thành “. Cải tiến và đỏi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lí vốn đầu tư theo những hướng sau: Đa dạng hoá hình thức huy động vốn và thường xuyên điều chỉnh lãi suất cũng như việc thuận lợi hoá những thủ tục gửi tiền, rút tiền tiết kiệm nhằm huy động ngày càng nhiều vốn nhàn rõi trong dân. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá: hình thành thị trường vốn và vận hành tốt loại thị trường này nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực các ngành kinh tế. Cải tiến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước theo hướng chủ yếu dành để xây dựng cấu trúc hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển vào các khu vực, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều chỗ việc làm hơn, khả năng sinh lời và quay vòng vốn nhanh hơn. Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạnhỗ trợ cho nhân dân đặc biệt là nông dân trong quá trinh tạo việc làm và và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Chuẩn bị tốt điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực kết hợp với đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại cởi mở thông thoáng.Tập trung vào đổi mới công nghệ, nâng cao kĩ năng lao động, hình thành và phát triển năng lực các ngành chế biến nhằ tăng quy mô và tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, tuy nhiên trước mắt cần tập trung vào những sản phẩm có dung lượng lớn như dệt-may mặc, giầy dép chế biến lương thực thực phẩm, gia công cơ khí -điện tử, đồ gỗ, hoá chất tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ. Tìm kiếm và mở rộng thị trường đồng thời làm tốt công tác đào tạo nghề để đưa được nhiều lao động đi làm việc nước ngoài. Hình thành, phát triển và điều tiết có hiểu quả giữa các vùng. các khuvực,các ngành nghề của thị trường lao động. Các giải pháp cơ bản giải quyết việc làm kế hoạch 5 năm (2001-2005) Xây dựng và thực hiện một số chương trình trọng điểm. Tiếp tục thực hiện chượng trình trồng 5 triệu ha rừng đến năm 2010 nhằm khả năng thu hút đông đảo lực lượng lao động tham gia, cần sửa đổi, bổ sung chính sách để đồng bộ hoá các cơ chế chính sách phát triển nghề rừng, nhằm khuyến khích nuôi, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn rừng nguyên liệu,để người trồng rừng ổn định cuộc sống. Đồng thời tiếp tục thực hiện chương trình 773 về khai thác các vùng đất còn hoang hoá, bãi bồi ven biển, ven sông vừa phân bổ lại dân cư vừa tạo việc làm cho người nông dân. Tập trung vào công tác xây dựng cơ bản đây cũng là một chương trình có khả năng thu hút nhiều lao động. Chính phủ phải tiếp tục có những biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Khuyến khích đầu tư nước ngoài theo tinh thần 53/QD của chính phủ. Phải có pháp lệnh mới về nghĩa vụ lao động công ích để mở rộng đối tượng huy động nhằm tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng nộng thôn, xây dựng các công trình nhỏ về thuỷ lợi, giao thông, y tế, giáo dục, đền ơn đáp nghĩa, vui chơi giải trí, ở các xã phường.Tăng thêm vốn đầu tư cho hơn 1000 xã nghèo, khó khăn theo chương trình 133 và 135. Tăng nguồn vốn cho quỹ giải quyết việc làm. Nhà nước nên có các chính sách sử dụng lao thủ công ở một số khâu trong xây dựng cơ bản đẻ giải quyết việc làm cho người lao động. Chương trình khôi phục và phát triển trên 1000 làng nghề truyền thống hiện có, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và kinh tế trang trại, hỗ trợ về kinh tế, cho vay vốn để thu hút lao động . các giải pháp chủ yếu tăng cầu lao động ở nước ta: Phát triển toàn diện khu vực nông thôn: Các chương trình phát triển khu vực nông thôn cần phải được khuyến khích tập trung vào việc tạo thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng số công ăn việc làm, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các tiện nghi khác cho nông thôn. thực hiện giải pháp này sẽ có tác dụng hai mặt, một mặt sẽ tác động làm giảm cung lao động về lâu dài, mặt khác sẽ tăng cầu lao động tai chỗ, hạn chế di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, dần nâng cao chất lượng lao động nông thôn Khai thác các yếu tố tăng việc làm tự thân: Khu vực việc làm tự thân bao gồm những chủ doanh nghiệp độc lập,chủ cửa hàng, cửa hiệu tự hạch toán, người làm thường xuyên và không thường xuyên nghề tự do, các thành viên gia đình .Việc làm tự thân phần lớn xuất phát từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có khả năng thu hút nhiều lao động với cường độ lớn, bổ sung cho các doang nghiệp lớn của nhà nước và tư nhân. Mở rộng các ngành sản xuất quy mô nhỏ, lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiêu lao động : Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp cả ở khu vực truyền thống lẫn hiện đại, cả ở nông thôn và thành thị, có kế hoạchả năng tạo việc làm nhiều hơn so với công nghiệp quy mô lớn. Kiểm soát yếu tố giá cả, tiền lương, phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng: Đây là một giải pháp tác động gián tiếp đến việc làm. Tương quan lao động và vốn trong sản lượng phụ thuộc vào hàm sản xuất và giá cả, do đó cần có các chính sách tài chính để hạn chế tăng dung lượng vốn.và sử dụng công nghệ đắt không thích hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.bên cạnh đó cần kiểm soát tiền lương,chẳng hạn cần quy định lương cao trong khu vực nhà nước, bởi vì điều này có thể làm tăng lương trong khu vực khác. Ngoài ra cần khuyến khích tiêu dùng các hàng hoá trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các công nghệ sản xuất cần nhiều lao động, kết quả sẽ làm tăng cầu lao đông Gắn kết giáo dục, đào tạo với công việc làm: Việc tăng quy mô đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học trong những năm gần đây tạo hiện tượng “ người thất nghiệp có học” nhiều sinh viên tốt nghiệp kế hoạchông tìm được việc làm, hoặc làm việc không tương xứng với trình độ chuyên môn. Đào tạo chính quy bị giới hạn trước nhu cầu học lớn làm cho các hình thức đào tạo như tại chức, bằng 2, mở rộng quy mô với chất lượng đào tạo không cao. Đây là biiêủ hiện của sự kéo dài thời gian học trức sự phát triển kế hoạchông kịp của khu vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Kết quả là sự lãng phí xã hội, chi phí cơ hội cao, biến dạng tiền lương của lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Bởi vây cần có những chính sách tạo ra những cơ hội kinh tế hấp dẫn hơn ở nông thôn , điều trỉnh hệ thống giáo dục đào tạo đáp ứng các nhu cầu phát triển nông thôn, nhu cầu có nghề trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ và tự tạo việc làm, hơn là định hướng cho sịnh viên vào nhu cầu làm việc trong các khu vực hiiện đại như hiện nay. Thực hiện giải pháp này sẽ tránh được những lãng phí không cần thiết, tăng tiềm năng cầu lao động. Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước, thông qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách. Cần tiếp tục hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế và sửa đổi, bổ sung đối với từng sắc thuế cụ thể cho phù hợp với hình thức thực tiễn, đảm bảo tính công bằng và thực hiện các chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước. Cần áp dụng một biểu thuế thu nhập doanh nghiệp thống nhất với chính sách ưu đãi thống nhất cho tất cả loại hình doanh nghiệp để động viên tối đa các nguồn lực trong nước đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm. Trong chính sách thuế, một mặt phải có những ưu đãi đối với những doanh nghiệp sử dụng các công nghệ kĩ thuật tiên tiến, tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức, đồng thời phải có những ưu đãi thích đáng với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động với trình độ công nghệ phù hợp nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm các làng nghề truyền thống Cần rà soát các chính sách thuế đối với khu vực nông nghiệp và nông thôn nơi chứa tới 70% lực lượng lao động của đất nước, nhưng mức thu nhập bình quân còn rất thấp so với thu nhập bình quân ở các thành thị, nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập dân cư và giải quyết việc làm. Chính sách thuế cần khuyến khích các chủ trang trại tăng cường tích luỹ vốn, tích tụ đất đai và đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả và chế biến các sản phẩm xuất kế hoạchẩu để vừa nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, vừa thu hút thêm được lao động nông nghiệp dôi dư. Nhà nước nên có chính sách bồi hoàn phần chênh lệch thuế GTGT phải nộp lớn hơn so với thuế doanh thu trước đây đối với các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến để khuyến khích nông dân tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và sản phẩm xuất nhập kế hoạchẩu. Đồng thời cũng kế hoạchông nên thu thuế sử dụng đất nông nghiệp bổ sung, kế hoạchông nên thu tiền thuê đất đối với phần diện tích vượt hạn điền, mà chỉ thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với phần diện tích đất sử dụng, nhằm khuyến khích các chủ trang trại đầu tư thêm vốn liếng, phân, giống và kĩ thuật, thu hút thêm lao động tạo ra những vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá, làm tiền đề cho việc phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Chính sách thuế cũng phải có những ưu đãi cần thiết đối với các doanh nghiệp phục vụ sự nghiệp phát triển của nông nghiệp, những doanh nghiệp đưa ra giống mới, kĩ thuật mới, công nghệ mới hoặc những trung tâm đào tạo, dạy nghề, khuyến nông khuyến lâm để các doanh nghiệp này khuyếch trương tác dụng và ngày càng phát triển. Chi đầu tư phát triển của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua vẫn rất lớn, thường chiếm 13-14% tổng vốn đầu tư xã hội, trong khi khu vực này chỉ giải quyết được khoảng 10% tổng lực lượng xã hội. Khoản chi này giúp nền kinh tế quốc doanh phát huy được vai trò chủ đạo của mình đối với nền kinh tế và kích thích các khu vực kinh tế còn lại phát triển hơn, khoản chi này thường được đầu tư hình thành các tập đoàn xí nghiệp lớn với công nghệ kĩ thuật hiện đại làm đầu tầu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân tiến nhanh vào nền kinh tế thế giới, hoặc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng tạo tiền đề cho các khu vực kinh tế phát triển, hoặc giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng nhằm giúp cho nền kinh tế phát triển an toàn và bền vững. Cần có một kế hoạch tổng thể và chi tiết các dự án được đầu tư bằng ngân sách nhà nước hàng năm một cách chính xác và có trọng điểm, tránh chồng chéo, trong đó các dự án này phải tạo ra những doanh nghiệp mũi nhọn trong các ngành trọng điểm, có ý nghĩa quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế hoặc là hạt nhân kích thích cacs khu vưvj kinh tế còn lại đầu tư phát triển sản xuất, hoặc các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội khó có kế hoạchả năng thu hồi vốn nhưng rất cần để phát triển toàn diện nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết vấn đề việc làm. Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế cấp phát và quản lí vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước, đảm bảo tính hiệu quả, linh hoạt và phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng lãng phí, chi tiêu bừa bãi, thiếu trách nhiệm hoặc gây khó khăn cho quá trình sử dụng vốn. Tăng cường vốn đầu tư của ngân sách nhà nước vào nông nghiệp nông thôn sẽ góp phần kích thích nguồn vốn đầu tư của các trang trại và hộ nông dân tăng lên nhiều lần, tạo thêm các cơ hội việc làm ngày càng lớn trong nông nghiệp và góp phần thúc đẩy nông nghiệp nông thôn. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn phải tập chung hướng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá như: đường sá, nước sạch, điện, trường học, trạm xá, chợ Đồng thời phải chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng giống mới, công nghệ mới (bao gồm cả đào tạo và phổ biến kiến thức) trong nông nghiệp, nhằm nâng cao số lượng chất lượng hàng hoá. Cần giúp các địa phương qui hoạch và đào tạo lập cơ sở hạ tầng cho các khu sản xuất tập trung cuả các làng nghề, các cơ sở chế biến nông lâm hải sản để vừa thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn vừa giải quyết vấn đề việc làm và đảm bảo vệ sinh môi trường. Để nhanh chóng bắt kịp trình độ của các nước trong khu vực cùng với các nước tiên tiến bước vào nền kinh tế tri thức, cần thiết tăng chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời với việc đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp này nhằm đào tạo một lực lượng lao động có trình độ văn hoá và chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Chi ngân sách nhà nước cần tập chung cho mục tiêu xoá mù chữ, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học ở vùng sâu, vùng xa và phổ cập phổ thông trung học ở những vùng có điều kiện. Đối với các thành phố lớn, các tỉnh giàu, cần đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục để ưu tiên vốn ngân sách nhà nước cho các vùng nghèo, vùng sâu vùng xa, cần nhanh chóng chấn chỉnh và sắp xếp lại hệ thống các trường đại học cao đẳng và dạy nghề. Chú trọng tới cơ cấu đào tạo ngành nghề và chất lượng đào tạo, đặc biệt, coi công tác dạy nghề là trọng tâm của lĩnh vực đào tạo nghề. Chi ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo nghề cần được tăng cường và chú trọng vào việc đổi mới cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy, học tập cho phù hợp với trình độ khoa học công nghệ của nền kinh tế quốc dân và của thế giới, đảm bảo cho lực lượng lao động được đào tạo ra có thể sử dụng kiến thức vào hoạt động thực tiễn. Trong thời kì hiện nay của nền kinh tế chuyển đổi, cần giành một phần chi ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo nghề để hỗ trợ các trường đại học dân lập, các trường đào tạo nghề của các tổ chức kinh tế xã hội và của tư nhân, nhằm tăng cường thu hút các nguồn vốn xã hội vào sự nghiệp đào tạo nghề, nâng cao số lượng và chất lượng nguồn lao động, đẩy mạnh công cuộc xã hội hoá đào tạo nghề. Nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức nguồn lao động, nâng cao thu nhập dân cư, nâng cao dân trí, cần thiết tăng chi ngân sách nhà nước cho công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, cùng với việc đẩy mạnh xã hội hoá nguồn tài chính trong lĩnh vực y tế, cần thiết tăng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực y tế, đảm bảo tốt dịch vụ y tế cơ bản ở tất cả các địa bàn đặc biệt là những vùng nghèo, vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt để đảm bảo chất lượng cơ học của lực lượng lao động. Các chương trình mục tiêu quốc gia trong thời gian qua đã giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc của xã hội trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế và góp phần to lớn giải quyết việc làm. Tuy nhiên để tránh tình trạng có quá nhiều chương trình mục tiêu quốc gia, vừa phân tán nguồn vốn, vừa chồng chéo mục tiêu quốc gia, hàng năm nhà nước, xem xét những vấn đề nào cần sử dụng chương trình mục tiêu quốc gia, những vấn đề nào cần sử dụng cơ chế chính sách hiện có, những mục tiêu nào có thể lồng ghép trong các chương trình mục tiêu trên cơ sở đó thực hiện việc phân bổ ngân sách nhà nước chi cho các chương trình mục tiêu, cho từng địa phương. Cần có những văn bản pháp qui phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn và yêu cầu phối kết hợp giữa các cơ quan quản lí các chương trình mục tiêu ở trung ương và các cơ quan quản lí chương trình mục tiêu ở các địa phương, phối hợp giữa các cấp chính quyền, các cơ quan tài chính trong việc điều hành quản lí các chương trình mục tiêu. Cần chỉ định một cơ quan điều phối quản lí thống nhất các chương trình này, tránh chồng chéo trùng lặp. Cần hoàn thiện cơ chế quản lí cấp phát vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia, tránh việc sử dụng sai mục đích, gây thất thoát. Cần quản lí chặt chẽ và nâng cao hiệu quả các quĩ ngoài ngân sách hoặc được ngân sách nhà nước hỗ trợ như quĩ phát triển, quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm, quĩ tín dụng đào tạo đảm bảo nguồn vốn được sử dụng đúng đối tượng đúng mục tiêu. Đặc biệt phải có chính sách tài chính cụ thể về hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác tạo được nhiều việc làm. Cần có cơ chế tài chính khuyến khích liên kết giữa các doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ để có thể tuyển dụng lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kĩ thuật cao thực hiên chuyển giao công nghệ giữa các loại hinh doanh nghiệp. Hơn nữa cần hình thành cơ chế đóng góp tài chính của các cấp chính quyền địa phương, các ngân hàng, các doanh nghiệp trong việc hình thành nguồn vốn của các quĩ này nhằm đảm bảo tiềm lực hoạt động của các quĩ. Để trợ giúp các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động, cần gấp rút hình thành các quĩ bảo hiểm thất nghiệp, trên cơ sở ngân sách nhà nước chi hỗ trợ một phần, còn chủ yếu là do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp. Tất nhiên để có thể tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các mục tiêu trên, cần thiết phải đẩy mạnh cải cách hành chính, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên ngân sách nhà nước, khai thác các nguồn nội lực, cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm cuả dân cư. Kết Luận Cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì vấn đề giải quyết việc làm luôn là một vấn đề nóng bỏng của toà xã hội. Giải quyết việc làm có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Một yêu cầu đặt ra đói với đảng và nhà nước ta là phải có những giải pháp phù hợp để có thể giải quyết việc làm cho người lao động. Giải quyết được vấn đề về lao động và việc làm sẽ tạo ra sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tài liệu tham khảo Đinh Ngọc Thịnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước trong giải quyết việc làm. Nghiên cứu kinh tế - 1/2001. TS. Chu Tiến Quang. Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp. NXB Nông thôn - Hà Nội - 2001. GS. Viện sỹ Phạm Minh Hạc. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Nhân dân - 7/6/2001. TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. NXB Thống Kê - Hà Nội - 2001. Niêm giám thống kê 2000. NXB Thống Kê - Hà Nội - 2001 Trần Đình Đàn. Giải quyết việc làm, một nhiệm vụ cơ bản cấp bách hiện nay kinh tế dự báo - 6/1996. Giáo trình kinh tế phát triển tập I. NXB Thống kê, Hà Nội - 1998. Nguyễn Khang. Về lao động việc làm ở thành thị thời kỳ 1996 - 2000. Lao động xã hội - 2/1996. Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm đến năm 2000. Kinh tế và dự báo - 9/1998. Nolwen Henaf và jean - Y ves Martin. Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới. NXB thế giới - Hà Nội 2001. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam. NXB chính trị quốc gia. PTS. Nguyễn Hữu Dũng và PTS. Trần Hữu Trung. Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia. TS. Phạm Quý Thọ. Hiện trạng và giải pháp tăng cầu lao động ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế và phát triển -2/2002. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV424.doc
Tài liệu liên quan