Đề án Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO

Xuất khẩu là hướng quan trọng để tăng trưởng nhanh và bên vững cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng. Dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển khá rõ rệt để khẳng định mình trên thị trường quốc tế. Trong quá trình hội nhập, bên cạnh những co hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu còn nhiều thách thức. Vì vậy, việc tìm kiếm thị trường nước ngoài không chỉ riêng của các doanh nghiệp, mà Nhà nước cuãng phải tham gia vào mở rông thị trường cho nước ta bằng các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu qua hải quan chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Xuất khảu hàng dệt may Việt Nam thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó nkhăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước như Đại Hội X đã đưa ra.

doc37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hập khẩu từ nước ngoài và để bù đắp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu.ở các nước kém phát triển lại rất cần các tư liệu sản xuất để phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH, để có những tư liệu đó ,họ phải nhập khẩu từ nước ngoài và để bù đáp nguồn vốn bị thiếu hụt họ sẽ lấy từ xuất khẩu.ở các nước kém phát triển vật ngăn cản chính đối với nền kinh tế là tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển.nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn quan trọng trong quá trình phát triển, nhưng để có được nguồn đầu tư hoặc vay nợ thì các nước cho vay phải thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó,vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có đủ khả năng để trả nợ. Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế . Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nhiều nghành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây chuyền giúp cho các nghành kinh tế khác phát triển theo, dẫn đến kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Xuất khẩu có ích lợi kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Để có thể đáp ứng được nhu cầu cao của thế giới về quy cách sản phẩm thì một sản phẩm sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Đẩy mạnh xuất khẩu có ích lợi cho sự thay đổi cơ cấu kinh tế nghành theo hướng sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa tiềm năng sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có ý nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoàivoà trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, xuất khẩu còn đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Xuất khẩu có tác động trực tiếp đến việc giải quyết công ăn việc làm và cỉa thiện đời sống của nhân dân, tác động của xuất khẩu đến đời sống nhân dân bao gồm nhiều mặt. Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu còn dùng để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt đọng chủ yếu, cơ bản là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 3.3.Đối với doanh nghiệp Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đem lại lợi ích sau: -Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. -Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. -Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. -Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…cũng như sự phân phối mà mở rộng trong việc cấp giấy phép. 4.Thông lệ quốc tế của các khối nước, khu vực mậu dịch tự do Trong quá trình xuất khẩu, việc hiểu về thông lệ quốc tế các khối nước, khu vực mậu dịch tự do là rất quan trọng bởi nó có tác động lớn tới kim ngạch xuất khẩu. Với thị trường xuất khẩu hàng dệt may, có các khối nước, khu vực mậu dịch tự do sau: 4.1. Tổ chức thương mại thế giới( WTO) WTO là tổ chức quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế. Kể từ ngayg 7/11/2006 khi Việt Nam gia nhập WTO thì tổ chức này có 151 thành viên, hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản sau: -Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Theo quy chế đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), mỗi nước thuộc WTO phải dành cho sản phẩm nhập khẩu từ một quốc gia thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nhập khẩu từ một nước thứ ba khác. Ngoài ra, theo quy chế đối xử quốc gia thì mỗi nước thành viên của WTO không giành cho sản phẩm nội địa những ưu đãi so với sản phẩm của nước ngoài (ưu đãi về thuế, các điều kiện vệ sinh, điều kiện kinh doanh…) -Nguyên tắc điều kiện hoạt động thương mại ngày càng thuận lợi: Với nguyên tắc này đòi hỏi mỗi nước phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế và các biện pháp phi thuế theo thoả thuận đã thông qua ở các vòng đàm phán song phương và đa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoáthương mại. Trong trường hợp này, phải xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu. -Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh dễ dự đoán: Với nguyên tắc này, chính phủ của các nước thành viên thuộc WTO không thay đổi cơ chế chính sách kinh tế, trong đó có hàng rào thương mại một cách tuỳ tiện gây khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà nhập khẩu trong việc thực hiện các chính sách kinh doanh dài hạn của mình. -Nguyên tắc tạo ra một môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh bình đẳng: Với nguyên tắc này chính phủ ở các quốc gia thuộc WTO ngoài việc thực hiện nghiêm chỉnh 2 cơ chế MFN và NT, thì còn phải giảm việc áp dụng các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như: trợ giá, tài trợ xuất khẩu…hoặc áp dụng các biện pháp giành đặc quyền đặc lợi trong kinh doanh cho một nhóm doanh nghiệp. -Nguyên tắc giành một số ưu đãi về thương mại cho các nước đang phát triển: WTO áp dụng nguyên tắc này thông qua các biện pháp: +Giành ưu đãi về thuế nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường các nước công nghiệp phát triển (GSP). +Không phải thực hiện nghĩa vụ của WTO như các nước công nghiệp phát triển. +Thời gian quá độ để điều chỉnh chính sách kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của WTO dài hơn. 4.2 Khối liên minh Châu Âu Hiện nay EU là một thị trường rộng lớn gồm 15 quốc gia( Aó, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Italia, Ai Len, LucXămBua, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Anh). Thị trường EU thống nhất cho phép lưu thông tự do người, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các thành viên tạo thành một thị trường rộng lớn *Tập quán, thị hiếu người tiêu dùng: Đây là một thị trường khá khó tính và có chọn lọc, đặc biệt là đối với hàng dệt may. Ngành dệt may của Châu Âu đang có xu hướng chuyển dần công nghệ sang các nước đang phát triển nên thị trường này có xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt may và may mặc. Thị trường EU có các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng( khác hẳn thị trường các nước đang phát triển). EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này khi đảm bảo 5 tiêu chuẩn an toàn chung của EU( tiêu chuẩn chất lượng; tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường,tiêu chuẩn về lao động) VD: Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhấtvề mã hiệu cho các loại sợi cấu thành nênloại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà một trong các loại ấy chiếm tối ưu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên loại sản phẩm sợi đó kêm theo tỷ lệ tối thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Những sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu ít nhất phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất kèm theo tên các loại sợi khác đã được sử dụng. Để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, EU còn tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. *Kênh phân phối: Hệ thống kênh phân phối EU là một bộ phận gắn liền với hệ thống mậu dịch thương mại toàn cầu. Mặt khác, EU là một trong 3 trung tâm kinh tế-thương mại lớn nhất thế giới với mức sống cao, đồng đều của người dân trong khối cho thấy một thị trường rộng lớn và phát triển. Không những thế, EU ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật, các tiêu chuẩn và chính sách thuế giúp các nước có thể cạnh tranh lành mạnh hơn trên thị trường này. Hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong lưu thông và xuất khẩu hàng hoávì thế nó có các hình thức sau: Các trung tâm Châu Âu, các đơn vị chế biến dây chuyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng. Trong đó tập trung chủ yếu vào hình thức các trung tâm thu mua Châu Âu với quy mô ngày càng rộng khắp. Các trung tâm này mua chung sản phẩm sản xuất trên thế giới và phân phối cho nhiều nhà phân phối quốc gia. Những trung tâm này thường tập hợp trên 50 nhà phân phối trở lên hoạt động trên phạm vi toàn Châu Âu, làm trung gian giữa nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm. Từ đó ta thấy kênh phân phối EU rất phức tạp. Muốn tiếp cận được kênh phân phối EU , các doanh nghiệp phải nắm được đặc điểm kênh phân phối để từ đó có những biện pháp cụ thể xâm nhập vào. *Chính sách thương mại nội khối: Trong thị trường lớn EU, lưu thông hàng hoá với các biện pháp: Xoá bỏ hoàn toàn mọi thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu giữa các thành viên; xoá bỏ hạn ngạch trong thương mại nội khối; xoá bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng, các rào cản về thuế giữa các nước thành viên, và tự do đi lại, cư trú trên toàn lãnh thổ liên minh như tự do đi lại về địa lý, di chuyển nghề nghiệp, nhất thể hoá về xã hội. Tự do lưu chuyển các dịch vụ như: tự do cung cấp các dịch vụ, tự do chuyển tiền bằng điện tín, công nhận lẫn nhau về cả các văn bằng. Lưu chuyển tự do vốn: được áp dụng chính sách tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối, thống nhất luật pháp và nguyên tắc quản lý thị trường của các thành viên, thanh toán tự do. Tuy chính sách thương mại nội khối có một quy tắc hoạt động chung nhưng thực tế chưa hoàn toàn, cộng thêm những khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên nên nhiều công ty nước ngoài hiểu lầm thị trường Châu Âu có nhiều mặt đồng nhất do đó đã phải chịu nhiều thất bại. *Chính sách ngoại thương: Trong sự phát triển kinh tế của EU, ngoại thương đã đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm trong các ngành sản xuất, dịch vụ. Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng trên những nguyên tắc: -Không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. -Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan và hạn chế về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. Chính sách thương mại và đầu tư của EU bấy lâu nay chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có tính chiến lược là Châu Âu và Châu Mỹ. Châu á thì chính sách thương mại mới hình thành. Trong khi đó EU coi Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường nên gần như Việt Nam không được hưởng ưu đãi của EU dành cho các nước đang phát triển. *Bốn nguyên tắc khi thâm nhập thị trường EU: - Nắm được thị hiếu của người tiêu dùng: +Tính đa dạng của thị trường( 4 mùa, lứa tuổi ,khu vực) + Không phải “có cầu mới có cung”, phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”. + Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú, đa dạng…để đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng các nước thành viên EU. -Nguyên tắc hạ giá thành sản phẩm: + Gía sản phẩm tại thời điểm hàng cập cảng của một nước thành viên( tính cả chi phí vận chuyển và thuế) +Đối thủ cạnh tranh là quốc tế ( Trung Quốc và ASEAN) + Thị trường quyết định giá cả( vì người tiêu dùng EU không nghĩ đến giá cả là quan trọng nhất mà là thương hiệu của sản phẩm) -Đảm bảo thời gian giao hàng. -Duy trì chất lượng sản phẩm. 4.3. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) Để xây dựng ASEAN thành khu mậu dịch tự do ( AFTA) các nước thuộc khối khu vực đã thông qua 9 chương trình hợp tác kinh tế: -Chương trình hợp tác thương mại: Sự hợp tác thương mại của ASEAN được thực hiện trong 5 chương trình : + Chương trình xây dựng ASEAN trở thành khu vực mậu dịch tự do bằng thực hiện kế hoạch thu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung – CEPT : Thực chất của chương trình CEPT là các nước thành viên ASEAN đạt được sự thoả thuận giảm thuế quan chung xuống còn ở mức 0% - 5% trong thương mại nội bộ các nước ASEAN . +Chương trình hợp tác hàng hoá: Thành lập ngân hàng dữ liệu ADBC và dự án nghiên cứu thị trường hàng hoá. + Hội chợ thương mại ASEAN: Thực hiện hàng năm luân phiên các nước với sự tham gia nhiều nước trong và ngoài khu vực. + Chương trình tham khảo ý kiến tư nhân: Do phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN thực hiện. + Chương trình phối hợp lập trường trong các vấn đề thương mại quốc tế có tác động đến ASEAN nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước ASEAN trên trường quốc tế. -Chương trình hợp tác trong lĩnh vực hải quan: + Thực hiện thống nhất phương pháp định giá tính thuế hải quan giữa các nước ASEAN. +Thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan trong 2 lĩnh vực : Mộu khai báo CEPT chung và đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu ở nhiều khâu. + Thực hiện áp dụng một danh biểu thuế hài hoà thống nhất của ASEAN. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp : Từ khi thành lập ASEAN đến nay đã có nhiều chương trình hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ, chương trình hợp tác công nghiệp AICO đã khuyến khích liên kết sản xuất giữa các xí nghiệp của các nước ASEAN, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ASEAN. Các sản phẩm được sản xuất bởi các xí nghiệp tham gia chương trình AICO được hưởng mức ưu đãi thuế quan tối ưu của chương trình CEPT và các chính sách phi thuế khác do từng nước quy định. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm. ngư nghiệp và lương thực. Chương trình hợp tác về đàu tư: Để các nước ASEAN tăng cường đầu tư vào nhau và thu hút vốn từ các khu vực khác họ đã cùng nhau ký kết hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN và ký hiệp định về thành lập khu đầu tư ASEAN - AIA. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ với mục đích : + Đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN trong lĩnh vực dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ trong nội bộ khối cũng như ra ngoài khu vực. + Xoá bỏ đáng kể hàng rào hạn chế thương mại dịch vụ giữa các thành viên. + Thực hiện tự do hoá thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng và thực hiện sâu sắc hơn những cam kết mà các nước đã đưa ra tại WTO vì mục đích thực hiện khu vực mậu dịch tự do đối với dịch vụ trong ASEAN. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản và năng lượng. Chương trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng: Hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thuế, kiểm toán và bảo hiểm giữa các nước ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, đầu tư và hợp tác công nghiệp trong khu vực. Các chương trình hợp tác kinh tế khác: Trong các lĩnh vực : giao thông vận tải và thông tin liên lạc; sở hữu trí tuệ; hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng… 4.4 Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) Hiệp định tự do Bắc Mỹ ( NAFTA) được ký kết vào tháng 10 năm 1993 giữa 3 nước Mỹ, Canada và Mexico, có hiệu lực từ ngày 1/1/1994. NAFTA được đưa vào thực thi đã tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới với số dân khoảng 400 triệu người và GDP thực tế khoảng 9000tỷ USD. NAFTA được xây dựng trên cơ sở các điều khoản của Hiệp định tự do thương mại song phương được ký kết giữa Mỹ và Canada, có hiệu lực từ ngày 1/1/1989, ngoại trừ điều khoản về xuất xứ hàng hoá. Trong đó, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của 68% lượng hàng hoá Mỹ xuất khẩu sang Mexico và 49% lượng mặt hàng nhập khẩu từ Mexico. Mỹ và Canada thoả thuận cắt giảm thuế quan từ năm 1989 nên về thực chất chỉ có sự cắt giảm thuế quan giữa Mexico và các thành viên còn lại. Các thành viên NAFTA đã cam kết chấm dứt các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài là thành viên của hiệp định, tuân thủ nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao và tự do hoá thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Hiệp định này cũng đưa ra các tiêu chuẩn và sự hợp tác trong vấn đề môi trường và lao động. Một cơ sở nữa trong việc thực thi có hiệu quả hiệp định là việc đề ra một cơ chế giả quyết tranh chấp, đây cũng là nguyên tắc được đề xuất trong khuôn khổ WTO sau này. NAFTA được xây dựng bởi những quy định riêng về quản lý quá trình tự do hoá thương mại, những quy định này được bổ sung hoặc thay thế những điều khoản chưa phù hợp ( theo quy định của hiệp định WTO) . Những quy định này tập trung vào các lĩnh vực mua sắm của chính phủ, tiêu chuẩn sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn về viễn thông, đầu tư, quy định về xuất xứ hàng hoá…những lĩnh vực mà các vòng đàm phán của WTO dường như vẫn chưa tìm được đường ra trên tinh thần đồng thuận. NAFTA cũng đề cập đến việc cắt giảm phi thuế quan, bao gồm hạn chế nhập khẩu, hạn chế số lượng và giấy phép nhập khẩu. Ví dụ, trong vòng 10 năm Mêxico sẽ dỡ bỏ những hạn chế về đầu tư và thương mại trong lĩnh vực sản xuất ôtô. Nhờ việc thực hiện NAFTA, Mỹ sẽ ngay lập tức xoá bỏ hạn ngạch đối với với hàng dệt may của Mêxico. Theo các lịch trình vạch sẵn, từ ngày 1/1/1998 Mỹ và Canada đã dỡ bỏ toàn bộ các loại thuế đối với những hàng hoá được quy định trong khuôn khổ của hiệp định, đối với Mêxico, những quy định liên quan đến lĩnh vực sản xuất ôtô cũng đã được sửa đổi. Qua đó, NAFTA trở thành một khu vực kinh tế có tính bảo hộ cao. 5.Chính sách xuất khẩu của Việt Nam * Những luận cứ cơ bản mà các nước đưa ra cho các chính sách thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu là: - Khuyến khích xuất khẩu cho phép vượt qua sự hạn hẹp của thị trường trong nước, do đó sẽ lợi dụng được tính kinh tế theo quy mô, kinh tế phạm vi và kinh tế mục tiêu ( tăng hiệu quả kinh tế nhờ đa dạng hoá sản xuất ) - Khuyến khích xuất khẩu sẽ thúc đẩy tính hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế nhờ tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Khuyến khích xuất khẩu nhằm phân bổ nguồn lực quốc gia phù hợp với chi phí va lợi nhuận xã hội cận biên, tận dụng tốt hơn lợi thế của đất nước. Các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu bao gồm: - Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền chính phủ trả cho các nhà xuất khẩu ( công ty hay tư nhân ) đưa hàng hoá ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể được tính theo khối lượng hay giá trị của hàng hoá xuất khẩu. - Các khoản trợ cấp tín dụng xuất khẩu tương tự như trợ cấp xuất khẩu, nhưng dưới hình thức một khoản. Ngoài những công cụ chính sách thương mại trên, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các nước cũng có ảnh hưởng ngày càng quan trọng đối với thương mại quốc tế. Chẳng hạn, chính sách nhằm ngăn chặn việc chuyển đổi ngoại tệ, chính sách quy định và duy trì đồng nội tệ quá cao. * ở Việt Nam, chính sách khuyến khích xuất khẩu mà Chính phủ đã và sẽ ban hành, cùng với những nỗ lực của toàn ngành dệt may sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam khẳng định uy tín và vị thế thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo Quyết định 195/1999/QD-TTg, do thủ tướng ký ngày 27-9-1999 nhằm tập trung tài chính, hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và mở rộng trị trường xuất khẩu. Đến tháng 6-2001, Bộ Thương mại đã thống nhất với Bộ Tài chính điều chỉnh, bổ sung vào văn bản hướng dẫn sử dụng Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu mục quy chế chi hoa hồng trong môi giới thương mại. Quyết định này theo đánh giá chung của các chuyên gia trong ngành và doanh nghiệp đã tăng thêm phần tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc quyết định các hình thức, mức chi và hạch toán các khoản chi hoa hồng phù hợp với đặc điểm của từng đối tác giao dịch và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quyết định 46/2001/QD-TTg, ngày 4-4-2001, ban hành quy chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong 5 năm. Quyết định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể chủ động bố trí kế hoạch sản xuất và kinh doanh trong thời gian dài, tạo hành lang thông thoáng, tháo gỡ vướng mắc lâu nay mà doanh nghiệp vẫn thường gặp bởi quy chế “xin – cho”. Đồng thời, thực hiện Quyết Định 133/2001/QD-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng , Bộ tài chính đã ban hành quy chế hoạt động của quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dụng ( kể cả tín dụng xuất khẩu trả chận đến 720 ngày). II. Ngành dệt may Việt Nam Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm với yêu cầu công nghệ máy móc thiết bị không quá hiện đại và trình độ lao động thấp. Chính vì thế xu hướng chung của thế giới là chuyển dịch sự phát triển sản phẩm của ngành dệt may từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển. Việt Nam và một số nước đang phát triển khác đang ở giai đoạn chuyển giao lần thứ tư của công nghệ ngành dệt may thế giới. Với đặc điểm là một nước đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, với trình độ lao động thấp, Việt Nam phù hợp với sự hình thành và phát triển ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay. Tính đến hết năm 2006, cả nước hiện có 800 doanh nghiệp may ( không kể các doanh nghiệp có sử dụng công nghệ may ) hoạt đọng trong tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có 115 doanh nghiệp quốc doanh, còn lại là ngoài quốc doanh ( gồm cả tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài). Bảng 1: Bảng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Năm Tổng số: Hàng dệt Hàng may Tr USD Giá trị: Tỷ lệ% Giá trị: Tỷ lệ% Tr USD Tr USD 1993 335 4.5 1.34 330.5 98.66 1994 554 12.8 2.31 541.2 97.69 1995 850 5 0.59 845 99.41 1996 1151 8 0.7 1143 99.3 1997 1349 6 0.44 1343 99.56 1998 1350 6.5 0.48 1343.5 99.52 1998 1747.3 7.2 0.41 1740.1 99.59 2000 1847.8 7.7 0.42 1840.1 99.58 Các sản phẩm cơ bản của ngành dệt may Việt Nam là sợi, vải, thành phẩm và quần áo may sẵn. Theo thống kê giai đoạn 1991-2000, quần áo may sẵn tăng trưởng cao nhất, bình quân là 12,15%/năm; sợi tăng trưởng bình quân 7,73%/năm; vải, thành phẩm tăng trưởng bình quân bình quân 3%/năm; quần áo dệt kim tăng trưởn bình quân 2,55%/năm. Từ đó ta thấy sự tăng trưởng của vải sợi không đủ để sản xuất ra thành phẩm và quần áo may sẵn, do đó kéo theo phải nhập vải nguyên liệu cho công nghệ may. Bảng 2: Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2005 2010 Kim ngạch xuất khẩu tr USD 2000 3000 4000 Hàng may 1630 2200 3000 Hàng dệt 370 800 1000 Sản lượng Vải lụa thành phẩm tr m 800 1330 2000 Sản phẩm dệt kim tr sp 70 150 210 Sản phẩm may 350 480 720 Sản phẩm may quy chuẩn 580 780 1200 Nguồn: KT&DB III.Xu hướng cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm dệt may thế giới 1. Xu hướng phát triển của sản phẩm dệt may trên thế giới Ngày nay, khi mức sống của người dân tăng lên thì các yêu cầu về sản phẩm của mỗi người cũng tăng tạo nên xu hướng phát triển chung về sản phẩm dệt may là: - Hàng dệt may theo phong cách phương Tây sẽ tăng lên. - Kiểu trang phục công sở sẽ được sẽ được phổ biến. - Thẩm mỹ của lứa tuổi trung niên và cao niên được cải thiện. - Hàng may mặc cho trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết kế. - Vải, sợi, phụ liệu, thiết kế và kiểu dáng kỹ thuật sẽ có những bước đột phá. - Đồ thể thao vẫn được ưa chuộng. - Hàng may đo vẫn thông dụng. 2. Xu hướng cạnh tranh sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới Sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển ở châu á bao gồm cả Trung Quốc ( cả Hồng Kông), Hàn Quốc đang cạnh tranh khốc liệt với các nước Châu Mỹ La Tinh ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới là EU, Mỹ, Nhật Bản, Canada… Trong đó Trung Quốc đang là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới và cũng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, trong năm 2002, EU thực hiện việc xoá bỏ chế đọ thuế quan và chế độ han ngạch cho 48 nước nghèo nhất thế giớivà các nước thuộc thành viên của WTO, trong đó có Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn được hưởng thuế MFN của Hoa Kỳ và Nhật Bản đối với hàng dệt may. Trong xu thế cạnh tranh, các nước phát triển luôn tìm cách thực hiện hiệp định về hang dệt may (ATC) sao cho có lợi thế nhất. Do vậy, mặc dù đã đạt được một số cam kết qua các vồng đàm phán, các nước đang phát triển vẫn phải tiếp tục đối mặt với những hàng rào thương mại ngày càng gia tăng đối với hàng dệt may, bao gồm: - Các nước đang phát triển tuy có được dỡ bỏ một phần nhưng vẫn phải bị han ngạch đối với một số hàng xuất khẩu. - Mức thuế trung bình của các nước công nghiệp đối với hàng dệt và may nhập khẩu từ các nước đang phát triển là 11%, cao hơn 3 lần đối với các nước đang phát triển. Điển hình là Bănglađét_ một nước nghèo nhất thế giới chịu mức thuế cao 20% đối với những mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ và Canada. - Hoa Kỳ và EU đang tìm cách đưa ra những biện pháp tự vệ mới đối với hàng của nhiều nước áp dụng tới cuối năm 2009 Những biện pháp này đang làm tổn hại các nước đang phát triển, vì dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng chiếm trên 10% kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Ước tính chỉ riêng Nam á sẽ mất khoảng 3 tỷ USD/ năm do những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các nước giàu có. Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Đơn vị tính: triệu USD STT Tên nước Trị giá 1 Trung quốc 50000 2 ấn Độ 12500 3 Indonexia 8000 4 Thái Lan 6500 5 Băngladét 4000 6 Việt Nam 2000 Nguồn: Bộ Công Nghiệp Chương II Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam I.Thực trạng và xu hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam đã phát triển hàng trăm năm. Trước những năm 90, thiết bị ngành dệt may dựa vào những thiết bị cũ trước đây chủ yếu do Liên Xô cung cấp. Thị trường tiêu thụ trong thời gian đó chủ yếu là thị trường nội địa. Xuất khẩu các sản phẩm dệt may trong thời gian này chỉ dừng lại vài trăm triệu USD và được thực hiện trong khuôn khổ các Hiệp định và Nghị định thư của nước ta với khu vực Đông Âu và Liên Xô cũ. Sau sự sụp đổ của thị trường Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90, tuy các doanh nghiẹp ngành dệt may có khủng khoảng trong một thời gian song chính nó cũng là động lực để ngành dệt may tăng cường đầu tư và đi tìm thị trường mới. Từ đây xuất khẩu hàng dệt may bắt đầu tăng tốc. Năm 1992 là thời điểm vàng, mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam với việc ký kết hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU. Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tìm đường ra thế giới, và đến năm 1996, lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD( đạt 1,15 tỷ USD) . Sản phẩm dệt may, từ vị trí khiêm tốn trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực vào thời điểm trước năm 1990 đã vươn lên vị trí số một trong những năm 1996, 1997 và ổn định ở vị trí thứ 2 từ năm 1998 đến nay ( sau dầu thô ). Năm 2001, Năm 2001, xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,96 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990. Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Đơn vị: triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 KNXK 850 1150 1500 1451 1764 1892 1962 3609 4300 Nguồn : Tổng cục Thống kê Hiện nay, sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ tại hầu khắp các châu lục với gần 30 nước ở thời điểm năm 1990. Năm 2005 đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của ngành Dệt- May Việt Nam. Đây là năm đầu tiên thực hiện việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch giữa các thành viên thuộc Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) và cũng là năm cuối cùng các sản phẩm dệt may Việt Nam được hưởng chế độ bảo hộ mậu dịch trước khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) năm 2006. Cộng thêm việc EU và Canada đã xoá bỏ han ngạch cho Việt Nam từ 1/1/2005 như với 148 thành viên khác đã khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của các nước trên thế giới. Đặc biệt từ ngày 7/11/2006 khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, với việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch , các nước là thành viên của WTO có thể xuất khẩu không hạn chế sang các thị trường lớn nhất thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản và Canada, điều đó sẽ dẫn tới cán cân trong cuộc chiến trên thị trường xuất khẩu dệt may thế giới sẽ nghiêng hẳn về những nước có lợi thế về nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ như Trung Quốc hay ấn Độ bởi vì hạn ngạch vừa là yếu tố hạn chế nhưng đồng thời nó cũng bảo vệ cho các nhà xuất khẩu hàng dệt may thông qua việc giới hạn lượng hàng dệt may tối đa mà mỗi quốc gia có thể xuất khẩu vào các thị trường kể trên. Do đó, cũng như các nước khác, Dệt May Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với những thị trường khổng lồ Trung, ấn. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, hiện nay Việt Nam đã thiết lập khá ổn định sự có mặt của mình trên thị trường dệt may toàn càu. Ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Do vậy, vẫn có nhiều cơ hội để vươn lên giành vị trí thứ hai sau Trung Quốc vì các nước nhập khẩu sẽ đa dạng hoá nguồn hàng chứ không chịu lệ thuộc vào nguồn cung cấp duy nhất từ Trung Quốc. Ngoài ra, sản phẩm dệt may cũng đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế về chất lượng hàng hoá và thời gian giao hàng. Cho nên, ngành dệt may Việt Nam cần tiếp tục phát huy thế mạnh của mình, nâng cao hơn sức cạnh tranh bằng các biện pháp tích cực như đổi mới công nghệ, đa dạng hoá mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để đối phó với các khó khăn do quyết định xoá bỏ han ngạch của hàng dệt may. 1. Các thị trường xuất khẩu chính Bảng 5: Thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam Đơn vị tính: triệu USD Thị trường Năm 2003 Năm 2004 Thay đổi(%) Mỹ 1973 2474 25.39 EU 580 762 31.38 Nhật Bản 514 513 -0.19 ASEAN 83 114 37.35 Đài Loan 188 194 3.19 Hàn Quốc 67 60 -10.45 úc 21 21 0 Canada 35 48 37.14 Châu Phi 12 20 66.67 Đông Âu 103 69 -33.01 Khác 79 93 17.72 Nguồn: Từ tài liệu của trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Tp HCM Ta thấy hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang 3 thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản là lớn nhất. 1.1 Thị trường Mỹ Sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được chính phủ hai nước ký kết ( năm 2000 và dược quốc hội thông qua năm 2001). Mỹ đã trở thành thị trường lớn, đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004 ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m sản phẩm; trong khi Trung Quốc giá từ 2,96 USD/m sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/ m sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng ( cat ) nóng nhất trên thế giới như hiện nay vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may vào Mỹ cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim ( cat. 388/339 ) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vào vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat.347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ. Bên cạnh đó cũng có nhiều điều mà các doanh nghiệp phải rút ra khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ : Các doanh nghiệp cần xuất khẩu trực tiếp cho các công ty có đẳng cấp của Mỹ. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được điều này mà phải xuất qua các công ty trung gian ở Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc… Việc xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ phải qua một nước thứ ba gây nhiều bất lợi đối với Việt Nam, bởi các doanh nghiệp phải mất thêm tiền cước phí vận chuyển, tiền chênh lệc giá… và thương hiệu sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ ít được người tiêu dùng ở thị trường Mỹ biết đến. 1.2 Thị trường EU Theo những đánh giá mới đây của các tổ chức dệt may quốc tế, EU vẫn là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc, chiếm 49% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại, đem đến cơ hội tốt cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cơ hội này càng trở nên hấp dẫn hơn khi EU đang có xu hướng chuyển nguồn nhập khẩu sang các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này. Các nước thuộc EU là thị trường trọng điểm đối với hàng may mặc của Việt Nam. Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này luôn đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị và thị phần xuất khẩu USD. Bảng 6 : Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU Đơn vị : triệu USD Năm XK vào EU Tăng, giảm(%) 2000 650 7.4 2001 745 14.6 2002 720 -3.4 2003 700 -2.8 Nguồn : Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan Từ năm 2007, khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO, hạn ngạch hàng may mặc bị loại bỏ giữa các thành viên của tổ chức này thì hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn so với trước. Từ ngày 1/1/2005 sẽ có khoảng 165 mã hàng dệt may các loại được tự do xuất vào thị trường EU mà không gặp phải trở ngại nào. Các quốc gia sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU với những lợi thế của riêng mình. Trung Quốc là một đối thủ mạnh nhất trong xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tại thị trường EU, sau đó là ấn Độ, một số nước ở châu á và các quốc gia vùng Địa Trung Hải. Theo các chuyên gia kinh tế dự báo, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi trong năm năm tới, giá hàng dệt may của Trung Quốc thấp hơn giá của các nước EU từ 50-70%, thấp hơn giá của ấn Độ 30% nên đã làm chủ được thị trường này. Trung Quốc đã trở thành nhà cung cấp hàng may mặc số một cho thị trường EU với một số lượng rất lơn, giá thành hạ, chất lượng tốt và đa dạng hoá sản phẩm. Một vài năm trở lại đây, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam voà thị trường EU giảm, tuy được bỏ hạn ngạch, tức là cơ hội ngang bằng giữa các nước, nhưng tình hình xuất khẩu của Việt Nam giảm như thế thể hiện năng lực cạnh tranh của ta còn nhiều vấn đề. 1.3 Thị trường Nhật Bản Đối với hàng dệt may, thị trường tiêu duàng Nhật Bản là một thị trường phát triển. Tỷ trọng hàng may mặc nhập khẩu chiếm khoảng 38% tổng khối lượng thị trường hàng may mặc nước này. Các nhà nhập khẩu hàng may mặc vào Nhật Bản đều phải đóng thuế và chịu trách nhiệm về nhãn hiệu hàng hoá. Yếu tố giá cả không phải là quyết định cho thành công của nhà xuất khẩu nước ngoài. Quan trọng nhất là họ phải tạo dựng được tên tuổi và uy tín sản phẩm của mình thì mới có cơ hội lâu dài. Người tiêu dùng hàng may mặc ở Nhật Bản khá khó tính, đặc biệt về mốt thời trang, phải cung cấp kịp thời những sản phẩm đang hợp mốt, đặc biệt là khách hàng trẻ tuổi- những người có sở thích thay đổi mẫu mốt rất nhanh. Nhật Bản là thị trường đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, từ nguyên phụ liệu đến quy trình sản xuất phải tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn chất lượng JIS cũng như các điều luật, quy định cho sản xuất và nhập khẩu hàng hoá. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản từ năm 1994, và ngay năm tiếp theo, Việt Nam đã lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Năm 1996, Việt Nam vươn lên đứng hàng thứ 8 và năm 1997 đã trở thành một trong 7 nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào thị trường Nhật Bản. Năm 2001, trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 2.510 triệu USD, hàng dệt may đạt 592 triệu USD chiếm tỷ trọng cao nhất ( 24% ) Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế theo hệ thống GSP cuả Nhật Bản. Đây là một thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh không chỉ về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Bên cạnh đó, hiện nay do lượng hàng may mặc của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản tăng lên đáng kể nên nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đang yêu cầu chính phủ Nhật Bản áp dung hạn ngạch đối với Việt Nam, điều này tạo ra những trở ngại không nhỏ vào những năm tơí cho hàng dệt may Việt Nam. 1.4 Các thị trường khác Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc. Tuy nhiên các nước này không phải là thị trường nhập khẩu chính mà là các nước nhập khẩu để tái xuất khẩu sang nước thứ ba. 2. Những đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam 2.1 Ngành dệt may Trung Quốc Theo Hội đồng các tổ chức dệt may Mỹ ( NCTO), kể từ khi Mỹ dỡ bỏ hạn ngạch cho Trung Quốc ( tháng 1/2002) thị phần của 25 cat hàng dệt may Trung Quốc đã tăng mạnh từ 9% lên 65%, và đang tiếp tục tăng khoảng 1% mỗi tháng. Với đà tăng trưởng, Trung Quốc có thể chiếm 80% thị phần vào cuối năm nay, Trung Quốc xẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường dệt may Mỹ, và ngành dệt may nước này có nguy cơ mất hơn 650 000 việc làm. Hiện nay theo số liệu của Tổng cục thống kê Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước này tới Mỹ trong vài tháng đầu năm 2007 tăng tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn phần trăm về một số sản phẩm. Thông tin của Bộ Thương mại Mỹ cho biết, ngay sau khi WTO bãi bỏ hạn ngạch, đơn hàng của các doanh nghiệp Mỹ ngày càng đổ dồn vào các nhà sản xuất Trung Quốc. Đến nay, các mặt hàng như áo sơ mi, quần âu,jacket của các nhà sản xuất Trung Quốc đã chiếm tới 70-80% thị trường Mỹ. Sự thâm nhập quá mạnh của hàng dệt may ở thị trường Mỹ đã khiến cho hàng trăm ngàn công nhân của các công ty dệt may Mỹ thất nghiệp cho dù họ đã được trợ cấp nhiều từ Chính phủ. Cục Thống kê lao động Mỹ cho biết đến hết tháng 6/2006 đã có tới 14 ngàn lao đồng trong ngành dệt may Mỹ bị sa thải do thiếu việc lam. Thực tế cho thấy, do không còn chế độ hạn ngạch gây trở ngại Trung Quốc đã sẵn sàng chi phối hoạt động buôn bán dệt may toàn cầu và làm gia tăng những căng thẳng thương mại trên thế giới. Liên doanh các nhà dệt may Mỹ cho rằng, thực trạng hiện nay cũng đủ bằng chứng để yêu cầu chính phủ nước họ đưa ra những biện pháp nhằm ngăn chặn khẩn cấp đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc. Trước tình hình này, chính phủ Mỹ đã phải tính đến khả năng áp dụng trở lại chế độ hạn ngạch. Trước mắt sẽ tăng cường giám sát nhập khẩu hàng dệt may và thêu ren nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách nhanh chống phân tích tác động của hàng nhập khẩu đối với thị trường Mỹ. Không chỉ Mỹ và cả EU và các thị trường khác cũng đang lo ngại trước sức lấn chiếm của hàng dệt may Trung Quốc trên thị trường của họ. Liên đoàn công nghiệp dệt may của Bỉ đã đề nghị EU dùng các biện pháp bảo hộ ngành dệt may của Bỉ nói riêng và của EU nói chung trước sự lấn át của hàng dệt may Trung Quốc. Hàng dệt may Trung Quốc có thể tăng trưởng nhanh như vậy vì nó có giá rẻ, chất lượng đảm bảo và đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Hiện nay Trung Quốc là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất và có nhiều lợi thế nhất: - Trung Quốc có nguồn nguyên liệu tự nhiên sản xuất được trong nước như bông, vải , thuốc nhuộm… - Có công nhân lành nghề. - Thiết bị sản xuất được đổi mới thường xuyên nhờ vốn FDI. - Hạ tầng cơ sở khá. - Chi phí lao động vào loại thấp nhất thế giới ( 0,4$/giờ), trong khi đó Thai Lan có chi phí lao động la 1,2$/ giờ – cao gấp 3 lần và Nhật Bản Là 22,8$/ giờ – cao gấp 57 lần. Và chính sự phát triển ồ ạt như vậy cũng gây lo ngại cho nền kinh tế Trung Quốc bởi sau sự tăng trưởng ồ ạt thường là dẫn tới sự suy thoái trong nền kinh tế. 2.2 Ngành dệt may ấn Độ Xuất khẩu hàng dệt chiếm khoảng 20% trong tổng xuất khẩu hàng hoá của ấn Độ. Trong tài khoá 2004/05, ấn Độ đã xuất khẩu được 13,2 tỷ USD hàng dệt,tăng 10% so với tài khoá trước đó. Hiện nay, các nhà máy, công ty dệt may ấn Độ được điều hành bởi một thế hệ quản lý mới. Họ tập trung, quan tâm đến hoạt đông sát nhập nhằm nâng cao chất lượng và tiết kiệm chi phí. Chính phủ cũng theo dõi sát sao ngành dệt may- lĩnh vực phát triển ngoạn mục, chỉ sau dịch vụ và sản xuất. Mặc dù ấn Độ đã chuẩn bị từ lâu để đón đầu thời điểm hạn ngạch được xoá bỏ, nhưng không hẳn mọi việc sẽ xuôi chèo mát mái, vì họ còn phải cạnh tranh với Trung Quốc và Pakistan. Ân Độ đàu tư gần 1,2 tỷ USD để hiện đại hoá những nhà máy đã xuống cấp do quản lý yếu kem, 2 tỷ USD khác cũng được rót vào mua máy móc thiết bị hiện đại, phục vụ cho dây chuyền sản xuất và hệ thống quản lý chất lượng, nhằm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, 70% nhà xưởng của ấn Độ hiện đại hơn các cơ sở sản xuất của Trung Quốc, Pakistan. Chính phủ ấn Độ còn cho phếp khuyến khích phát triển công nghiệp dệt bằng cách cho phép tự do vay vốn của nước ngoài. Hầu hết các hiệu may nổi tiếng của châu Âu và châu Mỹ đều đã lập chi nhánh ở ấn Độ, ngành này hy vọng lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng lên với cấp số nhân. Nếu các kế hoạch diễn ra tốt đẹp, dệt may ấn Độ đến năm 2012 sẽ thu về 30 tỷ USD nhờ xuất khẩu dệt may so với 12 tỷ USD như hiện nay. Tuy nhiên các nhà sản xuất hàng dệt ấn Độ vẫn gặp phải những khó khăn từ các thị trường đối thủ, nhất là Trung Quốc. Một số Hiệp định mậu dịch dành những ưu đãi cho các nước trong khu vực cũng là những bất lợi đối với hàng dệt ấn Độ, chẳng hạn như : Hiệp định tự do Bắc Mỹ ( NAFTA ) đẩy ấn Độ vào thế bất lợi hơn so với Mexico vì Mexico cũng là nước sản xuất có chi phí thấp, nên lợi thế miễn thuế làm Mexico dễ dàng tăng thị phần ở Mỹ. Trong khi đó, sản phẩm của ấn Độ xuất khẩu sang Mỹ phải chịu thuế 15% đến 35% tuỳ loại. Mặc dù hiện nay Trung Quốc là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới nhưng ấn Độ cũng có những lợi thế đáng kể, ấn Độ là nước sản xuất sợi lớn nhất thế giới, chiếm 25% thị phần toàn cầu, và là một nước sản xuất sợi bông hàng đầu. Bên cạnh đó, ấn Độ còn có lực lượng lao động lành nghề dồi dào, sản xuất vải sợi bông dệt chéo của ấn Độ có sức cạnh tranh hơn của Trung Quốc, vì vậy ấn Độ có nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào cho các nhà máy của mình, đồng thời vẫn còn dự trữ để bán cho Trung Quốc và một số nước khác. Từ đó cho thấy ấn Độ không những là đối thủ cạnh tranh lớn của dệt may Việt Nam mà của cả dệt may Trung Quốc. Câu hỏi đặt ra cho xuất khẩu hàng dệt may của Viêt Nam và một số nước khác là ngành dệt may của ấn Độ có thể cộng tác với Trung Quốc? Vì ngành dệt may ấn Độ đã từng đứng đầu thế giới, và trong suốt một thời gian dài vải vóc của ấn Độ đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Còn bây giờ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ấn Độ đang tăng rõ rệt. II. Cơ hội, thách thức của ngành dệt may Việt Nam 1. Cơ hội của ngành dệt may Việt Nam - Chính sách hỗ trợ của Nhà nước được xem là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp dệt may. - Với điều kiện địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, Việt Nam trở thành quốc gia có nhiều ưu thế trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Môi trường đầu tư thông thoáng là một yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn vào ngành dệt may. - Xu hướng dịch chuyển sản xuất hàng dệt may sang các nước đang phát triển đã mở ra một cơ hội mới, một sức sống mới cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. - Nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công thấp tạo lợi thế so sánh trong cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của các nước khác. - Việt Nam được đánh giá là thị trường khá ổn định và đó là một điều kiện rất tốt để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thu hút được nhiều các đơn đặt hàng từ các nước ngoài. - Thị trường nội địa với số dân đông là một bước đệm vững chắc cho các doanh nghiệp dệt may vươn ra thị trường thế giới. - Việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ , gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN và mới đay nhất là chính thức gia nhập WTO đang mở ra chu kỳ phát triển kinh tế mới cho kinh tế Việt Nam, trong đó có ngành dệt may. - Xu thế đặt hàng theo điều kiện giao hàng FOB của EU đã mở thêm một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. - Việc Việt Nam mở rông quan hẹ ngoại giao với hầu hết tát cả các nước trên thế giới quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đã tạo điều kiện thuận lợi lớn cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập trong đó có ngành dệt may. 2. Những thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam - Thách thức đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp phải là tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất. Hiện nay nguồn nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, còn 80% phải nhập từ nước ngoài. - Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang hoạt động dưới hình thức may gia công, do đó lợi nhuận thu được là rất thấp. Từ đó đẫn tới việc tích luỹ và tái đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ kỹ thuật gặp nhiều khó khăn. Vì thế trình độ trang thiết bị và công nghệ ngành dệt may còn nhiều lạc hậu. - Lao động trong ngành dệt may chủ yếu đào tạo theo hình thức ‘ một kèm một ‘. Số lượng công nhân có tay nghề cao tại các doanh nghiệp còn thấp, số cán bộ kỹ thuật được đào tạo đúng với thực tiễn lại càng khan hiếm trong khi các cơ sở đào tạo lại chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo của các doanh nghiệp. - Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đang đặt các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng thách thức và khó khăn mới. III. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. 1. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu Nhà nước hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Cần có một trung tâm xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường. 2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn Các doanh nghiệp cần tiến hành nhanh quá trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như liên doanh, liên kết. Nhà nước cần tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đầu tư vào những mặt hàng trong điểm, ổn định và bền vững về chất lượng cũng như thị trường. 3. Nâng cao hiệu quả gia công Phải từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu sang nước thứ ba. 4. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể: - Không ngừng áp dụng các thiết bị khoa học kỹ thuật mới, kiện đại hoá trang thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may. - Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. - Tuân thủ nghiêm ngặt kênh đặt hàng về nguyên liệu, quá trình sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc. - Đảm bảo yêu cầu giao hàng bằng cách đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, chủ động trong vận chuyển và bốc xếp hàng hóa. - Nhà nước có thể hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp bằng cách kéo dài thời gian hoà vốn để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh bằng giá. 5. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu Đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu, bản vẽ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hợp lý. Tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua các quỹ của nhà nước. Kết luận Xuất khẩu là hướng quan trọng để tăng trưởng nhanh và bên vững cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng. Dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển khá rõ rệt để khẳng định mình trên thị trường quốc tế. Trong quá trình hội nhập, bên cạnh những co hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu còn nhiều thách thức. Vì vậy, việc tìm kiếm thị trường nước ngoài không chỉ riêng của các doanh nghiệp, mà Nhà nước cuãng phải tham gia vào mở rông thị trường cho nước ta bằng các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu qua hải quan chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Xuất khảu hàng dệt may Việt Nam thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó nkhăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước như Đại Hội X đã đưa ra. Tài liệu tham khảo 1) Cẩm nang thị trường xuất khẩu- thị trường Nhật Bản ( Viện nghiên sứu Thương mại- ban nghiên cứu thị trường ) – NXB Lao động Xã hội. 2) Giáo trình kinh doanh quốc tế ( Chủ biên: PGS.TS Nguyễn Thị Hường) – NXB Lao động Xã Hội. 3) Kinh tế Sài Gòn Số 5/2006; 12/2006. 4)Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế ( Luận án tiến sĩ của tác giả Thân Danh Phúc ) 5)Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ( Chủ biên PGS.TS Trần Chí Thành ) – NXB Lao động Xã hội. 6) Thông tin trên mạng Internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0657.doc
Tài liệu liên quan