Đề tài Các chính sách cơ bản của chính phủ để phát triển nông nghiệp- Nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay

Trong suốt hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta nói chung và nền kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng. Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà ở đó mọi người dân đều có quyền dân chủ trong mọi quyết định của mình. Vì vậy muốn cho nền kinh tế nước ta đi lên thì Đảng và nhà nước ta phải luôn có các chính sách kinh tế cho phù hợp với từng thời kỳ. Vì vậy, đổi mới cơ chế chính sách kinh tế nông nghiệp - nông thôn nó khônh những là nhiệm vụ của nhà nước mà nó là nhiệm vụ của toàn dân.

doc30 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các chính sách cơ bản của chính phủ để phát triển nông nghiệp- Nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần thiết song các nỗ lực thường tập trung vào các chính sách: thị trường, giá cả, chính đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp, giảm nhẹ điều tiết thu nhập từ nông dân. Phần ii các chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay I-/ Các chính sách kinh tế được áp dụng cho nông nghiệp - nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế, nông nghiệp- nông thôn việt nam trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Để đạt điều điều này Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm tiếp tục duy trì sự phát triển của nông nghiệp- nông thôn, đồng thời tạo ra thời kỳ mới cho nông dân việt nam. Đó là thời kỳ mà nhân dân ta không chỉ có đủ ăn mà còn là giai đoạn hưởng thụ những thành quả lao động sáng tạo của mình. Tiếp thu tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI- 1986, tháng 7-1993 Đảng và nhà nước ta tiến hành sửa đổi luật đất đai, trong đó có chính sách ruộng đất nông nghiệp. 1-/ Chính sách ruộng đất ( Được ban hành và sửa đổi tháng7-1993 ). Nếu như trước năm 1986 ruộng đất thuộc quyền sở hữu của hợp tác xã và hợp tác xã tiến hành khoán sản phẩm tới từng hộ gia đình, nhóm người lao động (chỉ thị khoán 100 ngày 13/1/1981 của ban bí thư trung ương Đảng), tuy nhiên đến bây giờ nó không còn phù hợp nữa. Vì vậy để đáp ứng với tình hình đổi mới của sản xuất nông nghiệp- nông thôn Đảng và nhà nước ta đã tiến hành ban hành và sửa đổi chính sách ruộng đất. Chính sách ruộng đất mới ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó giúp cho người nông dân có ruộng đất để sản xuất và phần nào nó góp vaò sự ổn định của sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, giảm đói nghèo. Nội dung cơ bản của chính sách ruộng đất: Thứ nhất: Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Hộ gia đình nông dân được nhà nước giao đất và mặt nước sản xuất nông- lâm- ngư để sử dụng lâu dài. Thứ hai: Thời gian giao đất và sử dụng đối với cây hàng năm là 20 năm, với cây lâu năm là 50 năm. Thứ ba: Trong thời gian sử dụng đất người dân phải nộp các khoản thuế một cách đầy đủ. Thứ tư: nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho dân cư. Nếu chưa kịp cấp giấy chứng nhận thì cấp giấy chứng nhận tạm thời cho họ. Khi ban hành chính sách này nhà nước ta xuất phát từ tình hình thực tế trong nước vì thế trong quá trình thực hiện nó đã đạt được những kết quả đáng khả quan. 1. 2. Tiến độ thực hiện chính sách ruộng đất: Theo báo cáo cuả cục địa chính việt nam đến nay trong nông thôn mới thực hiện giao khoán cho các hộ gia đình được: 2126619 ha bằng 39% tổng diện tích đất canh tác. Số hộ được cấp giấy chứng nhdụng đất nông nghiệp 1439618 bằng 28. 7% tổng số hộ được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất nông nghiệp và số diện tích đã được cấp giấy là 1257148 ha, bằng 16. 7% số diện tích cần phải cấp. Để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách này một cách có hiệu quả Đảng ta đã đề ra các chính sách khác để thực hiện một cách đồng bộ: 2-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Cùng với chính sách ruộng đất thì trong những năm vừa qua, Chính phủ ta cũng có những chính sách thúc đẩy cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Điều đó nó càng khẳng định vai trò của nông nghiệp- nông thôn và trong đó thì yếu tố về cơ sở hạ tầng là rất quan trọng. Để đánh giá một nước có trình độ dân trí, trình độ công nghiệp hoá hay không thì người ta căn cứ vào cơ sở hạ tầng nông thôn. Vì vậy việc ban hành và sửa đổi chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn là điều cần thiết. 2. 1. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Xuất phát từ cơ sở hạ tầng nông thôn Việt nam trong thời gian gần đây còn có nhiều hạn chế. Vì vậy trong thời gian qua để củng cố lại cơ sở hạ tầng nông thôn Đảng và nhà nước ta đã đề ra các chính sách sau: Thứ nhất là: Tỷ trọng đầu tư dành cho thuỷ lợi từ 60%- 70% tổng nguồn vốn đầu tư, nhưng trước hết phải tập trung vào nâng cấp các cơ sở hiện có sau đó mới tiến hành xây dựng mới và mua sằm, và dành một phần đáng kể vào xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn trên cơ sở phát triển giao thông nông thôn đến năm 2010. Thứ hai là: Về công tác xây dựng hệ thống trường học, trung tâm văn hoá, y tế xã hội thì tổ chức huy động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, ngân sách nhà nước, nguồn vốn FDI, nguồn vốn ODA của các tổ chức phi chính phủ (trước đây đầu tư vào lĩnh vực này chỉ có nguồn vốn của nhà nước). Thứ ba là: Tăng cường thêm vốn cho công tác nghiên cứu và chuyển giao cong nghệ hiện đại cho nông thôn. Thứ tư là: công tác nghiên cứu nông nghiệp và đào tạo cán bộ khuyến nông nghiệp được hưởng chế độ ưu tiên đảm bảo bù đắp đủ các chi tiêu cần thiết. Thứ năm là: Đối với ngành năng lượng cần tổ chức lắp đặt hệ thống đồng hồ đo điửn và điều chỉnh mức giá chung cho bằng với mức giá ở thành thị. Thứ sáu là: Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trực tiếp sản xuất như : nhà xưởng, máy móc thiết bị, kho tàng bến bãi ở nông thôn chuyển thành vốn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp để khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư phát triển. 2. 2. Về tạo vốn sản xuất cho nông thôn: Về tạo vốn cho sản xuất nông thôn Đảng ta đề ra các chính sách cụ thể sau: Một là: Tiến hành sửa đổi luật đầu tư, để khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào nông thôn nhiều hơn. Hai là: Xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc phát triển đầu tư. Ba là: Huy động nguồn vốn cho sản xuất từ nhiều nguồn vốn khác nhau như: nguồn vốn ODA, FDI, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. 3-/ Vấn đề về tổ chức và chính sách phát triển thị trường nông thôn cho kinh tế nông thôn. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta gặp nhiều khó khăn trở ngại hơn hẳn ở đô thị trong việc tiếp cận các loại thị trường khác nhau. Vì vậy muốn giúp đỡ cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn đi vào hoạt động kinh tế theo định hướng thị trường mà không chịu nhiều thua thiệt thì cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Sự kết hợp hài hoà giữa thị trường và các chính sách kinh tế đối với nông thôn là điều kiện đảm bảo cho nông thôn phát triển. Từ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm từ các nước, từ thực tế nông nghiệp- nông thôn việt nam. Đảng và nhà nước ta đã đề ra các chính sách cụ thể cho phát triển nông nghiệp- nông thôn việt nam. 3. 1. Chính sách về thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông nghiệp- nông thôn việt nam. Thứ nhất là: tổ chức nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng của từng khu vực dân cư trong cả nước. Thứ hai là: kiên trì thực hiện chính sách tự do hoá thương mại nói chung và các mặt hàng nong sản nói riêng. Khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham ra lưu thông hàng hoá nông lâm thuỷ sản. Thứ ba là: thương nghiệp quốc doanh tập trung nắm giữ các mặt hàng thiết yếu, có dự trữ lưu thông để điều hoà cung cầu, chủ động can thiệp vào thị trường khi cần thiết, kể cả nông thôn và thành thị. Thứ tư là: Nhà nước có hệ thống tiếp thị nông sản phẩm trên các khu vực để thông báo các biến động của thị trương nông sản phẩm trên tương khu vực và trên cả nước cho người sản xuất biết. Đồng thời chủ động hình thành các trung tâm buôn bán nông sản phẩm thiết yếu của các vùng sản xuất hàng hoá tập trung để cá nhà buôn có điều kiện tổ chức thu gom và tập trung nông sản từ các nơi sản xuất. Thứ năm là: nhà nước quy định rõ các tiêu chuẩn kỹ thuật như văn minh thương nghiệp, chất lượng sản phẩm, vệ sinh và kiểm tra sát sao việc thực hiện của các nhà buôn. Thứ sáu là: đối với các vùng nông thôn miền núi xa xôi nhà nước giao trách nhiệm trao đổi hàng hoá cho các công ty thương nghiệp nhà nước với chế độ bù đắp thoả đáng cá kinh phí và miễn thuế doanh thu. Khuyến khích mở mang các chợ nông thôn, tạo điều kiện cho giao lưu hàng hoá nhỏ và phân tán phát triển. 3. 2. Về chính sách phát triển hàng nông-lâm-thuỷ sản. Trong nhưng năm qua hoạt động sản xuất hàng nông lâm-thuỷ sản đã gia tăng đáng kể và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường. Tình hình gia tăng gía cả các mặt hàng nông sản như: giá gạo, giá cà phê, giá cao su..., nó đã tạo lợi thế cho các mặt hàng này của Việt nam tham gia ngày càng có uy tín và vị trí trên thị trường thế giới. Song rất nhiều lợi thế đã không được phát huy do trình độ sản xuất, chế biến của Việt nam còn quá thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng vệ sinh còn kém. Vì vậy chính sách xuất khẩu nông lâm-thuỷ sản đã được nhà nước ta quy định như sau: Một là: Cần phải nghiên cứu tỉ mỉ, chi tiết về khả năng tiêu thụ của từng loại mặt hàng với các tiêu chuản như mẫu mã, chất lượng cụ thể mà từng thị trường trên thế giới yêu cầu đáp ứng. Hai là: Có quy định cụ thể mức thu thuế xuất nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng. Ba là: Thị trường chủ yếu của mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản của nước ta là thị trường truyền thống như: Nga, Trung Quốc và thị trường các nước Đông Âu. 3.3. Chính sách về thị trường vốn và tư liệu sản xuất cho kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Trong thời gian qua chúng ta đã thực thi nhiều biện pháp nhằm ổn định giá cả của hàng hoá và giá cả của tiền tệ nhằm huy động nguồn vốn cho nông thôn. Nhà nước ta quy định cụ thể cho từng loại như sau: Một là: nhà nước quy hoạch taọ mặt bằng nhiều nơi ở nông thôn để cho các thành phần kinh tê có điều kiện về vốn và hiểu biết về hoạt động kinh doanhcacs mặt hàng tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp và các hoạt động sản xuất khác phát triển. Hai là: Tăng cường chức năng giám sát của cơ quan quản lý thị trường tư liệu sản xuất nông thôn để kiểm tra và xử lý kịp thời các vụ buôn bán hàng giả gây thiệt hại cho sản xuất; đồng thời là trung tâm tư vấn về tư liệu sản xuất mới cho nông thôn 3. 4. Chính sách về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn. Đối với các chính sách ruộng đất và chính sách thị trường đầu ra cho sản xuất nông nghiệp-nông thôn thì chính về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn cũng như các chính sách về công nghệ nó là tiền đề tác động trực tiếp đến sự phát triển của các chính sách đó. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách cơ bản sau để giải quyết vấn đề về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn như sau: Một là: Mở rộng hoạt động hướng nghiệp và tư vấn về nghề nghiệp của các trung tâm hướng nghiệp trung ương từ thành thị chuyển về nông thôn. Hai là: Triển khai các hoạt động nghiên cứu về nhu cầu việc làm đối với từng đối tượng lao động để từ đó tạo ra chính sách phù hợp. Ba là: Nghiên cứu sự di chuyển lao động giữa các vùng nông thôn để đề ra giải pháp hợp lý các quá trình di chuyển và khuyến nghị phát triển việc làm ở từng vùng, mở rộng các làng nghề truyền thống. 4-/ Chính sách xã hội: Trong thời gian qua cùng với việc ban hành và sửa đổi các chính sách kinh tế. Đảng và Nhà nước ta cũng tập trung vào việc ban hanh và sửa đổi các chính sách xã hội bởi các vấn đề về xã hội nó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước nhà. Trong các chính sách đó thì chính sách xoá đói giảm nghèo là một trong những được chính phủ ta đặt lên hàng đầu. Theo số liệu thống kê trong sáu năm từ 1992-1998 cả nước đã đầu tư 10927 tỷ đòng cho trương trình xoá đói giảm nghèo và đã mang lại kết quả: hàng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống chừng 1, 8 đến hai phần trăm. Đến tháng 7/1998 còn 17, 4% hộ đói nghèo (theo tính toán của chính phủ Việt nam). Nhưng theo tính toán của ngân hàng thế giới chúng ta có khoảng 50% số hộ nghèo đói. Để giải quyết vấn đề này trong thời gian qua chúng ta đã có các biện pháp: Một là: Về chính sách ruộng đất Nhà nước đã đề ra các chính sách: Nhà nước đã trả lại phần ruộng đất của hộ nông dân đói nghèo, nợ sản phẩm cũ đã bị rút bớt ruộng để các hộ nông dân này canh tác tự đảm bảo cục sống, giảm nghèo đói cho gia đình họ. Hợp tác xã và các cấp chính quyền xác định đúng sổ nợ cũ khó trả của số hộ nông dân nghèo đói bị nợ sản phẩm của hợp tác xã, của ngân hàng và có giải pháp xoá một phần hoặc xoá cả số nợ sản phẩm và khoanh nợ ngân hàng cho các chủ nông hộ đang trong hoàn cảnh nghèo đói. Nhà nước đã có các chính sách trợ cấp và miễn giảm thuế đối với các hộ nghèo. Hai là: Về chính sách vốn đầu tư cho các hộ nông đân đói nghèo: Trên cơ sở xác định đúng tiêu chuẩn hộ đói, nghèo và hướng dẫn lập kế hoạch làm ăn, Nhà nước cho vay không lãi, không thế chấp và chuyển thẳng tiền mặt trực tiếp theo đơn xin vay của hộ đói( khoảng 3 triệu đồng) và hộ nghèo( khoảng 2 triệu đồng). Nhà nước cho phép các tổ chức tham gia vào chương trình này bằng các ngồn vốn khác nhau. Ngoài ra chính phủ còn có các chương trình trợ cấp cho các hộ nông dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa tiến hành trợ giá nông sản cho các vùng đó. Các chương trình đó đã đạt được kết quả rất cao làm cho bộ mặt nông thôn ngay càng được phát triển. Cùng với các chính sách cơ bản ở trên Đảng và Nhà nước ta còn thực hiện những chính sách khác, để cùng hỗ trợ cho các chính sách cơ bản ở trên giải quyết một cách tốt nhất vấn đề phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta. 5-/ Các chính sách khác. 5. 1. Chính sách tỉ giá: Năm 1986 chính sách phá gí đồng tiền của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy trong những năm gần đây chính phủ ta luôn thực thi chính sách ổn định tỉ giá của đồng tiền trong nước, bởi sự gia tăng đột ngột của tỉ gia thông qua biện pháp chủ động phá giá đồng tiền nội tại một cách chủ quan không dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ đều sẽ đưa nền kinh tế đi đến khủng hoảng, ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp nông thôn, phá vỡ cơ cấu kinh tế nông thôn. 5.2. Chính sách điều tiết nông dân và kinh tế nông thôn: Nó thể hiện sự tổng hợp mối quan hệ giữa Nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, quan điểm của Nhà nước ta về chính sách điều tiết là làm giảm nhẹ các khoản chi phí của nông dân, đồng thời hỗ trợ các mặt để nông dân nông thôn vươn lên vượt qua đói nghèo. 5.3. Chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn: Xuất phát từ thực tiễn khách quan cảu tình hình kinh tế trong nước và trong khu vực Đảng ta đã đề ra các chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn hư sau: Một là: Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy hoạch phát triển khu công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Trong quá trình quy hoạch phải coi trọng việc gắn nó với quy hoạch xây dựng các tụ điểm dân cư theo hướng đô thị hoá và hiện đại hoá kinh tế nông thôn. Hai là: Gắn chính sách phát triển các nghành công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn trong thể chiến lược công nghiệp hoá đất nước. Định hướng phát triển ông nghiệp ở nông thôn được xác định ngay từ đầu. Định hướng phát triển các nghành công nghiệp lớn cần hướng vào phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Ba là: Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thốnh cung cấp điện cho nông thôn. Trước hết tập trung cho các xã các vùng đông dân cư và vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng khó khăn, vùng thưa dân, chưa đủ khả năng đi sâu vào sản xuất hàng hoá. 5.4. Chính sách đào tạo cán bộ cho nông nghiệp và nông thôn. Cũng như các chính sách khác chính sách đào tạo cán bộ cũng được chinhs phủ ta quan tâm, coi nó như là cái gốc tạo nên sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Thứ nhất là: Thường xuyên tiến hành công tác nâng cao trình độ quản lý chô đội ngũ lãnh đạo, thông qua các khoá học ngắn hạn và trao đổi kinh nghiệm. Thứ hai là: Có chính sách đãi ngộ với đội cán bộ có năng lực và trình độ. Với các chính sách cơ bản của mình, Đảng và nhà nước ta đã phần nào tạo ra sự đổi khác cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp- nông thôn ở nước ta trong thời gian vừa qua. Điều này, nó được thể hiện rõ nhất thông qua những kết quả sau đây: II-/ Những ảnh hưởng của chính sách kinh tế đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói công cuộc đổi mới kinh tế giai đoạn đầu của việt nam là sự gặp gỡ giữa tìm tòi sáng tạo của quần chúng, cán bộ ở cơ sở địa phương- Những người hàng giờ hàng ngày gắn bó với thực tế với lợi ích của người lao động, với sự đổi mới tư duy của các cấp lãnh đạo. Sự gặp gỡ đó thể hiện sự gắn bó của người lãnh đạo với cuộc sống hàng ngày của người nông dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân đó là đặc trưng quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta. Với những kết quả và kinh nghiệm đã đạt được trong giai đoạn 1981- 1985 Đảng cộng sản việt nam đẫ kịp thời rút ra thực tiễn và kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công để đi đến quyết định đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế. Trong đó có đổi mới cơ chế chính sách nông nghiệp- nông thôn. 1-/ Tác động đến sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 1.1. Vị trí của nông - lâm- ngư nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Trong 3 năm 1996- 1998 cơ cấu kinh tế nông thôn đã chịu sự tác động tích cực của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Giá trị công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trong cơ cấu GDP tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối và số tỷ trọng, nông nghiệp tuy vẫn tăng số tuyệt đối nhưng tỷ trọng giảm dần do tốc độ tâng trưởng của nó tăng chậm hơn so với công ngiệp và dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng của công ngiệp năm 1996 là 13. 87%, năm 1997 là 13% và năm 1998 là 12%. Trong khi tốc độ tăng trưởng tương ứng của nông nghiệp là 4. 4%, 4. 2%, và 2%. Khu vực kinh tế nông thôn từ năm 1996-1998 liên tục được mùa, sản lượng thực tăng bình quân là 1. 2 triệu tấn/ năm. công nghiệp nông thôn và các nghành dịch vụ tiếp tục phát triển và mở rộng, nhất là các vùng nông thôn ngoại ô thành phố, thị xẫ, khu công nghiệp, khu chế xuất nên tốc độ tăng trưởng cao hơn nông nghiệp. Công nghiệp xây dựng tăng từ 6%-7%, dịch vụ tăng 5%. Tốc đọ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông nghiệp nó làm cho nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã hình thành nghành sản xuất quan trọng gắn với các hoạt động chế biến vận chuyển, bảo quản nông –lâm- thuỷ sản và sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Sự chuyển dịch của lao động sang các nghành khác là không đáng kể. Bởi vì nông nghiệp đã phần nào tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Mặt khác việc thay đổi nghành nghề và lĩnh vực hoạt động nó diễn ra một cách không dễ dàng. Nó cần phải có những tiền đề và điều kiện lao động nhất định liên quan đến vốn đầu tư, khoa học công nghệ. Về mặt xuất khẩu sản phẩm nông – lâm- ngư nghiệp tuy tỷ trọng có giảm nhưng nó vẫn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 1.2. Cơ cấu kinh tế nội bộ nông- lâm- ngư nghiệp. Cơ cấu nội bộ của nghành nay giảm(1996- 1998)dần về mặt tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của nghành thuỷ sản, ổn định tỷ trọng của nghành lâm nghiệp, nhưng tốc độ tăng trưởng của mỗi nghành vẫn tăng dần với nhịp độ khác nhau: nông nghiệp tăng từ:4-4. 5%, lâm nghiệp 1%, thuỷ sản 5- 6%. Nông nghiệp có tỷ trọng lớn trong nghành nông lâm thuỷ sản nhưng có xu hướng giảm dần tỷ trọng. Bình quân giai đoạn (1996- 2000) tỷ trọng nông nghiệp giảm 0. 1%/ năm. Lâm nghiệp vừa chiếm tỷ trọng nhỏ lại phát triển không ổn định, vốn rừng suy giảm, nhất là rừng tự nhiên buộc nhà nước phải đóng cửa rừng. Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi: Nó có sự tiến bộ hơn so với thời kỳ 1991- 1995. Tỷ trọng chăn nuôi năm 1998 chỉ đạt 21% và dự báo đến năm 2000 cũng chỉ đạt ở mức 24%. Tác động đén cơ cấu vùng nông thôn và nông- lâm- ngư nghiệp trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Tình hình chung: a. Một là về diện tích đất tự nhiên: Đất đai tập trung nhiều ở vùng miền núi, trung du ( chiếm 31. 7% so với diện tích cuả nước), tiếp theo là vùng tây nguyên chiếm 16. 9%, khuiV cũ 15. 5%, duyên hải miền trung 13. 8%, Đồng bằng sông cửu long 11. 9%, Đông nam bộ 7. 0%, và đồng bằng sông hồng là 3, 8%. b. Về lao động: Lao động việt nam phân bố không đều, lao động tập trung chủ yếu ở hai vùng châu thổ: Đồng bằng sông cửu long (29. 1%), Đồng bằng sông hồng (19. 1%), và miền núi trung du (18. 8%) trong tổng số lao động dân cư của cả nước. c. Về dân số: Dân cư phân bố không đều, dân cư sống chủ yếu ở hai vùng châu thổ là đồng bằng sông cửu long (22. 2%), Đồng bằng sông hồng là: (20, 1%), và miền núi trung du là: 4. 1% 1.4. Bố trí sản xuất: a. Nghành trồng trọt: Thứ nhất về cây lương thực chủ yếu tập trung ở hai đồng bằng châu thổ sông hồng và đồng bằng sông cửu long. Thứ hai về sản lượng thóc: Miền nam chiếm 61. 1% (đồng bằng sông cửu long chiếm 50.5%), miền bắc chiếm30, 9% (đồng bằng sông hồng chiếm18. 5%). Thứ ba: Cây công nghiệp ngắn ngày thì nó tập trung chủ yếu ở miền nam. Thứ tư về cây công nghiệp dài ngày: Cây chè chủ yếu nó được trồng ở miền bắc ( chiếm 75. 8% diện tích, 67. 8% sản lượng ), còn cây cao su, cà phê thì tập trung chủ yếu ở miền nam, tỷ lệ diện tích và sản lượng tương ứng của cà phê là: 97. 9% và 99. 1%, cao su 96, 6% và 95, 8%. Thứ năm là về các loại rau quả: Phát triển nhiều ở miền bắc (diện tích 58, 7% và sản lượng là 58, 9%) và chủ yếu ở đồng bằng sông hồng (25, 4% và31, 8%). Như vậy sự phát triển các yếu tố nguồn lực sản xuất trồng trọt ở các vùng sinh thái ở nước ta phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, trình độ dân trí và kỹ năng sản xuất của lực lượng lao động. b. Nghành chăn nuôi: Về sản xuất chăn nuôi trong các ngàng cũng có sự phân bố khác nhau: Thứ nhất là: Trong các nhóm gia súc thì lợn được nuôi nhiều ở miền bắc và nó chiếm tới 70% tổng số đàn lợn của cả nước và trâu chiếm tới 82, 9% tổng số đàn trâu của cả nước. Riêng bò thì dược nuôi ở miền nam đông bộ, nó chiếm tới 52, 6 tổng đàn bò của cả nước. Thứ hai về gia cầm: nhóm gia cầm thì phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng sông hồng, nó chiếm tới hơn 50% tổng số đàn gia cầm của cả nước. Thứ ba là về trình độ sản xuất của ngành các ngành trong các vùng sinh thái thì trình độ ở vùng đồng bằng sông hồng và đồng bằng sông cửu long cao hơn hẳn các vùng khác. Điều này nó được thể hiện qua tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế như sản lượng thịt hơi xuất chuồng, số lượng đàn gia súc- gia cầm. Cơ cấu các thành phần kinh tế ở nông thôn. Thực hiện đường nối của đẩng là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu các thành phần kinh tế cũng có nhiều sự thay đổi rất căn bản đó là: Về kinh tế quốc doanh trong nông - lâm- ngư nghiệp. Trung bình trong giai đoạn 1994- 1995 kinh tế nông - lâm- ngư nghiệp tạo ra được khoảng 2, 5% GDP, chiếm 1, 6% lao động, 3, 7% diện tích gieo trồng, 0, 9% sản lượng quy ra thóc. Về cây công nghiệp lâu năm, khu vực quốc doanh chiếm 39, 6% diện tích, về sản lượng lương thực thì khu vực quốc doanh tạo ra 0. 9% sản lượng. Tính đến tháng 7/1994 quốc doanh nông – lâm- ngư nghiệp sử dụng 7637 nghìn ha đất. Như vậy trong quá trình đổi mới, tỷ trọng của các ngành kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân, cũng như trong các thành phần kinh tế nói riêng. Về kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong sản xuất nghiệp. Trong hơn 10 năm đổi mới cả kinh tế quốc doanh lẫn kinh tế tập thể và trong các chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay nói riêng, cả ở điều kiện khách quan và chủ quan. các hợp tác xã nông nghiệp và trong các đoàn trong sản xuất đã xây dựng trước đây đã bộc lộ nhiều sai lầm yếu kém và nó trở nên không còn phù hợp vơí cơ chế mới. Đó là sự làm ăn kém hiệu quả, nợ nần tăng lên, xã viên giảm lòng tin và dần dẫn đến sự mất tin tưởng, và tất yếu dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ, hàng loạt các hợp tác xã bị phá sản. Từ tình hình đó nhiều hợp tác xã đã tìm tòi cho mình hưóng đi mới. Từ đó dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các hợp tác xã cổ phần, xí nghiệp tậ thể, các loại hình hợp tác xã tự giúp đỡ nhau vượt qua khó khẳn trong sản xuất và đời sống ở nông thôn, còn các hợp tác xã không theo kịp tiến trình đổi mới thì ngày càng có nguy cơ phá sản và suy giảm dần tỷ trọng như là: Thứ nhất là về số tập đoàn sản xuất nông nghiệp năm 1990 là 36352 người thì đến năm 1994 cơ bản đã tan rã hết Thứ hai về số hợp tác xã nông nghiệp đã giảm sút từ 17022 hợp tác xã xuống còn chưa đầy 400 hợp tác xã. Trong những năm tiếp theo còn có nhiều hợp tác xã bị phá sản (nếu như họ không có những cải tiến kịp thời). Từ đó đã có 56% số hợp tác xã dược sử dụngvà chuyển theo hướng tự do, qua đó nâng số hộ hợp tác xã kiểu mới lên 18. 453 hợp tác xã. Như vậy thông qua các chính sách của Đảng phạm vi hoạt động của các hợp tác xã không bị bó hẹp lại như trước đây. Không chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh bị bó hẹp như giới hạn về hoạt sản xuất kinh doanh, địa giới hành chính, mà cáchợp tác xã có thể tổ chức các hoạt động dịch vụ kinh doanh cho các xã viên. Có thể hoạt động sản xuất kinh doanh tập trung hoặc vừa sản xuất kinh doanh tập trung vừa tổ chức các hoạt động dịch vụ cho xã viên theo quyết định của đại hội xã viên, không giới hạn theo phạm vi hành chính và hộ xã viên vẫn là hộ kinh tế tự chủ. Kinh tế hộ gia đình: Sự tồn tại của kinh tế gia đình là một thực tế đáp ứng được yêu cầu của các quy luật khách quan của sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp nói chung ở các quốc gia trên thế giới, song ở việt nam vào thời kỳ quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kinh tế hộ gia đình đã không được xác định đúng vị trí vốn có của nó. Kinh tế hộ gia đình chỉ được coi là thành phần phụ với các thành phần kinh tế khác (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể). Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về công tác khoán sản phẩm cuối cùng đến các hộ và nhóm hộ rồi nghị quyết trung ương 6- khoá VI năm 1986 đã khẳng định vị trí của kinh tế hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ và phát triển theo khả năng tiềm tàng sẵn có của nó. Điều đó được khẳng định thông qua: Một là: Trong hơn 10 năm đổi mới số hộ nông dân đã tăng từ 8431 nghìn hộ (1986) lên 95561 nghìn hộ (1991) và 9575, 7 nghìn hộ vào năm 1994 và trong các năm vừa qua tiếp tục có sự tăng lên, so với năm 1986 tăng lên 13, 6% tương ứng với gia tăng lao động nông nhiệp từ 19718 nghìn người lên 23700 nghìn người lao động (tăng 20%) bằng 78, 4% tổng nguồn lao động của xã hội. Hai là: Khi kinh tế hộ gia đình được xác định đúng vị trí nó giải phóng sức lao động dồi dào vốn có của nó, nó đã tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, đó là mặt tích cực trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước. Song khi tham gia vào nền kinh tế thị trường thì kinh tế hộ gia đình phải đối diện trực tiếp với sự biến động của thị trường nó vượt quá khả năng của các hộ kinh tế tư nhân. Mặt khác sư cắt giảm các khoản bao cấp của nhà nước và sự chậm chạp trong chức năng hoạt động và tổ chức lại các hợp tác xã kiểu cũ đã gây không ít khó khăn cho kinh tế hộ gia đình và nó đã bộc lộ rõ sự phân hoá giàu nghèo trong khu vực kinh tế nông thôn. Đa số các hộ nông dân có mức thu nhập trung bình nó chiếm khoảng 60% số hộ kinh tế nông nghiệp ở nông thôn. Một bộ phận nhỏ có vốn, kỹ thuật, trí tuệ đã vươn lên khá giỏi và giàu có nó chiếm khoảng 18%- 20%, còn lại thuộc diện nghèo khó. Kinh tế tư nhân: Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý sản xuất vừa qua, chủ trương khuyến khích hộ gia đình vươn lên làm giàu bằng sản xuất nông - lâm- ngư nghiệp kết hợp đã hình thành một bộ phận sản xuất giàu nhanh chóng. Trong đó có một bộ phận không nhỏ khoảng 15%- 20% số hộ nông daan bước đầu đã vượt ra khỏi giới hạn đói nghèo đi vào sản xuất kinh tế hàng hoá. Như vậy hiện nay kinh tế nông nghiệp- nông thôn đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội và vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân trong khu vực này chiếm vị trí chủ yếu trong sự thành công đó. Khoảng 80% nông sản hàng hoá do kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân sản xuất chủ yếu ở đồng bừng sông cửu long, tây nghuyên, đông nam bộ. Kinh tế nhà nước và kinh tế quốc doanh chỉ đóng vai trò dịch vụ cho kinh tế hộ. Tuy nhiên, kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức về sự phát triển của các cấp các ngành ở các địa phương còn nhiều hạn chế, chưa thống nhất. 2-/ Tác động của chính sách kinh tế đến thu nhập, việc làm và đời sống đân cư. Nhờ áp dụng chính sách kinh tế một cách hợp lý làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ngày một cao, đặc biệt là sản lượng lương thực tăng đều và mạnh từ 17. 5 triệu tấn của đầu năm 1987 đã tăng bình quân mỗi năm lên 1 triệu tấn. Đưa nước ta vượt qua ranh giới giữa đó và nghèo, nếu như ranh giới giữa đói và nghèo của thế giới là 300 kg lương thự/năm cho một người thì đến năm 1995 chúng ta đã đạt 360 kg lương thực/năm cho một người (với mức sản lượng 27. 4 triệu tấn, và đến năm 1998 đạt 31. 8 triệu tấn, tăng 1. 2 triệu tấn tức là tăng 4% so với năm 1997). Cùng với sự tăng lên của lương thực, thực phẩm và các sản phẩm khác thì các điều kiện về cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội ở nông thôn cũng tăng lên đáng kể. Đã có 5381 xã trên tổng số 8930 xã có điểm chiếm 60. 2% và trên 50% số hộ nông dân cả nước được dùng điện, trên 80% số xã có đường giao thông đến trung tâm, 91% số xã có trạm xá, 98% số xã có trường cấp 1 và 76% số xã có trường cấp 2, 37% số xã có trạm truyền thanh và 57% số hộ nông dân có nhà bán kiên cố. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự tác động sơ qua qua các con số và sự kiện đã được thống kê. Nó còn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội nông thôn, đó là: 2.1. Tác động đến lao động và việc làm: Hiện nay nước ta có tới 79. 1% số đân của cả nước sống ở vùng nông thôn và hơn 70% dân cư sống bằng nghề nông nghiệp. Trong số dân cư sống ở nông thôn (57. 325. 000 người thì trong đó có 45. 467. 000 người thuộc nhân khẩu nông nghiệp, chiếm 79. 3% dân cư nông thôn với tổng số gần 10 triệu hộ). Tỷ lệ lao động nông nghiệp là 71. 6% năm 1990 đẫ tăng lên 72. 4% vào năm 1993 đưa tổng số lao động nông nghiệp lên 23. 6 triệu người. Tỷ lệ lao động nông nghiệp thất nghiệp hầu như không giảm đi, lao động phi nông nghiệp vẫn chiến tỷ lệ rất thấp là 8. 3%. Như vậy xu hướng chung cho thấy nông dân chưa có thệm cơ hội tìm công ăn việc làm phi nông nghiệp tại chỗ và vẫn lấy sản xuất nông nghiệp là chỗ dựa chính và tình trạng này đã hạn chế mức tăng thu nhập của hộ nông dân vì ruộng đất không đủ đáp ứng được nhu cầu của các hộ nông dân. Về việc sử dụng lao động của các hộ gia đình nông thôn trong các vùng cũng rất thấp, ruộng đất chỉ thu hút được 45% thời gian lao động, các hợt động sản xuất khác thu hút 30% thời gian lao động, còn lại 25% thời gian là không có việc làm. Vì vậy việc di chuyển lao động nông dân từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp trở nên phổ biến, nhất là đối với các hộ nghèo ở nông thôn. Các nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quá trình di chuyển này là: Do thiếu việc làm, thu nhập ở nông thôn quá thấp (Chiếm 40%) không đảm bảo cho cuộc sống của gia đình. Vì vậy, phải tăng cường công tác giáo dục và giúp đỡ các hộ nghèo tìm thêm việc làm tại chỗ để cho họ có thể cải thiện được cuộc sống của mình. 2.2. Tác động của đầu tư và tín dụng cho nông thôn. Thứ nhất là: Có hơn 28% số hộ nông dân đi vay mượn vì mục đích sản xuất hoặc vì đời sống. Trong số các hộ giàu thì chỉ có 26% đi vay mượn. Ngược lại, các hộ nghèo có tới 37% số hộ đi vay mượn. Mức vay của các hộ nghèo bình quân là 142nghìn/hộ cao hơn mức vay của các nhóm hộ khác. Trong các hộ nghèo vay nợ thì 83% vay của tư nhân, 17% vay của các tổ chức tín dụng (trong khi đó tỷ lệ này ở các hộ giàu có là 30%, hộ trung bình là 60%). Và tình trạng này trong một vài năm trở lại đây không có nhiều sự biến động. Thứ hai là nhu cầu vay vốn của các hộ nông dân là khá lớn, gần 55% số hộ nông dân có nhu cầu vay vốn tức là vào khoảng 5 triệu hộ. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nông dân Chính phủ đã chi gần 700 tỷ đồng (1994) bằng 46, 6% tổng vốn xây dựng cơ bản dành cho phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn năm 1994, năm 1998 là 800 tỷ đồng và dự kiến đến năm 2000 là 1100 tỷ đồng từ nghân sách nhà nước cho duy tu sửa chữa thường xuyên cho các công trình như giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh xá và kết quả đạt được là: Trồng mới được gần 50. 000 ha rừng và 28. 000 ha cây ăn quả cây công nghiệp. Phát triển thêm được 25 nghìn con gia súc ở các tỉnh miền núi, đặc biệt là đã làm nhà định cư được cho 136 nghìn hộ nông dân nghèo ở miền núi, làm 289 giếng nước sạch khai hoang thêm gần 1720 ha diện tích đất canh tác, làm mới 360 km đường miền núi. Thứ ba là: Luật đầu tư nước ngoài tại việt nam năm 1987 đã thu được một lượng vốn đáng kể từ các công ty, tổ chức đầu tư nước ngoài vào việt nam nói chung và nông thôn việt nam nói riêng, góp phần vào phát triển tình hình kinh tế xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm nghèo khó cho dân nghèo ở vùng nông thôn, cụ thể là: năm 1998 có 10 dự án đầu tư nước ngoài vào việt nam với tổng số vốn đầu tư khoảng 66 triệu đô la Mỹ, nâng tổng số dư án đầu tư vào lĩnh vực này là 300 dự án với tổng số vốn đầu tư là hơn 3. 4 tỷ đô đa, đồng thời thu hút thêm hàng trăm triệu đô là từ các nguồn vốn ODA. Thứ tư là: Nhà nước mở rộng thị trường nông thôn và nhờ chính sách này nhiều hộ nông dân trong đó có các hộ nghèo có điều kiện về vốn để nâng cao thu nhập ổn định cuộc sống kinh tế gia đình. 2.3. Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của người nghèo: Kể tư khi thực hiện chính sách cải cách kinh tế cho đến nay, các khoản bao cấp đầu tư dịch vụ xã hội dần đần bị cắt giảm, chuyển tư nhà nước đầu tư toàn bộ các công trình kinh tế xã hội, sang cơ chế nhà nước và nhân dân cùng đóng góp. Việc trợ cấp qua gía cả các loại thuốc chữa bệnh, sách giáo khoa các hoạt động văn hoá nghệ thuật, được thay thế bằng cơ chế tự hạch toán kinh doanh. Giá cả dần được tự do hoá, tự điều chỉnh theo quy luật cung cầu. Từ 1990- 1993 mức chi thường xuyên cho giáo dục đã taawng từ 693 tỷ đồng lên 2130 tỷ, và chi cho y tế giáo dục từ 386 tỷ lên1617 tỷ. Mặc dù chi thường xuyên tăng nhưng ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa Hiện nay vẫn còn thiếu giáo viên trầm trọng (khoảng 60000 giáo viên phổ thông), gần 40% số lớp còn ở trong tình trạng học tạm, có từ 14%-16% số học sinh tiểu học bị thất học không được tới trường. Về dịch vụ y tế: số xã có trạm xá là 91. 6%, nhưng tỷ lệ số người đến điều trị ở trạm y tế giảm đi gần 50%. 2.4. Về thu nhập và đời sống dân cư: Về thu nhập: Năm 1990 mức thu nhập bình quân đầu người của nông dân là32248 đồng/ tháng, bằng 68% mức thu nhập của người dân ở thành thị. Năm 1993 mức thu nhập bình quân ở nông thôn là 94444 đồng/tháng, bằng 79% mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước và bằng 39% mức thu nhập của thành thị, và có hơn 45% số hộ có mức thu nhập thấp hơn của xã hội, tỷ lệ này ở thành thị chỉ có 28%. Đến năm 1995 thì thu nhập của dân cư nông thôn là: 1234000 đồng/người/ năm, còn ở đô thị là 2788000đ/người/ năm. Xét về mặt cơ cấu thu nhập: Các hộ gia đình tiến hành độc canh cây lúa thường có mức thu nhạp thấp và thường không ổn định so với các hộ nông dân. kết hợp sản xuất giữa các ngành nghề sản xuất với các hoạt động kinh doanh, thủ công, dịch vụ…Thu nhập của các hộ thuần nông chỉ đạt 19600d/ người/ tháng bằng 90% mức thu nhập bình quân ở nông thôn, bằng 78% thu nhập của các hộ nông dân kiêm ngành nghề, và bằng 58% số hộ thuần nông thuộc nhóm hộ chuyên ngành nghề. Chỉ có hộ thuần nông thuộc nhóm người giàu. 60% số hộ thuần nông có mức thu nhập dưới mức trung bình, họ kiêm ngành nghề có 45%, và số hộ chuyên ngành nghề có 25%. Về tài sản của các hộ nông dân: Thứ nhất: về công cụ lao động thì số hộ giàu có có nhiều công cụ cơ khí hơn các hộ nghèo, và ngược lại các hộ giàu có lại có các công cụ thô sơ ít hơn các hộ nghèo. Thứ hai: Các hộ nghèo có ít hơn rất nhiều lần tư liệu tiêu dùng so với các hộ giàu có. Thứ ba: về địa vị xã hội và ngành nghề: Trong các hộ gia đình xã viên là cán bộ thì chỉ có 11. 6% thuộc nhóm hộ giàu, 31% thuộc nhóm hộ trung bình, còn lại hơn44% thuộc nhóm hộ có mức thu nhập dưới mức trung bình. Theo tiêu thức chủng tộc thì tỷ giàu có của các hộ gia đình dân tộc người kinh là cao nhất( 17. 4%), sau đó là các hộ dân tộc người tày (10. 6%). Các dân tộc có tỷ lệ người nghèo cao như là dân tộc dao(37%), Mông (32%). Thứ tư: Mức độ hưởng thụ xã hội : Đối với các hộ nghèo tỷ lệ người nghèo bỏ học chiếm 46% và tỷ lệ người ốm không có tiền thuốc men là: 60% số hộ Đối với hộ giàu: tỷ lệ người nghe đài thường xuyên là(90%) số hộ, đọc sách báo là 75% số hộ, xem vô tuyến là 60%. Như vâỵ công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tronh những năm qua ở nước ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nó cũng còn có nhiều hạn chế đặc biệt trong các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Vì vầy trong thời gian này Đảng và nhà nước ta cần tâpj trung mọi nguồn lực vốn có cả mình để phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Phần iii Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay I-/ Những mặt còn hạn chế trong chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn việt nam trong giai đoạn hiện nay. 1-/ Chính sách ruộng đất: Mặc dù trong thời gian thời qua chính phủ đã có nhiều chính sách để đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, đặc biệt là chính sách ruộng đất. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, xong nó cũng còn tồn tạ nhiều hạn chế: 1.1. Những hạn chế còn tồn taị trong chính sách ruộng đất. Thứ nhất: Nó tạo ra sự nhượng đất đai có chiều hướng gia tăng và đã có một số hộ nông dân có chiều hướng sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích khác, dẫn đến tình trạng một số hộ nông dân thiếu ruộng đất. Thứ hai là: Nó chưa tạo ra sự ổn định cho người nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Thứ ba là: Việc thực hiện chính sách ruộng đất với các chính sách kinh tế khác diễn ra một cách không đồng bộ. Thứ tư là: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất nông nghiệp diễn ra một cách chậm chạp. Thứ năm là: Sau khi thực hiện việc giao đất cho hộ nông dân xong, thì các cơ quan quản lý không có biện pháp tổ chức ruộng đất. 1.2. Nguyên nhân của những tồn tại trong chính sách ruộng đất. Do thiếu nguồn kinh phí để thực hiện chính sách ruộng đất: Tức là không có kinh phí để xác định vị trí các thửa ruộng của từng hộ, do đó nó làm cho việc thực hiện chính sách giao ruộng đất cho hộ nông dân bị chậm chễ, cũng như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng bị chậm. Do trình độ hiểu biết của các hộ còn thấp dẫn đến tình trạng họ sử dụng đất một cách bừa bãi. Do phong tục tập quán của các vùng là khác nhau, do đó khi thực hiện chính sách ở các địa phương khác nhau thì nó cũng có tác dụng khác nhau. 2-/ Về chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn. 2.1. Về mặt còn hạn chế trong chính sách tạo vốn và xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong thời gian qua mặc dù nhà nước đẫ có xu hướng tăng dần tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực nông thôn nhưng nó vẫn chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu về vốn của khu vực này, làm cho cơ sở hạ tầng còn thấp kém, . Thứ hai là: về vốn sản xuất thì cũng thiếu một cách nghiêm trọng, đặc biệt là vốn trung hạn và dài hạn. Thứ ba là: Về tổ chức các nguồn và kênh tín dụng trông nông thôn còn chưa được hợp lý. Thứ tư là: Việc sử dụng nguồn vốn của người dân còn chưa hợp lý. 2.2. Những nguyên nhân của những tồn tại đó là: Cũng như chính sách ruộng đất thì do trình độ dân trí còn thấp dẫn đến việc sử dụng nguồn vốn vay một cách chưa hợp lý, họ sử dụng khồng đúng mục đích. Hệ thống chính sách pháp luật của chúng ta chưa nghiêm, vì vậy việc tổ chức huy động nguồn vốn cho sản xuất cũng như cho nhân dân vay vốn sản xuất còn gặp nhiều hạn chế. 3-/ Về chính sách tổ chức và chính sách phát triển thị trường cho kinh tế nông thôn. 3.1. Những hạn chế còn tồn tại trong chính sách về thị trường của kinh tế nông nghiệp- nồng thôn: Một là: Thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân còn mang nặng yếu tố tự phát, biến động bất thường. Hai là: chúng ta chưa hình thành được các hướng cụ thể cho kinh tế đối ngoại phát triển. Ba là: Về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn Nhà nước ta chưa có kế hoạch cụ thể để giải quyết công ăn việc làm cho các lao động trong từng thời kỳ cụ thể. 3.2. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những mặt hạn chế của kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Do các nguồn hang nông sản trong nước không có khả năng cạnh tranh với hàng nông sản của các nước cả về mẫu mã lẫn chất lượng. Do thị trường trong nước chưa phát triển, sức mua yếu, nhanh chóng bão hoà, dẫn đến tình trạng cầu tăng không tương ứng với cung. Do trình độ lao động lành nghề của nước ta còn kém chưa đáp ứng được khả năng của công nghệ. Do nhu cầu về tiêu dùng trong nước có sự thay đổi lớn. 4-/ Về chính sách xoá đói giảm nghèo. Những mặt hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do: - Nước ta có điều kiện tự nhiên không thuận lợi do hậu quả của cuộc chiến tranh trước đây để lại. Do cơ sở hạ tầng của chúng ta còn thấp kém như: hệ thống giao thông đường bộ. Do trình độ dân trí còn thấp, trình độ văn hoá cũng còn thấp. Do tình trạng tham nhũng, ăn bớt, ăn xén của những người có chức, có quyền. 5-/ Về các chính sách khác: 5.1. Chính sách đào tạo cán bộ nông thôn ở nước ta: Thứ nhất là: Việc đào tạo đọi ngũ cán bộ nông thôn trong thời gian qua nó còn mang nặng tính hình thức. Thứ hai là: Chưa có chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ nông thôn. 5.2. Về chính sách giải quyết mối quan hệ kinh tế và xã hội: Thứ nhất là: chưa giải quyết được mối quan hệ giữa công bằng và nghèo đói. Thứ hai là: phát triển kinh tế chỉ quan tâm đến vấn đề lợi ích trước mắt mà quên đi sự phát triển bền vững. 5.3 Về chính sách giá cả: Thứ nhất là: nó còn mang nặng tính hiện vật. Thứ hai là: nó thiếu sự can thiệp một cách đồng bộ của chính phủ. 5.4. Chính sách công nghệ: Thứ nhất là: trong thời gian qua việc nhập công nghệ của nước ta là không có tinh khả thi bởi lẽ chỉ đi nhặt lựa những thứ công nghệ mà các nước họ thải đi. Thứ hai là: chúng ta không có các kế hoạch cụ thể về quá trình chuyển giao công nghệ. Từ những hạn chế cũng như các nguyên nhân gây ra tình trạng làm cho nền kinh tế nông thôn bị trì trệ. Chúng ta có thể đưa ra một số kiến nghị để góp phần hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn II-/ Những giải pháp cơ bản để hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn trong giai đoạn hiện nay. 1-/ Chính sách ruộng đất: Thứ nhất là: Nhà nước ta phải tạo ra sự ổn định cho việc sử dụng đất nông nghiệp như: Quy định rõ thời gian sử dụng đất nông nghiệp tuỳ theo mục đích của việc sử dụng đất nông nghiệp là 10 năm hay 5 năm. Quy định rõ trong những trường hợp nào thì được chuyển giao quyền sử dụng đất nông nghiệp. Có các biện pháp xử phạt thích đáng đối với những người chuyển nhượng đất một cách trái phép. Nhà nước cần ban hành chính sách trong trường hợp nào thì các hộ nông dân được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tiến hành công tác tổ chức kiểm tra thường xuyên việc sử dụng đất nông nghiệp. Thứ hai là: Khi tiến hành giao đất phải kết hợp với các chính sách khác như: - Hỗ trợ về vốn (có thễ cho vay với mức lãi xuất ưu đãi hoặc cấp hẳn vốn sản xuất cho các hộ, khi các hộ gặp khó khăn). - Hỗ trợ về giống. - Hỗ trợ về kinh nghiệm và kỹ thuật công nghệ: Thường xuyên tiến hành các buổi trao đổi kinh nghiệm giữa cán bộ quản lý với các hộ gia đình xã viên hoặc giữa những người lao động với nhau. 2-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn. Một là: việc sử dụng nguồn vốn nên tiến hành như sau: Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Chủ yếu tập trung cho đầu tư xây dựng các đầu mối giao thông, hệ thống thuỷ lợi. Đối với nguồn vốn từ nguồn vốn đầu tư cuẩ nước ngoài: thì chủ yếu tập trung cho các chương trình nước sạch nông thôn, xử lý vệ sinh môi trường, giao thông và đường nông thôn. Đối với nguồn vốn cho dan cư: Dùng cho các công trình giao thông, thuỷ lợi nội đồng và trường học. Hai là: Cần khuyến khích người dân tham gia vào các kế hoạch thực hiện và giám sát thi công trình kinh tế kỹ thuật. Ba là: Tăng nguồn vốn cho vay trung hạn và dài hạn của các ngân hàng phất triển nông thôn, bằng việc tập trung các nguồn vốn cho các chương trình như chương trình 327, quỹ quốc gia tạo việc làm và các nguồn vốn vay dài hạn trong nước, và nước ngoài vào các kênh ngân hàng, đảm bảo cơ cấu cho vay 30% vốn dài hạn và 70% vốn ngắn hạn. Bốn là: Mở rộng cho vay cho các ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp ( cho vay dài hạn), các ngành thương mại, dịch vụ. Năm là: Ngân hàng phát triển nông thôn là các chổ tức tín dụng khác, như tổ chức ngân hang cổ phần, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân, tư nhân có khả năng kinh doanh vốn ở nông thôn. Thiết lập khuôn khổ luật pháp để cho các tổ chức tín dụng đa dạng hoá các môi trường hoạt động pháp lý. Sáu là: Ngân hàng phát triển nông thôn được phép mở rộng quan hệ với các ngân hàng thương mại khác để huy động nguồn vốn về cho nông thôn. Nhà nước cần ban hành quy chế bắt buộc về tỷ lệ vốn chuyển về nông thôn. Bảy là: Các chi nhánh của các ngân hàng phát triển nông thôn cần triển khai nhiều hình thức bàn gửi tiết kiệm, cho vay cố định hoặc lưu động tại các thôn xóm đi đôi với việc cải cách các thủ tục hàng chính còn phiền hà cho người gửi và người vay, đặc biệt là ở các vùng bắt đầu phát triển sản xuất hàng hoá. 3-/ Vấn đề tổ chức và phát triển thị trường cho kinh tế nông thôn. Một mặt nhà nước tiếp tục duy trì cơ chế chính sách cũ cho phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta đồng thời nhà nước ban hành các chính sách kinh tế mới. Một là: Đối với các vùng sản xuất hàng hoá tập trung như lúa gạo, cà phê, cao su, mía đường - là những ngành có ý nghĩa kinh tế cao nhưng giá cả biến động thường xuyên. Nhà nước có chính sách bảo hộ giá đầu ra, bù một phần giá cho sản phẩm của nông dân đảm bảo trang trải đủ chi phí và có lãi tối thiểu, khi giá thị trường xuống quá thấp để ổn định vùng sản xuất theo quy hoạch của nhà nước. Hai là: Thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước đối với các sản phẩm cùng loại qua thuế nhập khẩu cao hoặc thuế VAT. Ba là: Chính sách xuất khẩu hàng hoá nông sản trong những năm tới đây Nhà nước cần phải nghiên cứu tỷ mỷ trên các loại thị trường khác nhau để từ đó có các chính sách phù hợp. Bốn là: Muốn chiếm lĩnh được thị trường và duy trì thị trường, chính sách xuất khẩu chưa nên đánh thuế cao vào người sản xuất, cũng không nên quá phụ thu vào các mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản xuất khẩu khi giá thị trường tăng. Cần có các quy định cụ thể về các mức thu để tránh tình trạng thu một cách tuỳ tiện, ảnh hưởng xấu đến sản xuất. Năm là: Thúc đẩy nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua quá trình chuyển giao công nghệ phù hợp là một việc làm cần thiết đẻ khuyến khích xuất khẩu. Nhà nước cần có các quy định rõ rầng về chính sách ưu đãi đối với việc nhập khẩu mặt hàng công nghệ mới nhằm đổi mới kỹ thuật sản xuất. 4-/ Về chính sách xoá đói giảm nghèo. Một là: Nên thống nhất mức lãi xuất hợp lý cho người đói, nghèo vay của ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng của các người nghèo khi họ cần vay thêm cho sản xuất (do yêu cầu của kế hoạch làm ăn). và cả khi gặp khó khăn để họ không phải vay tư nhân nặng lãi, đồng thời hạn chế người giàu có cho các hộ nông dân vay với mức lãi xuất cao. Hai là: Đối với các vùng cao, vùng sâu, biên giới hải đảo, trình độ dân trí hãy còn thấp, chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự nhiên, thường có diện tích đói nghèo lớn, và là những địa bàn xung yếu về quốc phòng, do đó cần lập dự án: Xây dựng khu dân cư kết hợp kinh tế xoá đói giảm nghèo bền vững an ninh quốc phòng. Ba là: Có kế hoạch hướng dẫn làm ăn cho các hộ nông dân đói nghèo( lập và thực hiện) nhằm mục đích: Để hướng dẫn cho hộ nông dân đói nghèo hiểu và biết cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch làm ăn. Để các tổ chức Đảng, nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội có cơ sở giúp đỡ, kiểm tra kế hoạch làm ăn của các hộ xoá đói giảm nghèo. Để có cơ sở hoàn thiện chính sách vĩ mô và vi mô nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo. 5-/ Các chính sách khác: 5.1. Chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ nông thôn: Nhà nước ta cần có các chính sách cụ thể như: - Đổi mới chính sách đào tạo. Có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ. 5.2 Chính sách giá cả: chính sách này nhà nước cần phải thực hiện một cách có khoa học và đồng bộ. Chính sách khoa học và công nghệ: Nhà nước nên tập trung cho đầu tư nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Kết Luận Như vậy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp- nông thôn ở nước ta là một quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Quá trình đổi mới được bắt nguồn ngay từ thực tiễn sản xuất trong những lúc và những nơi khó khăn nhất, sau đó được tổng kết và trở thành chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta. Trong suốt hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta nói chung và nền kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng. Nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà ở đó mọi người dân đều có quyền dân chủ trong mọi quyết định của mình. Vì vậy muốn cho nền kinh tế nước ta đi lên thì Đảng và nhà nước ta phải luôn có các chính sách kinh tế cho phù hợp với từng thời kỳ. Vì vậy, đổi mới cơ chế chính sách kinh tế nông nghiệp - nông thôn nó khônh những là nhiệm vụ của nhà nước mà nó là nhiệm vụ của toàn dân. Tài liệu tham khảo 1-/ Thời báo kinh tế việt nam số 89+ 90 năm 1999 2-/ Chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và vai trò của nó 3-/ Tạp chí thông nghiên cứu lý luận số; 8/98, 5+6/99, 4/98. 4-/ Nghiên cứu kinh tế số: 1/99, 2/99, 1+2/ 98 5-/ Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI+ VIII 6-/ Thực trạng nông nghiệp nông thôn việt nam 1976-1990. 7-/ Giaó trình kinh tế phát triển II. 8-/ Kinh tế việt nam 1998. 9-/ Kinh tế chính trị II 10-/ Cơ chế thị trường và vai trò của nó trong nền kinh tế việt nam. 11-/ Nhà nước và các công cụ vĩ mô. 12-/ Giáo trình Chương trinh dự án- và phát triển kinh tế xã hội. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0056.doc
Tài liệu liên quan