Các công cụ của chính sách tiền tệ cũng cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng hướng đến mục tiêu định trước. Để làm được điều đó cần phải chú ý đến cả các tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn của các chính sách, các công cụ riêng lẻ. Cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành có liên quan. Đặc biệt cần tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và bộ tài chính trong điều hành chính sách tài chính , tiền tệ.
53 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách về tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngoại tệ .đặc biệt là hai lần điều chỉnh tỷ giá : lần thứ nhất , ngày 16/2/1998 NHNN quyết dịnh nâng tỷ giá từ 11.175/1USD lên 11800đ/USD làm tỷ giá giao dịch của NHTM xấp xỉ với tỷ giá trên thị trường tự do.Lần thứ hai diễn ra vào ngày 7/8/1998 tỷ giá chính thức được nâng từ 11888đ/USD lên 12.998đ/USD, tăng 16.3%. bên cạnh đó biên độ giao động cũng được thu hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% như trước . việc tự động điều chỉnh tỷ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa các tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM vào những tháng cuối năm 1998 tỷ giá của hai thi trường này là xấp xỉ nhau.
Bắt đầu từ ngày 16/2/1999 một cơ chế điều hành tỷ giá mới đã được điều hành tại việt nam. Thay cho việc công bố tỷ giá chính thức,hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng việt nam so với đồng USD
Từ đó đến nay tỷ giá usd/vnđ dao động ở mức 14000vnđ/usd mức tăng đến hết tháng 12/1999 so với năm 1998 chỉ có 1%
2.1.2 Tình hình lạm phát
trong vòng 5 năm gần đây tỷ lệ lạm phát trung bình là 6% và biến động không đều.
Tỷ lệ lạm phát thời kỳ 95-99(%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tỷ lệ lạm phát
12.7
4.5
3.7
9.2
0.1
Thời gian gần đây tỷ lệ lạm phát ở nước ta thấp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát.
Chỉ số lạm phát tháng 1 là 1.7 tháng 2 là1.9 vầ liên tục âm trong tám tháng từ tháng 3 đến tháng 10. Hiện tượng giảm phát trong năm 1999 được coilà chấm dứt với việc chỉ số giá hàng tiều dùng tăng trở lại mức dương là 0.4% và 0.5% vào tháng 11 và tháng 12 năm1999 và tính chung cho cả năm là 0.1% và vẫn có nguy cơ còn giảm phát trong năm tới khi mà tổng cầu còn đang giảm mạnh(giảm nhanh hơn tổng cung)
2.1.3.Tình hình thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của NHTG, thì giai đoạn hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động , theo tính toán của Bộ lao động và thương binh xã hội thì tỷ trọng này chỉ đạt là 12.2% (thời báo kinh tế Việt Nam số 67 trang7). Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị trong những năm gần đây còn ở mức cao nhất là trong những năm 1999 (7.4%), năm 1996 là 6.01% năm 1998 là 6.85% (bài thị trường lao động số 1/2000)
2.1.4 Tăng trưởng kinh tế
Trong công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm vừa qua,chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8.6%/năm trong gần mười năm năm 1995 đạt 9.5% cao nhì thế giới . tuy nhiên kể từ tháng 9/1997, do cuộc khủng hoảng kinh tế ,tài chính trong khu vực , nên từ chỗ có mức tăng trưởng kinh tế cao nền kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại,mức tăng trưởng kinh tế năm 1998 chỉ còn 5.8%và năm 1999 chỉ còn 4.8%
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tăng trưởng(gdp)
9.5
9.3
8.2
5.8
4.8
2.2 sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ.
2.2.1 Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ ngày 5/7/1999 đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM và các công ty tài chính là 5% của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng TW và quỹ tín dụng khu vực là 1%. riêng ngân hàng NHNN & PTNT do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nên từ trung tuần tháng 9/1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm từ 5% xuống3%.
Hành động này giúp cho các tổ chức tín dụng mở rộng qui mô tín dụng của mình tăng khả năng cung ứng vốn cho nên kinh tế và các tổ chức tín dụng có điều kiện để giảm thêm lãi suất cho vay.
2.2.2 Chiết khấu, tái chiết khấu.
Do chưa có thị trường tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu ) nên lãi suất tái cấp vốn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất tái chiết khấu. Trong qua trình đổi mới ,một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn điểm nổi bật trong việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn thế từ bị động sang thế chủ động cụ thể là:giai đoạn 1990-1996 NHMM quy định lãi suất tái cáp vốn theo lãi suất cho vay trên khế ước xin tái cấp vốn nhưng kể từ ngày 3/1997, lãi suất tấi cấp vốn đã được xác định một cách độc lập.
NNNH đã liên tục giảm lãi suất cho vay trên thị trường tái cấp vốn đối với NHTM từ 1.1%/tháng thời điểm ngày 21/1/1998 xuống 1%/tháng vào thời điểm 1/2/1999 rồi 0.85%/tháng vào tháng 6/1999 và 0.7%/tháng vào tháng 9/1999. Và hiện nay (từ tháng 11/1999)chỉ còn 0.5%/tháng đồng thời NHNN công bố lãi suất chiết khấu là 0.45%/tháng.
2.2.3 Nghiệp vụ thị trường mở
ở Việt Nam hiện nay nghiệp vụ thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. Hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng được phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. trong năm 1999 tính đén giữa tháng 11, kho bạc nhà nước phối hợp vói NHNN tổ chức được 40 phiếu đấu thầu tín phiếu kho bạc kỳ hạn một năm. tổng giá trị đấu thầu trong 40 phiếu này là 4000 tỷ đồng (100tỷ/phiếu) tổng khối lượng tín phiếu đã đấu thầu là 2.863,6 tỷ đồng , bằng 78.59% tổng khối lượng tín phiếu đấu thầu.
Đây là một công cụ hết sức linh hoạt. chính xác, chủ động và dễ dàng mua bán. nhằm tiến hành chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp năm 1999, NHNN đã gấp rút các điều kiện chuẩn bị về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở,dự kiến sẽ hoạt động vào quý I năm 2000.
2.2.4 Quản lý lãi suất của NHTM từ năm 1995 đến nay.
Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh và khống chế mức lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0.35%/tháng.
Việc quy định trần lãi suất và quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/1/96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0.35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó (thòi kỳ93-95).
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn khác nhau,chi phí hoạt động khác nhau,nên NHNN đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
-Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: là mức lãi suất thấp nhất, áp dụng cho khu vực thành thị : 1.7%/tháng.
-Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời hạn cao dễ gặp rủi ro hơn 1.75%/tháng.
-Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: cao hơn trần lãi suất chovay ngắn và trung hạn do điều kiện hoạt động của địa bàn nông thôn khó khăn hơn ở thành thị 2%/tháng.
Trẫn lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ bé chi phí hoạt động cao 2.5%/tháng .
Từ 21/1/1998 đến nay tại kỳ họp thứ 2 tháng12/1997,quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0.35%/tháng đồng thời để thu hẹp mức cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn ba trần lãi suất
Trẫn lãi suất cho vay ngắn hạn :1.2%/tháng
Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1.25%/tháng
Trần lái suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1.5%/tháng
Trong năm 1999, trước tình hình thiểu phát, tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô cung cầu vốn trên thị trường tiềng tệ và xu hướng nới lỏng tiền tệ, kích cầu. Tư đầu năm đến nay NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay.
-Từ 1/2/1999 trẫn lãi suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1.1%/tháng trung và dài hạn còn 1.15%/tháng.
-Tư 1/6/1999 trần lãi suất cho vay của tất cả các loại kỳ hạn thống nhất là 1.15%.
-Từ 1/8/1999 trần lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1.05%/tháng.
đầu tháng 9 trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khu vực đô thị là 0.95%/tháng.
Tháng 10/1999 trần lãi suất cho vay áp dụng cho khu vực thành thị là 0.85%/tháng.Khu vực nông thôn là 1%/tháng riêng NHTN cổ phần nông thôn vẫn là 1.15%/tháng ,quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên vẫn là 1.15%/tháng
2.2.5 Quản lý ngoại hối
Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi , giam sát các tổ chức tín dụng thực hiện các quy dịnhcủa thủ tướng chính phủ về kết hối ngoại tệ, thương xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thức tế(giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lãi từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình thủ tướng chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nưóc nhăm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Cung với việc đổi mới trong quản lý các giao dịch vãng lai, NHNN đã tăng cường các biện pháp trong quản lý vảy trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, quản lý đồi tư nước ngoài, quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
3.Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ.
3.1 Những mặt tích cực
Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điũu hành và thể hiện tập nhất của quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ NH thời gian qua.
-Thứ nhất về hoạt động cung ứng tiền
Thời điểm thay đổi có tính chất quyết định đối với cơ chế cung ứng tiền là năm 1990, khi cơ chế xác định lượng tiền cung ứng một cách hành chính bị xoá bỏ, thay và đó là lượng tiền cung ứng hang năm được xác dịnh trên các căn cứ tương đối hợp lý đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát dự tính xác định các căn cứ cung ứng tiền trên đây cũng đồng nghĩa với việc xoá bỏ một kênh cung cấp tiền truyền thống in tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách (năm 1991). Cơ chế điều hành việc cung ứng tiền cũng đã có những thay đổi rõ rệt. Với chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ kể từ năm 1993, NHNN đã được trao quyền chủ động hơn và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu năm đã được duyệt, loại bỏ vĩnh viễn tình trạng thiếu tiền mặt có tính thời điểm trong nền kinh tế.
Thứ 2 : về chính sách lãi suất
Lãi suất đối với nền kinh tê: nội dung việc điều tiết lãi suất đã kết hợp được cả hai yêu cầu, đó là quán triệt nguyên tắc lãi suất dương và từng bước thị trừơng hóa việc điều tiết lãi suất tạo môi trường tự chủ cho các tổ chức tận dụng cũng như khu vực khách hàng. Từ chỗ ấn định cụ thể mức lãi suất đối với các hoạt động huy động và cho vay của hệ thống NH, đến nay NHNN chỉ quản lý trần lãi suất thả nổi hoàn toàn lãi suất đầu vào cũng trong thời gian đó,mức lãi suất liên tục điều chỉnh giảm 4-5 lần/năm vào các năm 96-99
Lãi suất tái cấp vốn: do chưa có thị trương tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vẫn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất chiết khấu. Trong quá trình đổi mới một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn. Điểm nổi bật trong điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn từ thể bị động sang thể chủ động cụ thể là: giai đoạn 90-96 NHNN quy đinh lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên thế ước xin tái cấp vốn, nhưng kể từ khoảng tháng3/97, lãi suất tái cấp vốn đã được xác dịnh một cách độc lập.
-Tương quan lãi suất nội ngoại tệ cũng được điều tiết tương đối thích hợp. Giai đoạn 1992-1996, giá trị việt nam đồng tương đối ổn định lên lãi suất ngoại tệ được điều tiết theo hướng xĩch lại gần nhau,đảm bảo lợi ích thuần của việc nắm giữ tài sản không chênh lệch quá lớn. Ngược lại ,giai đoạn 1997-1999 do VND được điều tiết giảm theo những tín hiệu trên thị trường nên laĩ suất VND được điều tiết cao hơn lãi suất ngoại tệ. Chính vỳ vậy,ngay cả khi khủng hoảng tài chính châu á xảy ra, các đông tiền trong khu vực mất giá mạnh nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn được duy trì tương đối ổn định việc chuyển dịch tiền tệ (đô la hoá) không xảy ra ồ ạt.
-Thứ 3: về tài chính chính sách quản lý ngoại hối
Quan điểm chủ đạo trong chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới là: từng bước đảm bảo nhà nước nắm được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá tri đồng nội tệ. định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là tăng cương dự trữ ngoại hối củng cố nâng cao gia trị VND và đưa VND thành đông tiền tự do chuyển đổi, các giao dịch ngoại hối mang tính thị trương như giao dịch kỳ hạn ,giao dịch hoán đổi... đã được chú ý phát triển. đây có thể coi là những bước đột phá trên thị trường ngoại hối và có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc thực thi các quy chế ngoại hối, phần nào giảm bớt những khó khăn cho nền kinh tế đang trong qua trình tự do hoa thương mại
Thứ 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng đây là một giải pháp kịp thời, linh hoạt và đồng bộ của NHNN,góp phần làm diụ đi những khó khăn của các tổ chức tín dụng do lãi suất giảm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay tăng khả năng cung ứng vốn đối với nền kinh tê và góp phần thúc đẩy phát triển tăng trưởng kinh tế
3.2 Những kết quả đạt được
Trong những năm qua NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ kích hoạt có kiểm soát chính sách hoá lỏng tiền tệ lên luôn đảm bảo khối lượng tiền cung ứng tăng từ 20% đến 26%/năm tổng phương tiên thanh toán trên XH tăng từ 22.6% đến 28%. Cụ thể là tăng trưởng những năm gần đây như sau :
1995
1996
1997
1998
22.6(%)
22.7
26.1
23.9
Đây là mức tăng trưởng rất cao so với các nước trên thế giơi. Hiệu quả của nó đã góp phần quan trọng thúc đầy nền kinh tê tằng trưởng lien tục với tốc độ cao chúng ta đạt tóc độ tăng trưởng bình quân 8.6% trong vong 10 năm qua năm năm 95 đạt 9,5% đứng thứ 2 trên thế giới (sau singapo)
Giữ được ổn định vĩ mô ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ngoại tệ phù hợp tăng ngoại tệ cho đất nước thị trường ngoại tệ sôi đoọng doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ tăng nên năm 1999 tăng hai lần so với năm 1998.
Huy động được quyền vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, ngoài dư nợ cho vay thông thường còn đáp ứng nhu cầu vốn đàu tư của nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đầu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế.
Cái được lớn nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thời gian qua là tốc đọ gia tăng nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng góp phần quan trọng vào việc ổn định lưu thông tienf tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vạt chất tự có còn rất hạn chế (theo ước tính vốn tự có của khu vực sản xuất chiếm khoảng 10-20% tổng vốn sản xuất).
Đối với việc huy động vốn, do việc thực hiện phương châm đi vay để cho vay hàng loạt các hình thức thu hút nguồn vốn đã ra đời kết quả là nguồn vốn huy dộng của hệ thống ngân hàng đã gia tang với tốc đọ chóng mặt.
Dư nợ tín dụng cũng tăng mạnh và tỷ trọng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh cũng được cải thiện đáng kể.
3.3 Những hạn chế còn tồn tại
Tỷ lệ lạm phát biến động không đông đều, thời gian gần đây lạm phát ở nước ta tháp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát từ tháng 3 đến tháng 10 năm 99 chúng ta có lạm phát âm gây ra những tác động tieu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay đã lên đến mức báo động đạt xấp xỉ 7% gây lãng phí về nguồn lực gây ra các tệ nạn xã hội
tốc độ tăng trưởng kinh tế đang giảm dần năm 98 chỉ có 5.8% và năm 99 là 4.8%.
đầu tư của nền kinh tế đang chậm lại giảm sút hoặc đang thiếu vốn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trì trệ
suất khẩu hàng hoá và dịch vụ ách tắc thu nhập của dân cư không tăng mà đang có xu hướng giảm đi
tình hình tín dụng đang có xu hướng xấu đi lãi suất liên tục giảm nhưng cầu tín dụng lại không tăng huy động vốn tăng cao gấp đôi mức tăng dư nợ tín dụng vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn ,các NHTM phải dùng dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, gần đây NHNN lại quy định mức trần lãi suất thống nhất cho tín dụng ngắn hạn trung và dài hạn do đó không khuyến khích cho vay dài hạn huy động vốn dài hạn. tỷ lệ nợ của các ngân hàng thương mại còn qua cao tới mức báo động quan hệ giữa lãi suất huy đông cho vay ngoại tệ và VNĐ còn chưa hợp lý gây ra tình trạng cốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhưng dư nợ cho vay ngoại tệ lại giảm
3.4 Nguyên nhân
3.4.1 Nguyên nhân khách quan
ngày 2/7/1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á xảy ra bắt đầu từ thái lan, cuộc khủng hoảng phát ảnh hưởng đến nhiều nước trong khu vực đẩy những nước nay vào tìn trạng nghiêm trọng. Năm 1998 một số nước có nền0 kinh tế tăng trưởng âm như Inđonexa -18.4% , Thái lan –8.5%..
Là một nước trong khu vực chúng ta cũng phải chịu ảnh hưởng không nhỏ của cuộc khủng hoảng đó tốc độ tăng trưởng của nước ta tăng chậm lại 5.8% vào năm 98 và 4.8% vào năm 99
Đầu năm 1999 hạn hán xảy ra ở nhiều nơi trong khi cuối năm lại có lũ lụt ở các tỉnh miền trung gây hậu quaar nghiêm trọng nặng nề cả vật chất lãn tinh thần
Một số vụ án về ngân hàng gây mất niềm tin cho ngành ngân hàng gây thất thoát hàng nhiều tỷ đồng như vụ án minh phụng ,tân trường sanh
3.4.2 Nguyên nhân chủ quan
Đó là hạn chế cơ chế điũu chỉnh trực tiếp trong điũu hành hành chính về chính sách tiền tệ ở việt nam
công cụ trực tiếp có thể hiểu là các công cụ tác động trực tiếp vào các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ , còn công cụ gián tiếp tác động vào mục tiêu thông qua điũu tiết dữ trữ vượt mức (vốn khả dụng)của hệ thống NHTM, với cách hiểu như vậy, hiện nay NHNN Việt nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm hạn mức tín dụng,lãi suất (thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay),tỷ giá.bên cạnh đó các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc và chinhs sách tái cấp vốn(bao gồm hạn mức tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn ) cũng được sử dụng, nhưng hiệu quả tác dộng rất hạn chế để bổ trợ cho các công cụ trên , NHNN còn sử dụng một loạt các chính sách khác như chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá ngoại hối.
Những hạn chế của cơ chế điũu chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ ngày càng bộc lộ rõ nét.
Các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ động vốn.
Tình trạng dữ trữ không mong muốn của NHTM bắt đàu từ 1994 và kéo dài cho tới nay đó là do duy trì lãi suất tiền gửi cao, do từ năm 1997 tổng cầu suy giảm , phản ánh sự giảm sút của của nhu cầu tiền tệ đặc biệt là nhu cầu giao dịch.
Trong khi đó NHNN không có công cụ để hấp thụ vốn khả dụng thừa một cách chủ động ngoài dự trữ bắt buộc (nhưng rất chậm chạp)thực tế năm 1996, NHNN đã thí điúm phát hành trái phiếu NHNN để đạt được mực đích này nhưng vì nhiều lý do mà không thể thực hiện được
Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ điều này thể hiện rất rõ trong 2 năm qua(1998-1999)khi trần lãi suất công cụ chính sách tiền tệ chủ giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không những khng tăng mà còn tiếp tục giảm . Đương nhiên sự giảm này chủ yếu các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn do yếu tố tiền tệ danh nghĩa nhưng chính sách tiền tệ không chủ động do đó nó không tỏ ra có hiệu quả.
Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn suất đa dạng qua lãi suất ,qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu ,cổ phiếu và giá ngoại tệ
Việc sử dụng các công cụ trực và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các biến số vĩ mô thông qua kênh truyền dẫn trực tiếp .
Kênh truyền dẫn trực tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động của thị trường tài chính thông qua sự thay đổi giá tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đâù tư của người đầu tư .với các công cụ gián tiếp ,đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở,ngân hàng trung ương có thể đa phương truyền tác động của nó đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp.
Các công cụ điũu hành chính sách tiền tệ hiện có chưa phát huy tốt tác dụng trong cơ chế thị trường ,thậm chí có công cụ vẫn còn ở dạng sơ khai và rất thiếu công cụ cần thiết để đáp ứng đòi hỏi mới của tình hình.
NHNN việt nam chỉ sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là chính ,nhưng công cụ này rất khó sử dụng,rất rễ bị lỡ tay và trong thực tế nó cung chưa phát huy được hết tác dụng.Trong khi đó nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt chính xác,chủ động và rễ ràng đảo ngược việc mua lại chưa được sử dụng
3.4.3 Đó là sự bất cập của các thủ tục pháp ý, hành chính, sự yếu kém của bộ máy hành chính.
Hệ thống ngân hàng chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp,chưa bám thị trường ,chưa bám khách hàng,chưa đủ năng động và phần nào đó còn có sự co cụm lại do việc sử lý những yếu kém và sức ép của pháp luật,công luận,do đó đẻ ra nhiều thủ tục nhiêu khê phiền hà.Để vay được vốn của ngân hàng là điều rất khó,khó hơn rất nhiều so với gửi tiền vào.Còn trong quan hệ của NHTM và NHNN thì những điều kiện để chiết khấu ,tái chiết khấu cũng rất khó.Gần đây NHNN ra quyết định về việc trích dự phòng rủi ro tín dụng .Đây là vấn đề mà các NHTM mong đợi từ lâu song khi có rồi lại thất vọng .Bởi vì, khi điều kiện thực hiện quá ngặt nghèo,nằm ngoài tầm với của NHTM thì có cũng như không.
3.4.4 nguyên nhân thuộc về những người lập , ra quyết định ,thực hiện quyết định.
Những người lập chính sách còn chưa có trình độ coa nhiều khi còn ra các quyết định sai lầm , thêm vào đó là chất lượng thông tin về các biến số vĩ mô còn chưa được cao.
Những biện pháp đề ra chưa đủ nhanh, mạnh, nội dung công việc triển khai chậm chưa bám sát thực tiễn.
3.4.5 các công cụ chính sách tiền tệ nói riêng và các chính sách kinh tế noi chung chưa thực sự đồng bộ. Nhiều khi còn kìm hãm nhau, nhất là trong dài hạn.
ví dụ để kiểm chế lạm phát chính phủ có thể sử dụng chính sách thắt chặt tiền tẹ làm giảm lượng tiền trong lưu thông nhưng điều đó có thể làm giảm tỷ giá hối đoái ( đồng nội tệ lên giá so với đồng ngoại tệ) và vĩ vậy sẽ là nguy cơ của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại.
Hoặc giả khi thực hiện chính sách tài khoá mở rộng có thể làm tăng sản lượng tiềm năng về mặt dài hạn nhưng trong điều kiện chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc tỷ giá hối đoai linh hoạt thì ảnh hưởng về mặt dài hạn của nó có thể bị triệt tiêu.
*3.4.6 những hạn chế của chính sách lãi suất trong giai đoạn 1996 đến nay
Thứ nhất: Quá trình điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay chưa đồng bộ gây ảnh hưởng đến hiệu qủa quá trình huy động và cho vay vốn.
Điều này đã được nêu ra khái quát trong chỉ thị 05/CT-NH1 của lãnh đạo NHơNN Việt nam ngày 6/6/1996 "khi hạ lãi suất tiền gửi nhưng không đồng thời hạ lãi suất cho vay hoặc đồng thời hạ nhưng tốc độ tiền gửi nhanh hơn dẫn đến tình trạng vốn ngắn hạn tạm thời ứ đọng, các NH đối phó bằng cách huy động vốn một cách cầm chừng, đn gin hoá các loại hình huy động tiền gửi dân cư dẫn đến một tình trạng đáng suy nghĩ trong lĩnh vực vốn cho nền kinh tế - ngân hàng đang no , các doanh nghiệp đói vốn còn kho tiền của dân thì đang chất đầy ..."
Thứ hai: Mức lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng so với tốc độ thiểu phát hiện nay thì không kích thích được sản xuất kinh doanh vì lãi suất thực của ngân hàng vẫn cao so với lợi nhuận mà họ thu được thực tế lạm phát năm 1999 liên tục ở mức giảm phát là -0.7% hay 0.5% điều đó làm khó khăn thêm trong việc giải toả vốn của ngân hàng.
Thứ ba: Bên cạnh đó hiện nay mức lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chưa hợp lí. Mặc dù từ năm 1995 NHNN cho các NHTM tự do quy định trong hạn mức lãi suất ưu đãi xuất khẩu song nhìn nhận chung thì mức lãi suất ưu đãi này còn quá cao chưa thực sự hợp lí để có thể thúc đẩy quá trình mở rộng xuất khẩu ở Việt nam. Vào thời điểm ban hành quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 1/1/96 mức lãi suất ưu đãi là 1,2% tháng, sau đó khi NHNN có quyết định giảm lãi suất trần xuống còn 1,60% ( so với 1,75% ) thì mức lãi suất ưu đãi vẫn giữ ở mức 1,2%. Từ 1/9/1996 lãi suất ưu đãi giảm xuống còn 1,1% so với lãi suất trần cho vay ngắn hạn là 1,5%, đến tháng 10 ( thời điểm ra quyết định 266/QĐ-NH1 ) lãi suất ưu đãi là 0,96% và hiện nay mức lãi suất này giảm xuống ở mức 0,7% so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa là 1%.
Theo số liệu trên ta thấy mức lãi suất cho vay ưu đãi xuất khẩu thường giảm rất chậm và thấp hơn so với mức độ giảm của lãi suất cho vay theo quy định của NHNN. Thêm vào đó mức lãi suất ưu đãi xuất khẩu hiện nay chưa có sự quy định một cách cụ thể đối với các mặt hàng và ngành nghề khác nhau. Thực tế cho thấy quá trình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu hiện nay ở Việt nam đang trong giai đoạn 1 và 2 tức là tiến hành chú trọng cho công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công nghiệp chế biến sử dụng nhiều vốn song giá trị ngoại tệ thu về thấp do ta phần lớn xuất khẩu dưới dạng thô. Vì vậy cần có một chính sách lãi suất ưu đãi hợp lí để có thể thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu với mục tiêu nâng cao dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thuộc ngành công nghiệp và kỹ thuật cao, hiện nay mới chỉ chiếm 20-25%.
Hiện nay cần thực hiện quy định mức lãi suất ưu đãi cho các ngành khi nhập máy móc hiện đại phục vụ các ngành trọng tâm trong tiến trình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu .
Muốn đẩy mạnh chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu thì ngay trước mắt cũng cần có một biểu lãi suất cho vay hợp lí để đầu tư vốn cho xây dựng sở hạ tầng mà trước hết là cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu như hệ thống cảng biển , cảng hàng không ..
Thứ tư: Chính sách lãi suất còn chưa hợp lí trong việc quy định tỉ lệ chênh lệch lãi suất giữa nông thôn và thành thị trong một khong thời gian đến năm 1999 thì mới giải quyết được.
Thực tế theo quyết định 381/QĐ-NH1 của NHNN mức lãi suất trần cho vay của các TCTD ở nông thôn là 2%, các tổ chức ở thành thị là 1.75%, sau đó là 1.5% đối với các NHTMCP Nông thôn và 1.8% tháng đối với các QTDND. Sự chênh lệch đó mặc dù có ý nghĩa khuyến khích phát triển mở rộng các TCTD tại nông thôn tạo thuận lợi cho người nông dân song điều đó tạo kẽ hở cho việc chuyển các nguồn vốn từ thành thị về nông thôn để hưởng chênh lệch .
Thêm vào đó chính người nông dân phải chịu lãi suất cao nhất trong nền kinh tế , gấp 1,2- 1,5 lần so với mức 1.25% ở thành thị. Trong khi thành phần kinh tế này đúng ra phải được ưu tiên hơn c bởi vì lợi nhuận thấp , lao động chủ yếu mang tính chất thủ công , lại đóng góp khối lượng hàng hoá lớn nhất cho xuất khẩu.
Thứ năm: Chất lượng tín dụng có chiều hướng thay đổi xấu đi
Thống kê toàn ngành cho thấy nợ quá hạn đến hết năm 1996 ước khong 4%, tỷ lệ có thấp hơn so với những năm đầu đổi mới song con số đó so với yêu cầu còn quá cao và cũng chưa phản ánh đúng thực tế. Đáng báo động ở một số ngân hàng con số này đã lên tới 10%.tín dụng bị sa sút nghiêm trọng về chất lượng
ở các Ngân hàng thương mại cổ phần tình hình nợ quá hạn còn tồi tệ hơn, tính trung bình trên 5.2% so với tổng dư nợ , trong đó khối các công ty tài chính cổ phần tới 14.6% .Theo một phân tích mới đây của NHTW thì tỷ trọng nợ quá hạn của loại hình cho vay ngắn hạn là chủ yếu, trong tổng số 2.112 tỷ đồng nợ quá hạn thì riêng loại hình cho vay ngắn hạn đã là 1.686 tỷ chiếm tới 79,8% tổng số nợ quá hạn. Con số này so với năm 1995 đã tăng 343 tỷ.
Loại hình cho vay trung hạn và dài hạn số nợ quá hạn là 370 tỷ đồng tăng 124 tỷ so với năm 1995 , trong đó các mức nợ tưng ứng theo thời hạn 3 tháng , 6 tháng và 1 năm là 216 , 67 và 87 tỷ.
Thứ sáu: Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao hơn nhiều lãi suất ngoại tệ trong khi tỷ giá hối đoái ổn định.
Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao gấp 1,2 - 1,5 lần lãi suất cho vay ngoại tệ trong khi tỷ giá hối đoái ổn định nên các doanh nghiệp Việt nam tìm mọi cách vay ngoại tệ, bán đi hay nhập hàng tiêu dùng về bán để lấy VNĐ gửi NHTM hưởng lợi bất chính, gây khó khăn cho việc quản lí ngoại hối. Thực tế đó được chứng minh qua việc các doanh nghiệp đua nhau mở L/C trả chậm nhập hàng tiêu dùng, con số này ở TPHCM trong 11 tháng đầu năm 1996 lên tới 800 triệu USD, các doanh nghiệp VN vay vốn nước ngoài theo hình thức tự vay tự tr tính từ tháng 9 năm 1993 đến tháng 11 năm 1996 là 1,6 tỷ USD. Tình hình đó có thể gây lên gánh nặng trả nợ nước ngoài sau này, làm tỷ giá VNĐ/USD giảm, nghĩa là VNĐ lên giá quá thực tế so với USD và làm giảm khả năng đạt được mục tiêu tiến tới trên đất Việt nam chỉ lưu hành đồng tiền Việt nam .
Thứ bảy: Các công cụ điều chỉnh lãi suất hiện nay chưa phát huy được hiệu quả
Cho đến cuối năm 1996 hệ thống ngân hàng đã phát triển đến giai đoạn cao nhất về số lượng, cơ cấu và các loại hình ngân hàng: 4 NHTM quốc doanh với 1200 chi nhánh , 54 NHTM CP , và 2 công ty tài chính cổ phần, 3 NH liên doanh với nước ngoài và 70 văn phòng đại diện, 24 chi nhánh NH nước ngoài, 1 công ty cho thuê tài chính của nước ngoài, 50 HTX tín dụng và hơn 700 QTDND. Ngoài ra còn có 5 công ty bảo hiểm, 1 công ty liên doanh bảo hiểm, 1 công ty tái bảo hiểm và 6 quỹ đầu tư nước ngoài. Song chỉ có 50% số tổ chức tín dụng nói trên tham gia vào thị trường nội tệ liên ngân hàng làm cho thị trường này hoạt động không thường xuyên , chưa trở thành nơi mua bán vốn giữa các thành viên. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng chưa có tác dụng hình thành nên lãi suất cho vay bình quân trong nền kinh tế , các NH vẫn trực tiếp vay vốn lẫn nhau .
Trong năm 1999 NHNN đã 5 lần hạ trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng mức độ điều chỉnh tương đối lớn gây rất nhiều khó khăn cho các NHTM. Vì chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra bị thu hẹp lại một biên độ quá hẹp - dưới 0,1% /tháng. Đó là chưa kể tới đây NHTM còn phải trình lập dự phòng rủi ro, tham gia bảo hiểm tiền gửi và thực hiện các hệ số bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Trong khi đó việc hạ lãi suất đầu vào không dễ dàng gì và đang bị nhiều sức ép (lạm phát còn tiềm ẩn, giá trị VND chưa ổn định, lòng tin vào hệ thống NH giảm sút...)
- Hiện nay trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn là 1,05% /tháng, khu vực thành thị là 0,85% tháng đó là một nghịch lý vì không kích thích nông nghiệp phát triển, không kích thích cầu của thị trường còn nhiều tiềm năng cho phát triển sản xuất và một thực tế khác là khu vực nông thôn chỉ có thể tự cấp được 30% nhu cầu vốn, cần có sự thu hút vốn từ thành thì về.
- Trong việc điều hành lãi suất hiện nay, NHNN quy định một mức thống nhất đối với tất cả các loại cho vay ngắn, trung và dài hạn. Điều này mâu thuẫn với lý thuyết, làm sao tìm kiếm được các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư cho vay trung, dài hạn? Theo thông lệ quốc tế lãi suất cho vay dài hạn bao giờ cũng cao hơn lãi suất ngắn hạn. Mình lại đánh đồng vào một mức lãi suất thì kiếm đâu ra vốn trung dài hạn để đầu tư trung dài hạn? Hay lại tiếp tục đưa nguồn vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn - một quả bom nổ chậm mà luật các tổ chức tôn trọng cũng đã có quy định hạn chế.
Hơn nữa điều này cũng không khuyến khích cho vay trung dài hạn vì rủi ro cao hơn như vậy làm sao có vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi lãi suất dài hạn cũng chỉ bằng lãi suất ngắn hạn.
Quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng VND và bằng USD còn chưa hợp lý . Trong khi chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng ngoại tệ là 3% /năm (mặc dù thấp hơn so với một số nước trên thế giới: Thái lan, Trung quốc 3,2% , Mỹ 4%) nhưng so với mức chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào của VND quả là không cân xứng. Như vậy là kinh doanh ngoại tệ có thu nhập cao hơn kinh doanh tiền đồng. Không ít ngân hàng huy động được ngoại tệ đã không cho các doanh nghiệp trong nước vay mà guỉ ra nước ngoài kiếm chênh lệch cao hơn cho vay trong nước.
Hơn nữa tỷ giá hối đoái lại tăng nên việc gửi tiền bằng ngoại tệ có lợi hơn việc gửi bằng VND, dẫn đến tình trạng tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tăng (37,3% năm 98) nhưng lại hạn chế nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp.
Phần III
Giải pháp và kiến nghị
1. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
Ngân hàng trung ương các nước thường tiến hành phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cùng cầu tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu.
ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ.
Để sớm có thể đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, cần có các giải pháp sau.
1.1. Hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở.
Để thực hiện tốt nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần có bộ máy gồm các chuyên gia tài chính - tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh giá diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát....để đưa ra những quyết định can thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cùng các công cụ khác thực thi có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ. Bộ máy này có thể gọi là ban thị trường mở trực thuộc NHNN trung ương. Nhiệm vụ chủ yếu của ban thị trường mở gồm.
- Theo dõi, tính toán dự toán vốn khả dụng của các ngân hàng (qua bộ phận nghiệp vụ). Các thông tin này giúp ban thị trường mở quyết định cần phải thay đổi vốn khả dụng của các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ.
- Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư. cùng kết quả phân tích ở trên, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán, khối lượng mua, bán từng đợt, lãi suất trình thống đốc quyết định.
- Phát triển công nghệ ngân hàng, bao gồm đào tạo con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại.
1.2. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời của NHNN trên thị trường mở
- NHNN cần quy định rõ các công cụ được mua bán trên thị trường mở, quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở.
NHNN cũng cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở giả sử nếu CSTT đặt trọng tâm vào việc điều tiết lãi suất thì NHNN nên áp dụng giá cố định. Khi cần tăng lãi suất trên thị trường hoặc khống chế khối lượng tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định.
1.3. Các biện pháp liên quan khác:
Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý.
+ NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đúng vai trò người cho vay cuối cùng.
+ Thực hiện các biện pháp cần thiết, đồng bộ từ chính phủ, uỷ ban chứng khoán nhà nước đến các ngành, các cấp để sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động.
+ Thực hiện các biện pháp để thúc đẩy hình thức tín dụng thương mại như ban hành luật thương phiếu, quy chế hoạt động, các văn bản hướng dẫn liên quan.
+ Hệ thống NHTM cần tiếp tục đổi mới công nghệ thanh toán, tiến tới thực hiện xã hội hoá việc mở tài khoản thanh toán cho các chủ thể trong xã hội. Có như vậy khi các chủ thể này tham gia mua bán tín phiếu tại thị trường mở , nó sẽ nhanh chóng tác động ngay đến khả năng tín dụng của các NHNN và công cụ thị trường mở mới có thể phát huy hết các ưu thế vốn có của nó.
2. Các giải pháp đối với chính sách lãi suất.
2.1. Cần có một chính sách lãi suất đồng bộ.
Thứ nhất tiền lãi suất cho vay bằng nội tệ cần phải dựa trên các cơ sở sau:
+ Tỷ lệ lạm phát : lãi suất danh nghĩa phải được xác định cao hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo một tỷ lệ lãi suất thực dương.
+ Tỷ suất lợi nhuận bình quân: giới hạn tối đa đối với tỷ lệ lãi suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
+ Cơ cấu rủi ro: mức độ rủi ro của một khoản vay xác định lãi suất của khoản vay đó, theo đó rủi ro càng cao thì lãi suất càng cao.
Hiện nay chúng ta áp dụng chung một trần lãi suất cả cho ngắn, trung và dài hạn theo em đó là một nghịch lý và cho vay trung dài hạn mức độ rủi ro cao hơn nên lãi suất cho vay phải cao hơn và lãi suất huy động cũng phải cao hơn.
+ Cơ cấu ưu tiên: một mức lãi suất thấp hơn sẽ áp dụng cho các khu vực được ưu tiên như khu vực các doanh nghiệp quốc doanh hay khu vực các doanh nghiệp quốc doanh hay khu vực nông nghiệp khu vực sản xuất háng xuất khẩu.
Hiện nay các doanh nghiệp quốc doanh khi vay vốn thì không cần tài sản thế chấp, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu cũng có những ưu tiên. Nhưng đối với khu vực nông thôn thì hiện nay chúng ta quy định trần lãi suất cho vay là 1,05% /tháng cao hơn trần lãi suất cho vay đối với khu vực thành thị (0,85%/tháng) đó là một nghịch lý và cần phải được thay đổi vì khu vực nông thôn chỉ có thể tự cấp được 30% nhu cầu vốn, cần đườc khuyến khích phát triển....
+ Chi phí hoạt động của ngân hàng.
Lãi suất cho vay phải bù đắp được các chi phí hoạt động cho ngân hàng và đảm bảo có lãi cho các ngân hàng.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và các loại lãi suất khác.
- Tiền lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và nội tệ phải cân xứng với nhau tuỳ theo sự biến động của tỷ giá , tốc độ mất giá của đồng nội tệ và đồng sản tệ sao cho chi phí vay vốn bằng nội tệ hay ngoại tệ đeèu như nhau.
- Tiền lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn đều là các công cụ của chính sách tiền tệ. Chúng cần được điều hành đồng bộ với nhau để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
- Tiền lãi suất cho vay và lãi suất của các công cụ trên thị trường mở. Ví dụ để giảm mức cung tiền chúng ta có thể tăng trần lãi suất hoặc đặt mua các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất ấn định cao.
2.2. Thực hiện lãi suất cơ bản để tiến tới tự do hoá lãi suất .
Tháng 1/1998 chúng ta đã bỏ quy định về mức chênh lệch bình quân 0,35%. Đó là một bước đi để tiến tới tự do hoá lãi suất. Để thực hiện tự do hoá lãi suất chúng ta cần phải thực hiện lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản có thể được hiểu theo nhiều nội dung khác nhau. Đó là
- Lãi suất trần do NHTW quy định (như ở nước ta) có thể là.
+ Lãi suất cho vay tối đa.
+ Lãi suất cho vay tối thiểu.
- Lãi suất sàn do NHTW quy định có thể là
+ Lãi suất tiền gửi tối thiểu
+ Lãi suất tiền gửi tối đa
Nhưng cơ sở nào để xác định lãi suất cơ bản thì đó là một vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Hiện nay có một số quan điểm tiếp cận lãi suất cơ bản như sau:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng nên lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN làm lãi suất cơ bản, theo quan điểm này vô hình chung đã phủ nhận nội dung điều luật 18 của luật NHNN là NHNN xác đinhj nội dung và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn, như vậy có sự phân định giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản mà NHNN đã quy định đối với khoản tín dụng mà NHNN quy định thực hiện cho vay cuối cùng với ba hình thức:
NHNN cho vay chiết khấu và tái chiết khấu đối với các thương phiếu của NHTM.
NHNN cho vay đối với giá trị các hợp đồng tín dụng chưa đến hạn hợp đồng của các NHTM.
NHNN cho vay cầm cố bất động sản và thế chấp các chứng từ có giá khác của NHTM. Lãi suất tái cấp vốn của ba hình thức chủ yếu này được NHNN sử dụng để thắt chặt hoặc mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế qua đó thực hiện chính sách tiền tệ. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì NHNN thường sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu để điều khiển lãi suất tín dụng, trong khi ở nước ta hình thức này chưa suất hiện do vậy lãi suất tái cấp vốn chưa thể chi phối.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng vẫn duy trì lãi suất trần hiện nay và xem đó là lãi suất cơ bản nhưng có thể quy định mức biên độ tuy nhiên chúng ta đã chấp nhận lãi suất trần lại còn có biên độ dao động.
+ Quan điểm thứ ba cho rằng việc xác định lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất đầu vào đồng thời công bố giới hạn tối đa để NHTM được phép ấn định lãi suất cho vay.
+ Quan điểm thứ tư cho rằng, học tập kinh nghiệm của Malaisya, NHNN quy định lãi suất cơ bản và cho phép các NHTM được cộng thêm một khoản tỷ lệ khi cho vay nhuưng không được cho vay thấp hơn lãi suất cơ bản.
Nhưng theo em thì cần có một lãi suất sàn để làm lãi suất cơ bản
2.3. Đã đến lúc cần một lãi suất sàn.
Chính sách trần lãi suất nhằm bảo vệ cho người đi vay không bị ép bởi các ngân hàng. Nhưng chính sách trần lãi suất chỉ thích hợp trong trường hợp.
+ Nhu cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng
+ Ngân hàng hoạt động trong một môi trường độc quyền.
Trong điều kiện như vậy, ngân hàng luôn cho vay với mức lãi suất cao, không quan tâm nhiều đến việc tiết kiệm chi phí và thái độ phục vụ.
Tuy nhiên, tình hình năm 1999 (nhất là các tháng cuối năm 1999) điều kiện của thị trường đã thay đổi. Nhu cầu vốn đã thu hẹp, các NHTM không cho vay ra được trong khi đó các TCTD lại gia tăng số lượng dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các TCTD. Việc cạnh tranh giành thị trường hầu như là bằng cách hạ lãi suất. Điều này làm cho rủi ro cao nhưng tỷ suất lại nhỏ. dẫn tới sự vội vã trong kiểm tra các điều kiện vay vốn để giành giật khách hàng, dẫn tới việc không quan tâm đến tính thời vụ, tính chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và làm cho tính rủi ro càng cao hơn. Việc hạ lãi suất như vậy làm cho các ngân hàng bị thiệt hại có thể thua lỗ, phá sản.
Trước tình trạng như thế thì chính sách lãi suất điều hành bằng trần lãi suất xem ra không còn thích hợp. Lúc này không còn ngân hàng nào áp dụng lãi suất tối đa để cho vay vì sẽ không có khách hàng vay, mà chỉ cố gắng tối thiểu lãi suất để giành khách hàng.
Do đó để tránh tình trạng trên, gây thiệt hại cho ngân hàng, ngày 6/12/1999 bốn NHTM QD đã thống nhất sàn lãi suất cho vay không thấp hơn 0,75%/tháng khi các NHTMQD hạ lãi suất cho vay thì các NHTMCP tất yếu cũng phải hạ lãi suất cho vay (có thể còn phải thấp hơn của các NHTMQD) để có thể cạnh tranh giành khác hàng.
Nhưng sự thống nhất về sàn lãi suất cho vay của bốn NHTM quốc doanh chưa thể hiện một chính sách điều hành bằng lãi suất . Bởi lẽ nó chưa mang tính pháp lý đối với các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam. Nhất là đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thực tế đã có một số NH này cho vay với lãi suất 0,68% tháng.
Vì vậy, chúng ta cần một chính sách, nghĩa là sàn lãi suất phải được NHNN ban hành. Tỷ lệ bao nhiêu còn cần được xem xét tới nhiều yếu tố liên quan như lãi trả cho tiền gửi huy động, phí hoạt động cần thiết của NH, tỷ giá tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ lạm phát... khả năng kinh doanh và tỷ suất phát triển bình quân của các doanh nghiệp.
Khi áp dụng một lãi suất sàn cần có các lưu ý sau:
+ Một là, lãi suất sàn chỉ áp dụng ở khu vực thành thị, nơi có nhiều ngân hàng đóng trụ sở và là nơi đã và đang có các điều kiện thuận lợi thu hút sự đầu tư và dễ huy động vốn, bởi vì chính nơi đây đang diễn ra sự cạnh tranh lãi suất gay gắt theo chiều hướng bất lợi.
+ Hai là, lãi suất sàn không cần áp dụng ở khu vực nông thôn nơi đang thiếu vốn; một nơi nghèo, chậm phát triển đang cần sự đầu tư với lãi suất ưu đãi hơn để tăng trưởng; do đó, không cần phải khống chế sàn lãi suất cho khu vực này, đây là khu vực cơ sở phát triển cho toàn bộ nền kinh tế đất nước; vì thế ở khu vực này phải được bảo vệ bằng trần lãi suất (việc đầu tư ở khu vực nông thôn cần hiểu là cho vay trực tiếp cho sản xuất hoặc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất). Sự không khống chế lãi suất sàn ở khu vực nông thôn trong điều kiện hiện nay sẽ tạo ra một luồng chảy vốn từ các ngân hàng ở thành thị về nông thôn, từ đó mới có điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn.
+ Ba là, lãi suất sàn cũng cần phải quy định luôn cho trung và dài hạn theo nguyên tắc, lãi suất sàn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất sàn ngắn hạn.
Tóm lại , một chính sách lãi suất sàn ở giai đoạn này với những lý do như đã trình bày ở trên là điều cần thiết. Hơn nữa, chúng ta chưa có điều kiện đủ cho việc áp dụng chính sách tự do hoá lãi suất, khi mà ngân hàng vẫn phải trả lãi cho tiền gửi, chứ không phải thụ phí của tiền gửi để phục vụ cho khách hàng những tiện ích của dịch vụ.
3. Cần có các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT.
Các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những yếu điểm và ngày càng kém hiệu lực trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động.
Để có một chính sách tiền tệ mềm dẻo, linh hoạt cần có các công cụ gián tiếp mới sử ( như thị trường mở) và tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp cũ (DTBB) chính sách tái cấp vốn : bao gồm hạn mức TCV và chính sách TCV).
Để có thể sử dụng các công cụ gián tiếp cần phải:
- Có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh
- Một thị trường tiền tệ thứ cấp hoạt động tích cực và được điều tiết hiệu quả.
Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không bảo đảm cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa sau 10 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp đang dần hình thành hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyển đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. Công việc cần phải làm tiếp theo là đánh giá và dự tính hiệu quả tác động của công cụ gián tiếp trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
4. Về các thủ tục hành chính, bộ máy hành chính.
Các thủ tục hành chính vẫn còn rắc rối, kém hiệu quả, nhiều chỗ còn chưa rõ ràng, có khi còn chồng chéo, chưa hợp lý. Do đó cần phải có một cơ chế thông thoáng hơn, hợp lý hơn, cần có các văn bản hướng dẫn việc thi hành các văn bản pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, chính sách bộ máy hành chính nói chung và của NHNN nói riêng còn cồng kềnh, yếu kém, còn nhiều bất cập, làm việc kém hiệu quả cho nên các quyết định nhiều khi chưa chính xác, việc chỉ đạo thực hiện các chính sách nhiều khi chậm trễ, không hiệu quả.
Yếu tố con người là cực kỳ quan trọng do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng để có những cán bộ tín dụng có kiến thức, trình độ , có đạo đức, trình độ nghề nghiệp và phải có bản lãnh, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Bên cạnh đó cần phải giảm biên chế bộ máy hành chính, tăng cường các mối quan hệ theo chiều ngang. Tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ dứt điểm việc củng cố, sắp xếp các TCTD.
Ngoài ra cần phải nâng cao chất lượng của thông tin, bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, hiện đại hoá công nghệ NH mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán quá NH. Phát triển các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để dễ dàng hơn trong việc kiểm soát khôí lượng tiền cung ứng, lưu thông điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn.
5. Chính sách tiền tệ cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng với các chính sách quốc tế khác.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng của quốc gia , nó có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác, nhất là chính sách tài khoá quốc gia. Do đó khi điều hành chính sách tiền tệ cần phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách khác, trong một tổng thể vĩ mô vì các biến số vĩ mô cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các công cụ của chính sách tiền tệ cũng cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng hướng đến mục tiêu định trước. Để làm được điều đó cần phải chú ý đến cả các tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn của các chính sách, các công cụ riêng lẻ. Cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành có liên quan. Đặc biệt cần tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và bộ tài chính trong điều hành chính sách tài chính , tiền tệ.
Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí Ngân hàng các số 7, 9, 14, 16, 17, 18 năm 1999; số 1 + 2 năm 2000
2. Tạp chí Thông tin tài chính số 9, 11 năm 1999; số 1 năm 2000
3. Tạp chí tài chính số 9,10, 11 năm 1999
4. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 10, 11 năm 1999; số 1 năm 2000
5. Tạp chí thị trường lao động số 1 năm 2000
6. F.Mishkin Tiền tệ - Ngân hàng - Thị trường tài chính 1992
7. Kính tế học vĩ mô - Đại học KTQD Hà Nội - 1998
8. Lê Văn Tư: Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng 1999
9. Lê Vinh Danh - Tiền và hoạt động ngân hàng - 1996
10. Lý thuyết tiền tệ - Ngân hàng.
11. Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển - Nguyễn Đình Tài - 1998
12. Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ Quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Nguyễn Võ Ngoạn.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
1
Phần I: Những vấn đề lý luận chung về chính sách tiền tệ
3
1. Khái niệm
3
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
4
2.1. Kiểm soát lạm phát
4
2.2. Tạo việc làm giảm bớt thất nghiệp
5
2.3. ổn định và tăng trưởng kinh tế
6
2.4. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền
8
2.5. Xung đột giữa các mục tiêu
8
2.6. Các mục tiêu trung gian
9
3. Cơ cấu chính sách tiền tệ
10
4. Phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
11
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ
12
5.1. Nghiệp vụ thị trường mở
12
5.2. Dự trữ bắt buộc
14
5.3. Chiết khấu, tái chiết khấu
15
5.4. Chính sách lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi
17
5.5. Cung ứng tiền mặt pháp định
19
5.6. Kiểm soát tín dụng chọn lọc
19
5.7. ấn định hạn mức tín dụng
20
Phần II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
22
1. Khái quát tình hình kinh tế tiền tệ ở Việt Nam từ năm 1986 - 1995
22
2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
25
2.1. Tình hình kinh tế tiền tệ
25
2.2. Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
27
3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ
31
3.1. Những mặt tích cực
31
3.2. Những kết quả đạt được
32
3.3. Những hạn chế và tồn tại
34
3.4. Nguyên nhân
34
Phần III: Giải pháp và kiến nghị
43
1. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở
43
2. Các giải pháp đối với chính sách lãi suất
45
3. Cần có các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ
49
4. Về các thủ tục hành chính bộ máy hành chính
50
5. Chính sách tiền tệ cần sử dụng một cách đồng bộ cùng với các chính sách kinh tế khác
50
Tài liệu tham khảo
52
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0902.doc