Các giải pháp đề ra muốn thực hiện thành công phải có sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ có hiệu quả giưã các cấp, các ngành, các cơ quan hữu quan trong việc thắt chặt quản lý, nâng cao chất lượng để thực thi tốt chiến lược kinh tế, xã hội của đất nước.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ bé về việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam. Do hiểu biết còn hạn chế, nội dung đề tài có tính bao quát và là lần đầu tiên nghiên cứu sâu chuyên ngành nên nội dung trình bày và các giải pháp kiến nghị đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
84 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện trạng chất lượng - Quản lý chất lượng mặt hàng gạo và một số biện pháp nâng cao chất lượng mặt hàng gạo xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vệ sinh an toàn thực phẩm – Bộ y tế .
- Các chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng các tỉnh – Bộ khoa học công nghệ và Môi trường .
- Một số phòng kiểm định của một số Viện và Trung tâm nghiên cứu khác.
Số lượng các cơ quan giám định như trên không phải là ít. Nhưng ngoài Vinacontrol là cơ quan có kinh nghiệm trong việc giám định còn các cơ quan khác chủ yếu là các phòng nghiên cứu, thử nghiệm & kiểm định chất lượng nông sản. Các cơ quan này có lợi thế hơn Vinacontrol ở chỗ họ là những chuyên gia về lĩnh vực nông sản. Song về lĩnh vực cung cấp các dịch vụ giám định cho các hợp đồng xuất khẩu thì lại ít kinh nghiệm. Mặt khác, chi phí đầu tư cho trang thiết bị giám định hạn hẹp. Máy móc, thiết bị đã cũ kĩ, lạc hậu nên kết quả giám định nhiều khi không chính xác để bạn hàng khiếu nại về chất lượng làm ảnh hưởng tới uy tín của Việt nam.
f . Các chính sách liên quan đến chất lượng gạo xuất khẩu đã ban hành :
- Chương trình an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia đến năm 2005 do Uỷ ban quốc gia về an ninh lương thực – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn . Ủy ban quốc gia về an ninh lương thực Việt nam cho biết vào năm 2005 có khoảng 25-35% dân số sống ở đô thị. Nhu cầu lương thực của toàn xã hội vào năm 2005, Việt nam cần tới 35.000 tỷ đồng cho các dự án bảo đảm an ninh lương thực. Có đảm bảo tốt an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia mới có thể làm tốt công tác xuất khẩu đặc biệt là có thể yên tâm để xuất khẩu gạo .
- Quyết định số 565/Ttg ngày 22/8/1996 của Thủ tướng chính phủ về quản lý quỹ dự trữ lưu thông lương thực .
- Quyết định số 140/Ttg ngày 7/3/1997 của Thủ tướng chính phủ ban hành chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế tự lưu thông lương thực giữa tất cả các vùng trong nước .
- Đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế .
- Đa dạng hoá hàng hoá nông sản phục vụ nhu cầu ngày càng tănmg cả về số lượng và chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu .
Ngoài ra hàng năm, căn cứ vào đề nghị của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Bộ Thương mại, Thủ tướng Chính phủ sẽ ra quyết định phê duyệt chỉ tiêu định hướng xuất khẩu gạo năm đó . Năm 2000, chỉ tiêu định hướng ở mức 4,3 triệu tấn không để gạo sản xuất ở khu vực miền Bắc và miền Trung. Nhưng năm nay, do điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt, lũ lụt hoành hành ở Đồng Bằng sông Cửu long liên tục trong mấy tháng, kết hợp với triều cường gây tổn thất lớn cho vụ lúa hè thu nên chỉ tiêu 4,3 triệu tấn gạo xuất khẩu có lẽ sẽ khó đạt được .
Trên đây là một vài nét về hiện trạng công tác quản lý chất lượng từ khâu quản lý chất lượng giống đến khâu quản lý chất lượng gạo xuất khẩu . Quản lý chất lượng giống hay chất lượng gạo đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Muốn cho gạo xuất khẩu có chất cường quản lý ngay từ khâu giống đến cày, cấy, gặt hái, chế biến, bảo quản . Tuy vậy , hiện nay công tác quản lý chất lượng của Việt nam từ khâu giống đến bảo quản chưa được thực hiện tốt , chưa được quan tâm đầy đủ. Mà điển hình là nhiều cơ quan như các tổ chức thanh tra vẫn chưa có, tổ chức giám định chưa được đầu tư đầy đủ ... Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam chưa đuổi kịp gạo Thái lan .
3. Những tồn tại :
Qua những phần trên, tuy chưa đầy đủ những cũng phần nào nêu được những vấn đề bất cập còn tồn tại về chất lượng gạo xuất khẩu cũng như là quản lý chất lượng gạo xuất khẩu . Dưới đây là một vài tổng kết về những tồn tại trong chất lượng và quản lý chất lượng gạo xuất khẩu .
3.1. Giống :
Tuy nhận thức được vai trò to lớn của giống trong việc nâng cao chất lượng gạo nhưng chất lượng giống vẫn chưa được cải thiện cho xứng đáng với vai trò của vật tư quan trọng nhất trong sản xuất . Công tác quản lý chất lượng giống lại gặp nhiều hạn chế .
Trước hết, phải kể đến tỷ lệ giống được kiểm tra chất lượng trước khi đưa vào sản xuất mới chỉ đạt 20%. Số liệu đó kể cả số lượng các công ty tự kiểm tra . Như vậy, còn khoảng 80% giống không kiểm tra được chất lượng, số này phần lớn do dân tự sản xuất. Với tình trạng này thì làm sao có thể đảm bảo có giống tốt sản xuất để cung cấp cho xuất khẩu . Là một nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới thì đây quả là một hạn chế lớn .
Tiếp đến là tỷ lệ nảy mầm của giống . Hiện nay trong chất lượng giống cây trồng chỉ tiêu về tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ lẫn và độ ẩm là chỉ tiêu thường đạt thấp ảnh hưởng đến chất lượng giống. Đây là hệ quả trực tiếp của việc gống không được kiểm tra đầy đủ trước khi đưa vào sản xuất. Kiểm định kém chất lượng vào gieo trồng . Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm..đến chất lượng gao sau này mà còn làm lãng phí tiền của tạo ra giống thay thế. Ngoài ra một nguyên nhân quan trọng là thực hiện quy trình sản xuất giống chưa tốt . Giống do các Viện nghiên cứu , công ty giống sản xuất thì tương đối tốt nhưng số lượng nhỏ không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất . Còn giống phần lớn lại do dân tự sản xuât. Người nông dân không có chuyên môn về lai tạp, chọn lọc, lại thiếu các máy móc, công nghệ thậm chí còn không có. Do đó giống có chất lượng kém là điều dễ hiểu. Thêm vào đó sơ chế, bảo quản lại kém. Các cơ sở hạ tầng cho bảo quản yếu kém ( kho tàng, thiết bị, bảo quản..) nên giống dù có chất lượng tốt mà không được bảo quản đúng quy cách ( kho bảo quản ẩm ướt, nhiều chuột bọ..) thì sau thời gian bảo quản chất lượng giảm sút là lẽ đương nhiên .
Cuối cùng là công tác thanh tra, kiểm tra chưa thực hiện thường xuyên. Kiểm tra thì không thường xuyên, thanh tra lại chưa có nên chưa có biện pháp xử lý khi vi phạm các quy định đã ban hành . Mặt khác các văn phạm chỉ xử phạt hành chính , không có tác dụng răn đe, ngăn chặn tái vi phạm .
3.2. Những tồn tại về chất lượng và quản lý chất lượng gạo xuất khẩu :
Những hạn chế không nhỏ về chất lượng và quản lý chất lượng giống đã có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng gạo và do đó ảnh hưởng tới chất lượng gạo xuất khẩu . Về chất lượng gạo xuất khẩu đã được cải thiện nhiều, quản lý chất lượng gạo xuất khẩu cũng được tăng cường rõ rệt. Nhưng những hạn chế, tồn tại cũng còn rất nhiều . Cụ thể :
Nước ta chưa có cơ quan chuyên trách thực hiện các chức năng quản lý thống nhất và tập trung đối với lĩnh vực chất lượng. Thời gian gần đây các Bộ quản lý lĩnh vực mới tự hình thành các đơn vị chuyên trách thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước được phân công theo các luật đã ban hành như : Cục quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thuộc Bộ y tế . Cục quản lý chất lượng hàng hoá thuộc Bộ thương mại ...
Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa có cơ quan chuyên trách về quản lý chất lượng gạo xuáat khẩu nói riêng và các nông sản nói chung . Trong khi đó sản phẩm gạo xuất khẩu lại đa dạng về chủng loại có khối lượng lớn .
Vụ khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn là đơn vị có chức năng về chất lượng sản phẩm. Song chưa đủ lực lượng để thực hiện được đầy đủ chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng. Mặt khác, mạng lưới tổ chức thực hiện viecẹ quản lý chất lượng nông sản tại địa phương chưa có .
- Thêm vào đó, các phòng thử nghiệm thực hiện nhiệm vụ kiểm định chất lượng gạo xuất khẩu không có hệ thống, chồng chéo gây ra hiện tượng phòng thí nghiệm được Nhà nước đầu tư thì ít có cơ hội kiểm định trong khi đó các phòng , Trung tâm thiếu thốn điều kiện thử nghiệm nhưng lại có nhiều cơ hội kiểm định nên phải đi thuê kiểm định mẫu tại các cơ sở khác. Thực hiện ngay cả Vinacontrol – là Trung tâm giám định chất lượng hàng hoá Việt nam – thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng hàng hoá Việt nam – thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng có thẩm quyền cấp chứng nhận kiểm định cũng không đủ điều kiện về trang thiết bị cũng như đội ngũ cán bộ cỏ đủ trình độ để phân tích tất cả các chỉ tiêu của các sản phẩm chuyên ngành nên thường phải thuê lại các trung tâm kiểm định của các ngành để thu lợi nhuận . Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kiểm định việc giám định chất lượng hàng hoá của các sản phẩm chuyên ngành phải do các Trung tâm chuyên sâu trong ngành đó thực hiện. Chẳng hạn như giám định chất lượng gạo xuất khẩu phải do trung tâm giám định nông sản và hàng hoá xuất nhập khẩu (FCC – thuộc phân viện công nghệ sau thu hoạch) thực hiện hay do Trung tâm kiểm tra và tiêu chuẩn hoá nông sản đảm nhiệm. Một thực tế khác nữa là : do chưa đánh giá được khả năng kiểm định của các đơn vị nên đã có trường hợp kết quả thử nghiệm của ácc phòng thử nghiệm còn chênh lệch nhau quá mức cho phép gây nên hiện tượng mất tin tưởng vào số liệu . Do đó các nhà xuất nhập khẩu lại thuê Vinacontrol giám định. Và cũng vì thế mà các trung tâm giám định chuyên ngành đã mất đi nguồn lợi, và cơ hội củng cố và tăng cường uy tín, danh tiếng về lĩnh vực giám định .
Hơn nữa, có một tình trạng chung là các đơn vị xuất khẩu gạo không củ động nguồn hàng, thường xuất đến đâu mua đến đó, không có chiến lược về phát triển và gắn với vùng nguyên liệu hoặc đầu tư hỗ trợ hay thông qua gía mua lúa của nông dân để tạo vùng nguyên liệu, tạo nguồn hàng ổn định . Chính vì vậy thường xảy ra trường hợp sau khi ký hợp đồng giá thu mua tăng lên như trường hợp năm 1998 các doanh nghiệp ký hợp đồng xuất ồ ạt đến lúc thu mua lúa thì giá lúa từ 1700đồng/kg lên đến 2100đồng/kg và 2200đồng/kg gây thiệt hại lớn cho nàh xuất khẩu. May mà năm 1998 lượng lúa gạo sản xuất trong nước tăng cao hơn dự tính, vì vậy lượng lúa hàng hoá cũng tăng khá lớn. Thêm vào đó nhu cầu nhập khẩu gạo trên thế giới cũng tăng lên đột ngột khiến cho các nhà xuất khẩu gạo Việt nam gặp may .
Công nghệ và chất lượng chế biện còn thấp, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường .
Việt nam chưa có các giống lúa có chất lượng cao phù hợp với thị hiếu của thị trường cao cấp. Mức độ đầu tư thâm canh liên tục nhưng mới đạt mức năng suất bình quân Châu á, thấp hơn nhiều nước trong lĩnh vực như Trung quốc , Indonesia, Hàn quốc và chỉ bằng 60-70% năng suất bình quân của thế giới.
Việt nam chưa có thị trường và bạn hàng ổn định. Chính vì vậy mà Việt nam rất khó có thể chủ động xuất khẩu gạo, chủ động chuẩn bị hàng chờ xuất khẩu nên thường gặp rủi ro nhất là bị bắt chẹt giá.
Chưa có điều kiện tín dụng thuận lợi để chuẩn bị gạo xuất khẩu (từ khâu thu mua, chế biến, bảo quản, thuê phương tiện vận tải, chi phí giao dịch...) phải mất một khoản tiền tương đối lớn. Nhiều khi nó vượt quá cả số vốn lưu động của doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi nhà xuất khẩu phải đi vay . Nhưng đi vay ngân hàng phải chịu lãi suất cao mặc dù gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực cũng không được hưởng lãi suất ưu đãi. Hơn nữa lại rất khó có thể hưởng khoản tín dụng xuất khẩu của nhà nhập khẩu. Đây là điều gây đau đầu cho các nhà xuất khẩu. Muốn chuẩn bị hàng tốt có chất lượng cao thì phải có một lượng tiền lớn. Nhưng vốn thì có hạn lại chưa có điều kiện tín dụng thuận lợi nên không thể chuẩn bị gạo chất lượng cao như yêu cầu được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gián tiếp của hiện trạng chất lượng gạo xuất khẩu Việt nam .
Công nghệ sau thu hoạch càng nhiều yếu kém, đặc biệt trong khâu chế biến nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường . Thể hiện :
- Tổn thất sau thu hoạch còn lớn do thiết bị lạc hậu, tình trạng độ công nghệ thấp. Theo số liệu khảo sát bước đầu , tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch với lúa là 13-16% . Trong khi đo thiệt hại lúa gạo ở công đoạn này ở Nhật chỉ chiếm từ 3,9-5,6% ( theo thống kê của Bộ nông lâm Nhật Bản) . Thiếu công nghệ bảo quản thích ứng với quy mô hộ nông dân, nhất là với hộ nông dân không có thiết bị bảo quản tốt nên tổn thất thậm chí vượt quá 15%. Các công ty chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển công nghệ bảo quản, chưa tái dầu tư cho cơ sở kỹ thuật .
- Tỷ trọng chế biến, giá thành chế biến cao nên làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới . Nhưng chế biến sâu ít cũng lại làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới . Nhưng chế biến sâu ít cũng lại làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường . Đây là bài toán khó đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt nam .
Công tác quản lý chất lượng nông sản phân tán và kém hiệu quả . Thiếu nhiều cơ sở kiểm tra, kiểm soát chất lượng và quy chế kiểm tra chất lượng từ sản xuất đến xuất khẩu. Cơ sở, điều kiện nghiên cứu lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch còn nghèo nàn, ít được quan tâm. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu một số thì lớn tuổi không bắt kịp yêu cầu nhiệm vụ, số cán bộ trẻ thiếu kinh nghiệm chưa có điều kiện đào tạo .
Các mặt hàng chế biến nghèo về chủng loại, chưa hấp dẫn về mẫu mã và hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn. Các sản phẩm phụ của quá trình chế biến gạo chưa được sử dụng hợp lý, gây lãng phí. Kết quả xuất khẩu gạo chưa thực sự tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước .
4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên :
Trước tình trạng chất lượng gạo xuất khẩu như hiện nay thì việc cần thiết là tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng gạo xuất khẩu của Việt nam có chất lượng không cao để có thể ra các giải pháp góp phần vào việc nâng cao chất lượng gao xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu gạo cải thiện cán cân ngoại thương của Việt nam.
4.1.Đối với giống :
Văn bản quản lý ban hành không đồng bộ, hướng dẫn không rõ ràng, phân công chồng chéo dẫn đến tình trạng làm sai, trái với quy định, các cấp quản lý thì ỷ lại vào nhau không năng động .
Cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực, chính sách..còn thiếu thốn, yếu kém không đáp ứng được yêu cầu thực thi nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, lại ít được đầu tư nên cơ sở vật chất, kỹ thuật thì ngày càng lạc hậu, nhân lực thì non kém về nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm .
Hệ thống quản lý chất lượng chưa được hình thành thống nhất từ trung ương đến địa phương. Việc xử lý vi phạm chưa thực hiện được do không có hướng dẫn cụ thể. Ngành nông nghiệp không có kinh phí cho hoạt động này. Do vậy hệ thống quản lý chất lượng chưa phát huy được vai trò là cơ quan giám sát, kiểm soát chất lượng chưa phát huy được vai trò là cơ quan giám sát, kiểm soát chất lượng của các giống đem vào sản xuất trên các ruộng .
Công tác quản lý chất lượng giống lúa hiện nay nhìn chung chưa tốt do không có cơ chế hoạt động, công tác thanh tra, kiểm tra phần lớn phải dựa vào các chi cục quản lý thị trường và chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Vì vậy, không chủ động, lại nhiều bất cập do quản lý chồng chéo. Vả lại các cơ quan này lại không phải là cơ quan chuyên trách về quản lý chất lượng giống .
Hệ thống tiêu chuẩn còn thiếu nhiều, nhất là đối với các giống lúa lai mới .
4.2. Đối với xuất khẩu gạo :
Tiêu chuẩn chất lượng :
- Hầu hết các tiêu chuẩn xây dựng và ban hành nhìn chung chưa được thị trường quan tâm. Một số tiêu chuẩn được xây dựng từ những năm 80 còn hầu hết các tiêu chuẩn được xây dựng từ đầu những năm 90 (năm 1992, 1993 ). Trên thực tế cùng với các tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống, công tác gieo trồng, chế biến, bảo quản được cải thiện nên chất lượng gạo đã được nâng lên một cách rõ rệt. Có nhiều tiêu chuẩn không còn phù hợp cần được huỷ bỏ mặt hàng gạo không đồng bộ. Cụ thể , trong khi xây dựng tiêu chuẩn gạo Việt nam về kích thước, hình dạng, tỷ lệ hạt nguyên, tấm...dựa trên các tài liệu quốc tế như Thái lan, Mỹ thì các tiêu chẩn về giống qui trình kỹ thuật trồng, chăm sóc lại hầu như không quan tâm đến. Chính vì vậy. Mặc dù sản lượng xuất khẩu gạo của nước ta rất lớn song lợi nhuận thu được không cao .
- Hệ thống quản lý (vi mô, vĩ mô ).
- Chưa có hệ thống quản lý thống nhất đồng bộ trong công tác tăng cường và nâng cao chất lượng. Thể hiện từ khâu công nhân tiến bộ kỹ thuật công nhận giống đến chất lượng sản phẩm cuối cùng . Theo ý kiến thăm dò của các chuyên gia về giống cây trồng hiện nay, việc công nhân các giống lúa mới chỉ quan tâm đến năng suất, tính chống chịu sâu bệnh, khả năng chịu hạn...Chưa đặt vấn đề công nhận và đưa ra sản xuất các giống đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ nội tiêu và xuất khẩu .
Hệ thống văn bản pháp quy chưa đồng bộ từ khâu giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ chế biến bảo quản sau thu hoạch, tiêu chuẩn sản phẩm cuối cùng...Chính vì vậy mà chất lượng gạo không cao do khâu sản xuất từ gieo giống đến bảo quản không được hướng dẫn thực thi một cách đồng bộ, đúng quy cách .
Đội ngũ làm công tác quản lý chất lượng chưa được đào tạo đầy đủ nên không hiểu rõ tầm quan trọng của chất lượng. Dẫn đến tình trạng nơi lỏng quản lý, quản lý chỉ lấy lệ. Nhỡng người có chuyên môn, tâm huyết với nghề thì ít, những người không đủ năng lực, tư cách đạo đức không tốt lại nhiều. Đặt một mặt hàng xuất khẩu chiến lược dưới sự quản lý của những con người như vậy thì làm sao có thể nhanh chóng nâng cao chất lượng được .
Cũng giống như khấu giống, Việt nam không có hệ thống thanh tra kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu nói riêng và các mặt hàng nông sản nói chung. Đây là một lỗ hổng lớn trong hệ thống quản lý chất lượng khiến cho các nhà quản lý không biết rõ được chất lượng kém là từ khâu nào và nguyên nhân là vì sao .
Các đơn vị giám định gạo xuất khẩu chủ yếu làm công tác giám định chất lượng gạo xuất khẩu theo nhu cầu của khác hàng mà không có đơn vị chuyên trách riêng về giám định chất lượng gạo. Các cơ quan này thực chất là các đơn vị dịch vụ giám định trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên. Nhiều đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ kiểm định chất lượng gạo xuất khẩu của mình nhưng không đủ điều kiện giám định chất lượng. Chính vì vậy nên các đơn vị này lại thực hiện giám định thông qua việc thuê lại các phòng thử nghiệm khác làm công tác kiểm định chất lượng để thu lợi nhuận. Tình trạng này cũng thường xảy ra với Vinacontrol cơ quan giám định lớn nhất của Việt nam hiện nay .
Lĩnh vực sau thu hoạch mới được quan tâm tới. Vì vậy, công nghệ, dụng cụ và biện pháp cho các khâu trong công đoạn này còn thô sơ, ở trình độ thấp, chưa được quan tâm đúng mức. Phần lớn gạo được thu hoạch bằng phương pháp thủ công ( bằng tay) hoặc bán thủ công. Việc làm khô thóc gạo chủ yếu nhờ phới nắng. Con người không chủ động được trong các điều kiện thời tiết và ít có biện pháp phòng trừ mối mọt , chuột bọ .
Về thiết bị và công nghệ sau thu hoạch : Những năm gần đây, thiết bị và công nghệ chế biến tuy đã được cải tiến, nâng cấp những vẫn còn lạc hậu so với các nước trên thế giới . Cũng vì vậy mà việc chế biến thóc gạo vẫn chủ yếu ở mức thủ công . Một số công ty lớn như Vinafood 2 đã đầu tư nhiều vào công nghệ chế biến như xay xát, sấy nhưng tỷ trọng chế biến còn thấp. Thiết bị công nghệ chế biến lạc hậu nhất là chế biến theo chiều sâu còn yếu .
Cơ cấu xuất khẩu gạo trong thời gian qua tuy có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng những mặt hàng gạo đã qua chế biến . Nhưng nhìn chung cho đến nay những mặt hàng gạo thành phần của Việt nam có mức độ chế biến thấp hơn nhiều so với Thái lan, Mĩ. Vì vậy nên hiệu quả xuất khẩu thấp.
Một nguyên nhân nữa là giá thành chế biến cao, trình độ công nghệ thấp nên mặt hàng gạo kém sức cạnh tranh quốc tế .
Cuối cùng là công nghệ bảo quản thô sơ, lạc hậu, chưa đủ điều kiện tài chính để áp dụng các công nghệ bảo quản hiện đại của thế giới. Nên gạo đem vào kho chờ xuất khẩu, chất lượng suy giảm đi rất nhiều so với trước khi đem vào kho bảo quản .
Nhìn chung, những năm gần đây chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam có tiến bộ rõ rệt. Đó là thành quả của những phấn đấu không mệt mỏi của người sản xuất, người xuất khẩu và cả những người quản lý chất lượng. Tuy vậy, chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn thấp nên giá xuất của Việt nam vẫn thấp hơn nhiều so với gạo Thái lan hay gạo Mĩ. Chính vì vậy yêu cầu cấp bách là phải có những giải pháp kịp thời để nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Sau đây là một số giải pháp mà theo suy nghĩ chủ quan của người viết là rất cần thiết .
CHƯƠNG III :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GẠO XUẤT KHẨU .
Trước tình trạng lượng gạo xuất khẩu của nước ta năm sau đều cao hơn năm trước như đã trình bày trên : Năm 1997 đạt 3,682 triệu tấn, năm 1998 đạt 3,73 triệu tấn, năm 1999 đạt 3,8 triệu tấn nhưng giá gạo nước ta thường thấp hơn từ 40-50USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái lan. Một trong những nguyên nhân quan trọng là chất lượng gạo xuất khẩu của ta chưa cao, chưa phù hợp với thị hiếu và thị trường của những nước nhập khẩu gạo . Điều này đã đặt ra yêu cầu với các nhà sản xuất, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo mà đặc biệt là Tổng công ty lương thực Việt nam, nơi hàng năm xuất từ 75% - 80% trong trị giá cả nước phải quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng gạo .
Mục tiêu đến năm 2000 – 2010, xuất khẩu gạo nước ta giữ mức ổn định khoảng 4 triệu tấn đạt kim ngạch 1-1,2 tỷ USD. Để đạt mục tiêu nêu trên, việc cải tiến nâng cao chất lượng gạo và vì vậy cần thiết phải đề ra mục tiêu, giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu để có thể chinh phục được các thị trường khó tính như Tây âu, Bắc mĩ, Nhật bản và nâng cao uy tín với các bạn hàng .
I.Mục tiêu chất lượng đối với mặt hàng gạo xuất khẩu :
1. Mục tiêu lâu dài đối với mặt hàng gạo xuất khẩu :
1.1. Mục tiêu lâu dài về giống :
Giống là một trong những vật tư quan trọng nhất của sản xuất nông nghiệp Để nâng cao chất lượng gạo trước hết phải nâng cao chất lượng giống lúa . Vì vậy phải đề ra các mục tiêu lâu dài cho công tác tuyển chọn giống .
Trước hết cần phải xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng giống lúa khoảng từ 10 – 12 phòng thí nghiệm để đảm bảo kiểm soát được toàn bộ giống lúa .
Đây là mục tiêu mà Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đặt ra từ những năm 1995 nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn. Để xây dựng một phòng kiểm nghiệm với đầy đủ các trang thiết bị phải tốn ít nhất 10 triệu USD. Như vậy là quá lớn đối với nền nông nghiệp của một nước đang phát triển như nước ta . Vì vậy việc kêu gọi đầu tư để hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng giống lúa là giải pháp tối ưu .
Cùng với việc xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng giống thì mục tiêu lâu dài là chúng ta phải tăng cường đào tạo cán bộ kiểm định, kiểm nghiệm cho các phòng kiểm định, kiểm nghiệm được công nhân và cho các địa phương .
Việc đào tạo cán bộ kiểm định cho các phòng kiểm định đặc biệt là cho các địa phương là rất cần thiết . Vì hiện nay chúng ta có một đội ngũ quá mỏng những cán bộ kiểm định nhất là những cán bộ có tay nghề rất ít . Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi sự quan tâm không chỉ của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn mà của tất cả các ngành các cấp .
1.2. Mục tiêu lâu dài của công tác sau thu hoạch để nâng cao chất lượng gạo :
Trước thực tế là chất lượng gạo bị ảnh hưởng rất lớn bởi công tác sau thu hoạch mà đặc biệt là chế biến và bảo quản thì mục tiêu lâu dài của công tác sau thu hoạch cùng với định hướng phát triển nông nghiệp của nước ta là : Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, thực hiện đầu tư chiều sâu, gắn quá trình đổi mới thiết bị chế biến với việc sắp xếp lại hệ thống cơ sở chế biến. Coi trọng đầu tư trang thiết bị công nghệ cho khâu sau thu hoạch, chế biến lúa gạo .
Cụ thể là :
- Đa dạng hoá các sản phẩm từ thóc, gạo phục vụ cho nội tiêu và xuất khẩu
- Nâng cao giá trị mặt hàng gạo, tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt nam cụ thể là với Thái lan.
- Giảm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng .
- Góp phần bảo quản đề nâng cao chất lượng gạo .
- Góp phần ổn định, phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân .
2. Mục tiêu trước mắt (đến năm 2005) đối với gạo xuất khẩu :
2.1 Mục tiêu đến 2005 về giống :
Củng cố 3 phòng thử nghiệm của Trung ương đặt tại 3 miền : hiện tại chúng ta có 3 phòng thử nghiệm Trung ương nhưng cơ sở hạ tầng thấp kém không đảm bảo được tốt vai trò của một cơ quan thử nghiệm Trung ương .
- Đồng thời chúng ta cũng cần công nhận thêm 2-3 phòng kiểm nghiệm cấp ngành về giống cho các địa phương có điều kiện để tạo điều kiện giống lúa mới có thể cho năng suất cao và chất lượng tốt .
- Đào tạo cán bộ kiểm nghiệm cho các Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Xây dựng mạng lưới kiểm nghiệm cho các công ty giống .
- Xây dựng các tiêu chuẩn ngành (TCN) cho các giống lúa mới còn thiếu .
- Tăng cường hợp tác nghiên cứu giống cao sản mới với các nước bạn : Asean, Nhật bản.
- Thúc đẩy xuất khẩu giống sang Lào, Campuchia.....
2.2. Mục tiêu đến năm 2005 để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu :
Nghiên cứu và áp dụng công nghệ và thiết bị thích ứng với điều kiện Việt nam nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị gạo, đa dạng hoá các sản phẩm về gạo góp phần thúc đẩy xuất khẩu .
Đào tạo, tập huấn và chuyển giao công nghệ, thiết bị cho nông dân giúp nông dân có hiểu biết và kỹ xảo để sản xuất có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu .
Mở rộng quan hệ quốc tế để tiếp thu công nghệ và thiệt bị tiên tiến .
Định hướng phát triển ngành công nghệ sau thu hoạch để mặt hàng gạo Việt nam có cơ hội hoà nhập vơí thị trường khu vực và thế giới .
Ứng dụng các thành tựu khoa học tiến tiến nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch cho người nông dân, giúp nông dân giữ được chất lượng gạo đảm bảo cho xuất khẩu, tránh bị ép giá .
* Cụ thể là :
Lúa : lúa gạo được sấy khô, xay xát, đánh bóng, phân loại tốt tăng sản lượng và giá thành xuất khẩu. Tạo được chân dự trữ chờ xuất khẩu và thuân lợi cho việc điều tiết gạo nội địa .
Bảo quản : sử dụng các thiết bị tiên tiến để bảo quản gạo trong lúc chờ xuất khẩu để tránh giảm sút về chất lượng .
3. Yêu cầu của thị trường đối với xuất khẩu gạo :
- Thông thường những lô hàng gạo không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu như gạo gãy nhiều, độ bóng không cao..thường được bán tiêu dùng trong nước.
- Không bị mốc, mọt.
- Không có các độc tố gây hại cho sức khoẻ người tiêu dùng với gạo xuất khẩu cần quan tâm các yêu cầu sau :
- Mặt hàng đẹp : cỡ hạt đồng đều, trắng, bóng, ít hạt gãy.
- Độ ẩm thấp dưới 14% đo theo phương pháp xác định trong tiêu chuẩn ISO 6673.
- Tuyệt đối không mốc, mọt .
- Không có dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng kim loại nặng trên mức giới hạn cho phép .
- Gạo phải có mùi thơm, không lẫn các mũi vị xấu như mũi đất .
- Nhìn chung thị trường thế giới thiên về mua bán gạo hạt dài, trừ thị trường gạo của Nhật có mua bán gạo hạt tròn, nhưng số lượng không lớn và rất kém về chất lượng .
Các tiêu chuẩn chính của hạt gạo xuất khẩu có giá trị cao như sau :
- Chiều dài hạt gạo : ± 7mm
- Chiều dài/ chiều rộng hạt gạo : ³3
Gạo trong, nấm bạc bụng : 0 - 1.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo :
Bên cạnh việc đề ra các mục tiêu chất lượng thì để gạo của ta có thể hoà nhập và cạnh tranh được với Thái lan thì cần phải tiến hành các giải pháp hữu hiệu. Sau đây là một số giải pháp để khắc phục .
1. Giải pháp về chính sách :
1.1.Chúng ta cần phải xây dựng đề án nâng cao chất lượng gạo trong toàn ngành trên cơ sở :
Nghiên cứu nhu cầu về thị trường và thị hiếu khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm, khả năng trao đổi và tính ổn định đối với những loại gạo có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và định hướng quy hoạch sản xuất một cách đồng bộ bao gồm các yếu tố sản xuất và thị trường trong các vùng chuyên canh xuất khẩu .
Thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế thế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả , góp phần tăng nhanh kinh ngạch xuất khẩu .
Nghiên cứu tìm ra những giống lúa có ưu thế trong lĩng vực sản xuất và xuất khẩu, trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh tìm ra những sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành thấp so với thế giới .
Xây dựng hệ thống thông tin nhằm mục đích xúc tiến thương mại. Hiện nay do thiếu những thông tin cập nhật về tình hình thị trường, giá gạo mà nhiều doanh nghiệp đã để mất hàng triệu USD. Như năm 1997 các doanh nghiệp kí hợp đồng xuất ồ ạt đã phải chịu nhiều rủi ro do giá lúa từ 1700đồng/kg lên tới 2100đồng/kg và 2200đồng/kg . Trong khi giá gạo thế giới lại xuống .
1.2. Đề xuất những định hướng kế hoạch nâng cao chất lượng thóc gạo đến năm 2005 và 2010.
Ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về các sản phẩm gạo. Coi việc áp dụng tiêu chuẩn chính thức là một yêu cầu bắt buộc đối với các nhà xuất khẩu. Tiêu chuẩn ban hành phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế .
Ban hành chế độ kiểm tra chất lượng từ cơ sở sản xuất đến cơ sở xuất nhập khẩu .
* Định hướng đến năm 2005 :
Hoàn chỉnh việc ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn vào các cơ sở. Tăng cường công tác quản lý và áp dụng hệ thống đảm bảo tiêu chuẩn theo HACCP hoặc theo ISO 9000 tuỳ thuộc vào thực tế .
Chấm dứt tình trạng sản xuất gạo không đảm bảo chất lượng .
* Định hướng đến năm 2010 :
Nâng cao chất lượng gạo Việt nam có ưu thế xuất khẩu giành được vị thế cao về chất lượng .
1.3. Xây dựng các chính sách về giống :
Chúng ta biết rằng Nghị định 07/CP ban hành 5/2/1996 của Chính phủ về ‘ quản lý giống cây trồng “ được thực thi không hiệu quả . Vì vậy nên chăng nâng Nghị định 07/CP thành pháp lệnh quản lý giống cây trồng để nâng cao hiệu quả quản lý .
Đề ra các chính sách hỗ trợ cho công tác sản xuất, kinh doanh giống như các chính sách về thuế, tạo cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ , cấp kinh phí....
1.4. Xây dựng các chính sách về công tác sau thu hoạch :
Như chúng ta đã biết công tác sau thu hoạch có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo. Do vậy việc xây dựng các chính sách để nâng cao chất lượng gạo . Do vậy việc xây dựng các chính sách để nâng cao chất lượng của công tác sau thu hoạch là vô cùng cấp bách .
Hiện nay công nghệ sau thu hoạch ở nước ta ở mức thấp. Tổn thương rất lớn . Nhà nước cần ban hành các quy trình quy phạm thuộc các lính vực của công đoạn sau thu hoạch và cần có các chính sách khuyến khích các hoạt động công nghệ sau thu hoạch về lúa gạo như chính sách thuế, bù giá, khen thưởng và xử phạt nghiêm kkhắc những sai phạm trong bảo quản , chế biến và kinh doanh lương thực. Nhà nước luôn phải giữ vai trò đảm bảo an toàn, bình ổn giá và điều hoà. Đặc biệt phải chú ý đến chính sách về kiểm tra chất lượng gạo .
Tập trung giải quyết việc nâng cao chất lượng, giá trị hàng hoá, giá trị dinh dưỡng của gạo phục vụ nội tiêu và xuất khẩu .
Có chính sách tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ để một mặt có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ giỏi, đủ thông tin và năng lực lựa chọn nhập kỹ thuật công nghệ tiến tiến chế biến sâu tạo ra các hàng gạo có chất lượng cao, giá thành hạ, có sức cạnh tranh .
ứng dụng công nghệ bảo quản chế biến có quy mô và chi phí thích hợp cho hộ nông dân nhằm giảm tỷ lệ hao hụt, tăng phẩm chất, giá trị của nguyên và đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng. Coi trọng công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và áp dụng công nghệ mới cả trước và sau thu hoạch vào sản xuất. Nhanh chóng xây dựng vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo để tạo ra khối lượng lớn và đồng nhất về chất lượng phục vụ cho công tác xuất khẩu.
2. Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ .
Để nâng cao chất lượng gạo một trong những biện pháp quan trọng là đưa ra các giải pháp để nâng cao kỹ thuật và công nghệ. Bởi như chúng ta đã biết do có trình đọ kỹ thuật và công nghệ thấp kém đã ảnh hưởng rất lớn chất lượng gạo đặc biệt là chất lương gạo xuất khẩu. Do đó chúng ta nên:
- Đầu tư vào nghiên cứu các thiết bị máy móc kỹ thuật thích ứng để làm khô lúa, nhất là làm khô lúa hè thu ở phía Nam vì nơi này thường có lũ vào dịp thu hoạch lúa hè thu. Bên cạnh việc nghiên cứu thì đối với việc nhập khẩu máy móc thiết bị cần phải tuyển chọn những maý móc thiết bị phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Sử dụng các công nghệ thiết bị tiên tiến, thích ứng với điều kiện Việt Nam để đa dạng hoá các mặt hàng gạo phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như để xuất khẩu.
- Đổi mới công nghệ và thiết bị bảo quản, chế biến để một mặt nâng cao giá trị của gạo mặt khác tạo điều kiện mở rộng diện tích trồng lúa, tăng sản lượng phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Áp dụng các biện pháp hữu hiệu ở giai đoạn trước thu hoạch như xây dựng vùng nguyên liệu tức là vùng chuyên sản xuất giống và áp dụng kỹ thuật tiên tiến để có khối lượng nguyên liệu lớn, có chất lượng cao và đồng đều, các biện pháp ở khâu sơ chế trước bảo quản để có chất lượng gạo cao, giảm đáng kể tổn thất.
Kết hợp nghiên cứu trong nước và nhập công nghệ thiết bị mới hiện đai thay thế thiết bị công nghệ cũ lạc hậu, mở rộng quy mô cho các doanh nghiệp, khu công nghiệp lớn để chế biến, bảo quản nông sản nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đặc biệt là cho xuất khẩu.
Cụ thể chúng ta cần đưa ra các giải pháp kỹ thuật, công nghệ cho các khâu sau để góp phần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu:
2.1 áp dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến cho khâu chọn giống:
Hiện nay Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đang lưu giữ một ngân hàng gen về lúa gồm trên 6000 mẫu giống lúa địa phương và trên 500 mẫu giống lúa nhập nội (Số liệu: Báo cáo của viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam)
12/1999 Ngoài ra các viện nghiên cứu khác về lúa cũng lưu giữ một số lớn mẫu giống. Những mẫu giống này là tư liệu quý phục vụ cho việc lai tạo, chọn lọc các giống mới, trong đó có những giống có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Muốn vậy chúng ta cần:
- Nhập nội ngay các giống lúa có năng suất cao, chất lượng cao của thế giới như các giống lúa của Thái Lan, Nhật Bản, ấn Độ... để thử nghiệm và bổ sung vào nguồn gen của nước ta. Những giống thích ứng được thì cho nhân nhanh đưa vào vùng lúa xuất khẩu.
- Chủ động chọ lọc giống mới từ trong nước bằng cách kết hợp chặt chẽ các phương pháp truyền thống như lai, đột biến với các công nghệ sinh học: nuôi cấy mô, nuôi cấy bao phấn, cứu phôi, dung hợp tế bào trần, chuyển gen... để tăng năng suất cho các giống cổ truyền hoặc cải thiện chất lượng giống đã có năng suất cao để đạt chất lượng xuất khẩu.
- Chọn lọc, nhân thuần một số giống đặc sản truyền thống để xuất khẩu cho các thị trường có nhu cầu về gạo thơm (ấn Độ, Pakistan có Basmati, Thái Lan có Khaodakmali, Việt Nam nên nhân rộng tám thơm...). Hiện nay các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu chọn các giống hạt gạo trắng, dài như tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặt khác để đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu đã tiến hành nghiên cứu chọn lọc các giống lúa thơm nhập nội và các giống đặc sản của địa phương. Và phương pháp đang chứng tỏ hiệu quả khá rõ trên các đồng ruộng thuộc vùng lúa xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long. ở các tỉnh phía Bắc thuộc đồng bằng sông Hồng cùng với việc nghiên cứu lai tạo chọn lọc các giống lúa gạo dài, cần coi trọng việc chọn lọc các giống đặc sản địa phương (gạo tám) và các giống Joponica hiện đang được thử nghiệm và rất có triển vọng.
2.2 Sử dụng máy móc kỹ thuật hiện đại cho khâu thu hoạch và sơ chế:
a Thu hoạch:
Tình trạng thu hoạch và gặt hái bằng phương pháp thủ công đã gây ra không ít tổn thất. Chính vì vậy cần phải thay thế phương pháp thủ công bằng các phương pháp hiện đại.
- Đưa các máy móc như gặt, máy tuốt vào sử dụng. Hiện nay do giá các máy này quá cao nên nhiều hộ nông dân không đủ tiền mua. Do vậy nên chú trọng nghiên cứu chế tạo các máy gặt loại nhỏ với giá hợp lý phục vụ cho đại đa số nông dân. Mặt khác các ruộng ở Việt Nam là các ruộng nhỏ không thích hợp với các máy lớn. Thêm vào đó, một diện tích không nhỏ lúa tại đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch bằng máy gặt chỉ hoạt động trong vụ đông xuân tức là mùa khô. Cần có máy móc thích ứng với điều kiện khí hậu và đặc điểm canh tác của Việt Nam.
b. Sấy:
Làm khô thóc gạo để đảm bảo độ ẩm cho phép cho gạo xuất khẩu là một khâu rất quan trọng cần phải được sự quan tâm đúng mức. Các phương pháp sấy thủ công, truyền thống không thể đáp ứng một cách tốt nhất các thông số về độ ẩm cho gạo xuất khẩu mà đôi khi lại làm cho gạo lây nhiễm một số mùi lạ khiến cho gạo xuất khẩu của ta có chất lượng không cao.
Với lý do đó chúng ta cần phải tập trung ưu tiên nghiên cứu thiết kế, chế tạo và phát triển các công cụ sấy hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu này cần chú ý hai loại máy sấy:
- Loại nhỏ: phục vụ hộ gia đình và cụm gia đình. Loại máy này nên tận dụng các nhiên liệu sấy có sẵn ở địa phương như rơm rạ, trấu, than, củi...
- Loại quy mô vừa và lớn: khẩn trương hoàn thiện để nhân nhanh những máy sấy thích ứng do Việt Nam chế tạo, thiết kế theo công nghệ tiên tiến. Đồng thời chú ý chọn lọc một số máy sấy lúa phù hợp với Việt Nam phục vụ cho nhu cầu sấy lúa giống và xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
Xây dựng các nhà máy sấy có quy mô lớn để có điều kiện áp dụng nhanh nhất và hiệu quả nhất các công nghệ tiên tiến của thế giới. Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực ASEAN đặc biệt là Thái Lan để hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ trong lĩnh vực sấy, làm khô.
c. Xay xát:
- Để nâng cao chất lượng và chống tổn thất lúa gạo trong công đoạn xay xát thì phải nhanh chóng tập trung cải tạo, nâng cấp các nhà máy xay xát đã có ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Nam. Đặc biệt là các máy xay xát loại công suất 15 tấn/ ca cần bổ sung dây chuyền thiết bị tách tấm, đánh bóng ẩm, phân loại theo định lượng và phẩm cấp, phục vụ cho kinh doanh xuất khẩu gạo.
- Nghiên cứu cải tiến các máy hiện có của Việt Nam sản xuất loại 400-500kg/giờ và các máy của Nhật kiểu Yanmar (có tại Quỳnh Phụ - Thái Bình) và máy NODA công suất 1 tấn/ giờ.
2.3 Đưa các công nghệ tiên tiến vào quá trình bảo quản
Bảo quản tại kho là một công đoạn không thể thiếu trong khi chờ xuất khẩu. Như chúng ta đã biết nhiều khi gạo có chất lượng tốt nhưng do bảo quản không đúng cách, công nghệ, kỹ thuật sử dụng trong quá trình bảo quản lạc hậu đã dẫn tới chất lượng gạo xuất khẩu xấu đi thậm chí không thể xuất khẩu được. Do vậy muốn nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì không thể không có những biện pháp để đưa công nghệ tiên tiến vào quá trình bảo quản.
- Giải pháp về kho:
+ Quy hoạch mạng lưới kho dự trữ quốc gia đáp ứng yêu cầu an toàn lương thựcquốc gia để tạo điều kiện tốt cho xuất khẩu.
+ Cải tạo, nâng cấp và trang bị thêm thiết bị cần thiết cho hệ thống kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh xuất khẩu hiện có đáp ứng yêu cầu các công nghệ bảo quản tiên tiến.
+ Cần thiết kế, xây dựng kho liên hợp hiện đại, cơ giới hoá có tích lượng 10000-15000 tấn đáp ứng yêu cầu công nghệ bảo quản hiện đại.
Thiết kế, chế tạo, phát triển một số mẫu kho, công cụ chứa có dung tích lượng từ 200kg đến 1000-2000kg cho khu vực nông thôn phía Bắc, từ 1000kg-10000kg cho khu vực phía Nam phục vụ việc bảo quản cất trữ của các hộ nông dân. Các chính cấp quyền phải có các biện pháp để nhanh chóng thay thế các loại cót, bồ, bao đay, bao dứa bằng các dụng cụ, phương tiện bảo quản mới để chống được các tổn thất do chuột, sâu hại, nấm mốc giúp nông dân giữ được thóc có chất lượng tốt phục vụ xuất khẩu.
+ Chọn lọc nhập thử nghiệm kho plastic bảo quản ngoài trời theo kiểu kho của israel.
- Áp dụng công nghệ bảo quản gạo xát trắng, gạo lật trong khí CO2 hoặc khí nitơ kết hợp với bảo quản mát.
- Áp dụng công nghệ bảo quản mát (ở nhiệt độ 15-16 độ C ) thóc gạo ở các kho dự trữ quốc gia hoặc kho dự trữ kinh doanh xuất khẩu.
- Áp dụng chế phẩm vi sinh vật, các loại thuốc thảo mộc diệt côn trùng không gây độc cho người và gia súc, không nhiễm bẩn môi trường để bảo quản thóc, gạo ở khu vực kho dự trữ quốc gia, kho dự trữ kinh doanh xuất khẩu nhất là kho của các hộ nông dân.
3. Giải pháp đầu tư:
Nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu tức là nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, ngoài các chính sách ưu đãi, bảo trợ của Nhà nước, cần chú trọng đến giải pháp đầu tư. Mặt khác để thực hiện tốt, có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật, công nghệ nêu trên thì cần phải có nguồn đầu tư. Trong những năm gần đây GDP tăng trưởng bình quân khoảng 7%/năm nhờ đó từ năm1991 đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy vốn tích luỹ trong nước vẫn không thể đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng vì vậy cần có vốn hỗ trợ ODA của các nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì số vốn được huy động từ những nguồn nói trên nên đầu tư vào.
3.1. Đầu tư nâng cao chất lượng giống lúa:
- Đầu tư xây dựng hệ thống phòng kiểm định, kiểm nghiệm chất lượng giống lúa thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trước mắt đầu tư vào các phòng đã được công nhận phòng thử nghiệm cấp ngành từ nay đến năm 2005. Theo dự tính của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí để nâng cấp các phòng thử nghiệm cấp ngành cũng không dưới 2 tỷ đồng.
- Đầu tư xây dựng hệ thống thông tin, tư liệu từ trunh ương đến địa phương theo hệ thống các phòng kiểm nghiệm từ nay đến năm 2005. Cũng theo dự kiến của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí sẽ vào khoảng 5 tỷ đồng.
3.2. Đầu tư vào công tác quản lý chất lượng thương phẩm thóc gạo:
- Đầu tư đổi mới công nghệ và hệ thống quản lý chất lượng cho những cơ sở sản xuất, kinh doanh thóc gạo xuất khẩu. Nâng cấp hệ thống máy sấy gạo phục vụ cho xuất khẩu.
- Ban hành các nghị định điều kiện cho các cơ quan giám định chất lượng nông sản. Xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm kiểm định chất lượng nông sản thực phẩm được công nhận cấp quốc gia và quốc tế.
- Thống nhất quản lý chỉ đạo các cơ quan giám định chất lượng nông sản. Không cho phép các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam ký kết các hợp đồng mua bán theo tiêu chuẩn tuỳ tiện, đơn giản như lâu nay vẫn thực hiện.
- Xây dựng hệ thống thông tin, tư liêu, truyền tin để đem đến cho nhà xuất khẩu Việt Nam những thông tin cập nhật nhất về thị trường gạo, thị hiếu của người tiêu dùng... phát huy vai trò của công tác xúc tiến thương mại. Thường xuyên cập nhật thông tin về chất lượng gạo từ khâu giống, vật tư nông nghiệp, chế biến sản phẩm, đến các tiến bộ khoa học công nghệ đang được áp dụng.
3.3. Đầu tư vào công tác sau thu hoạch:
- Đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị như giao thông, kho tàng, bến bãi hiện đại, gắn sản xuất với chế biến để giảm bớt chi phí và thất thoát trong vận chuyển, đảm bảo tiến độ xuất khẩu , chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Coi trọng việc mở rộng thị trường sang các nước bạn đặc biệt là các nước trong khối ASEAN, Nhật...
- Đầu tư xây dựng mới và nâng cao năng lực hệ thống kiểm tra, kiểm soát chất lượng gạo, tập trung vào các chỉ tiêu an toàn vệ sinh để thoả mãn những khách hàng khó tính như Nhật Bản.
- Nhanh chóng xây dựng các phòng kiểm tra chất lượng nông sản hiện đại đủ năng lực phân tích các chỉ tiêu về thành phần dinh dưỡng, chất phụ gia, chất kích thích, độc tố, thóc gạo chuyển gen. Có như vậy trong thời gian tới sản phẩm gạo của Việt Nam mới có chất lượng và giá trị cao, có cơ hội hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới , nhất là mới có thể cạnh tranh được với gạo của Thái Lan.
- Đầu tư nâng cấp các khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển...
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế, sử dụng hiệu quả vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiến tới xây dựng và mở rộng thị phần mặt hàng gạo, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
3.4. Một số biện pháp đầu tư khác:
- Đầu tư giống mới cho các hộ nông dân. Hướng dẫn họ các khâu các bước để cho lúa sinh trưởng tốt đem lại chất lượng cao.
- Đầu tư quy hoạch những vùng chuyên trồng lúa phục vụ cho xuất khẩu. Các vùng này phải được hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và được bao tiêu sản phẩm.
- Đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật nhất là các nhân viên kỹ thuật, cán bộ kiểm định, giám định chất lượng.
4. Giải pháp tổ chức và quản lý:
Một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng không cao là do lơi lỏng ở khâu quản lý chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng không đồng bộ, thiếu tính thống nhất. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng mặt hàng gạo, tạo lợi thế cạnh tranh cho mặt hàng xuất khẩu của mình thì một trong những biện pháp quan trong là cải thiện hệ thống quản lý chất lượng nông sản nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm gạo.
- Muốn nâng cao hiệu quả của việc tổ chức và quản lý chất lượng thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với đặc tính của mặt hàng gạo Việt Nam.
- Thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý chất lượng nông sản, chịu trách nhiệm toàn bộ về công tác quản lý chất lượng, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng hoặc xử phạt.
- Thiết lập hệ thống kiểm định chất lượng nông sản có trách nhiệm kiểm định chất lượng nông sản trên phạm vi toàn quốc.
- Tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra, khen thưởng, xử phạt trong việc sản xuất, lưu thông giống, sản phẩm nông sản chế biến...
Thành lập hệ thống quản lý chất lượng nông nghiệp ở Trung ương trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, ở địa phương trực thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hình thành hệ thống thanh tra, kiểm tra thống nhất nằm trong hệ thống quản lý chất lượng từ nay đến năm 2010. Theo ước tính ban đầu của phòng kế hoạch - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí dự kiến khoảng trên dưới 50 tỷ đồng, chưa kể đến các chi phí phát sinh.
- Hoàn chỉnh các văn bản quản lý, xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho giống lúa, cho gạo xuất khẩu còn thiếu để tránh tình trạng chắp vá, vay mượn tiêu chuẩn của các nước khác không phù hợp với điều kiện Việt Nam. Kinh phí để xây dựng các văn bản, tiêu chuẩn này cũng không phải là nhỏ, theo tính toán của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí vào khoảng 200 triệu đồng.
- Tăng cướng công tác quản lý xuất nhập khẩu giống mới phục vụ cho các vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu theo đúng nghị định 07/CP của Chính phủ đã ban hành ngày 5/2/1996.
Phải có cơ chế, chính sách khuyến khích thích đáng đối với cá nhân hoặc tập thể tạo ra giống mới, cũng như chính sách hỗ trợ nông dân sử dụng giống mới trong vùng lúa xuất khẩu.
5. Một số giải pháp khác:
Bên cạnh các giải pháp nêu trên còn một số giải pháp nữa mà chúng ta cần tham khảo để chất lượng gạo của Việt Nam ngày một nâng cao, thoả mãn nhu cầu của các thị trường nhập khẩu gạo cũng như có thể xâm nhập vào các thị trường mới.
5.1. Giải pháp về nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực:
Trong tất cả các ngành sản xuất thì nhân lực là một yếu tố không thể thiếu được đặc biệt nông nghiệp là ngành thu hút 70% lao động xã hội. Như vậy nhân lực là một yếu tố quan trọng, để cải tạo và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì cần có các giải pháp về nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực:
- Trước hết là phải đào tạo một đội ngũ cán bộ kỹ thuật làm việc tại các phòng thí nghiệm để có thể lai tạo, chọn lọc nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt để đưa vào các vùng lúa xuất khẩu.
- Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ phòng thí nghiệm kiểm định chất lượng thóc gạo
- Quy hoạch và tăng cương đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng thóc gạo.
- Tổ chức việc tập huấn, chuyển giao kỹ thuật về tiêu chuẩn chất lượng gạo đến cơ sở.
- Đào tạo quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
- Tăng cường đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành. Tổ chức đào tạo một đội ngũ cán bộ nắm vững tiêu chuẩn chất lượng gạo làm công tác thanh tra chuyên ngành, tiến hành thanh tra các cơ sở sản xuất, chế biến và xuất khẩu, đảm bảo gạo Việt Nam được chế biến và xuất khẩu theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam.
5.2 Giải pháp về hợp tác quốc tế :
Với chính sách đối ngoại "muốn là bạn với tất cả các nước", Việt Nam hết sức quý trọng thiện chí và sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, hoan nghênh các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài đến hợp tác đầu tư, kinh doanh chuyển giao công nghệ và chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay cũng như nhiều năm nữa hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp. Đặc biệt là sự hợp tác với các nước trong khu vực, nhờ những đặc điểm kinh tế, xã hội tương đồng, điều kiện thiên nhiên cũng như nhiều loại cây trồng rất gần gũi nhau, nên sự hợp tác có điều kiện thuận lợi. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, Việt Nam và Thái Lan là hai nước xuất khẩu hàng đầu thế giới đã có hợp tác với nhau về công nghệ xay xát..., thúc đẩy việc bán hàng.
Mở rộng hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, trước mắt là hợp tác với các nước trong khu vực nhằm trao đổi kinh nghiệm và học tập kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý lúa gạo.
Trên đây là một số biện pháp nếu đứng ở một góc độ nào đó sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Hy vọng trong thời gian tới, với các biện pháp giải pháp hữu hiệu, gạo Việt Nam có thể đứng ngang hàng hoặc vượt trội Thái Lan về mặt chất lượng.
KẾT LUẬN.
Những đóng góp của xuất khẩu gạo trong những năm qua vào kim ngạch xuất khẩu đã khẳng định vai trò to lớn của nó vào việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, vào việc phát triển kinh tế đất nước. Qua đó ta có thể khẳng định với thế giới rằng Việt Nam không chỉ bất khuất trong chiến đấu chống ngoại xâm mà còn kiên cường trong công cuộc xây dựng đất nước.
Để đẩy mạnh xuất khẩu thì biện pháp hữu hiệu là nâng cao chất lượng. Chính vì vậy mà Nhà nước đã đầu tư không nhỏ để nâng cao chất lượng mặt hàng gạo từ khâu giống đến khâu bảo quản. Và thực tế là chất lượng gạo xuất khẩu của ta đã được nâng cao đáng kể: gạo được xay xát, đánh bóng, sấy... Nhưng những thay đổi đó không làm cho chất lượng gạo của Việt Nam vượt trội so với Thái Lan và một số nước khác. Chất lượng gạo của ta còn kém nhiều so với các nước xuất khẩu gạo như Mĩ, Thái Lan thể hiện: gạo gãy nhiều, độ ẩm cao, độ bóng chưa đạt tiêu chuẩn... Thêm vào đó việc quản lý chất lượng lại chưa tốt, thiếu tính đồng bộ, còn nhiều kẽ hở làm cho chất lượng gạo xuất khẩu không được cải thiện nhiều.
Các giải pháp đề ra muốn thực hiện thành công phải có sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ có hiệu quả giưã các cấp, các ngành, các cơ quan hữu quan trong việc thắt chặt quản lý, nâng cao chất lượng để thực thi tốt chiến lược kinh tế, xã hội của đất nước.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ bé về việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam. Do hiểu biết còn hạn chế, nội dung đề tài có tính bao quát và là lần đầu tiên nghiên cứu sâu chuyên ngành nên nội dung trình bày và các giải pháp kiến nghị đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Với tinh thần cầu tiến tri thức em rất mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn quý báu của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ
2. Thời báo kinh tế Việt Nam
3. Dự thảo nâng cao chất lượng hàng nông sản Việt Nam
4. Tình hình nghiên cứu giống Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0043.doc