Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB)

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU DANH MỤC VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại 9 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại . . 9 1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại . 9 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại .11 1.2. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại 13 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu . .13 1.2.1.1. Tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu .13 1.2.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp .14 1.2.2. Những vấn đề cơ bản của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM . .17 1.2.2.1. Khái niệm và phân loại cho vay ngân hàng . 17 1.2.2.2. Khái niệm, phân loại và vai trò của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu 19 1.2.2.3. Các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu chủ yếu của Ngân hàng thương mại .21 1.2.3. Chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu 28 1.2.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu .28 1.2.3.2. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu 29 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu 33 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 33 1.3.2. Các nhân tố khách quan .37 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN 2.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 40 2.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 40 2.1.2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn .41 2.1.3. Tình hình hoạt dộng kinh doanh của ngân hàng . .46 2.1.3.1. Các sản phẩm và dịch vụ 46 2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn . . .49 2.2. Thực trạng về chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 53 2.2.1. Những quy định chung về cho vay tài trợ xuất nhập xuất nhập khẩu 53 2.2.2. Những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn .57 2.2.3. Thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 58 2.2.4. Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn .64 2.2.4.1. Những thành tựu đạt được .64 2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân 66 CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN 3.1. Định hướng phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn .73 3.1.1. Định hướng chung .73 3.1.2. Định hướng về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu 74 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 75 3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền . 82 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc86 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý, ngân hàng sẽ tiến hành kí hợp đồng tín dụng với khách hàng. Về thời hạn tín dụng Thời hạn tín dụng được tính từ ngày SCB cho phép đơn vị vay vốn rút vốn trực tiếp từ ngân hàng hoặc chuyển vốn vào tài khoản giao dịch của doanh nghiệp đến ngày đơn vị trả cả vốn và lãi cho ngân hàng. Căn cứ để xác định thời hạn tín dụng là : Thời hạn sử dụng vốn mà khách hàng yêu cầu. SCB sẽ đánh giá lại chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng huy động nguồn để trả nợ của khách hàng để xác định lại nhu cầu vay vốn, từ đó xác định lại thời hạn tín dụng. Chủ trương cho vay của SCB là theo chỉ đạo của Hội đồng quản trị, tùy theo tình hình ngân hàng, và điều kiện kinh tế mà thời hạn tín dụng yêu cầu có được xét duyệt hay không. Lãi suất cho vay: Theo quy định của SCB, lãi suất áp dụng cho tất cả các khoản vay nói chung và vay xuất nhập khẩu nói riêng đều được xác định theo nguyên tắc thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng, trên cơ sở có sự tham khảo lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước. Hiện nay SCB áp dụng mức lãi suất cho vay như sau: Bảng 2.8 Khoản mục Lãi suất cho vay bằn VND Lãi suất cho vay bằng USD Lãi suất cho vay bằng vàng A-Ngắn hạn Cho vay khách hàng doanh nghiệp Khách hàng cũ 1.1 %/tháng 6.8%/năm 4.2%/năm Khách hàng mới 1.15%/tháng 7.1%/năm 4.2%/năm Cho vay khách hàng cá nhân 1.2%/ tháng 7.1%/năm 4.2%/năm B- Trung và dài hạn Cho vay khách hàng doanh nghiệp Khách hàng cũ 1.15%/tháng 7.3%/năm 5%/năm Khách hàng mới 1.2%/tháng 7.6%/năm 5%/năm Cho vay khách hàng cá nhân 1.3%/tháng 7.6%/năm 5%/năm Về đảm bảo tiền vay: Các tài sản này có thể là tài sản có sẵn hoặc tài sản hình thành từ tiền vay. Việc quy định tài sản nào được làm tài sản đảm bảo ở SCB quy định rất thoáng, Hầu hết các loại tài sản bên khoản mục “Tài sản” đều có thể được sử dụng để làm tài sản đảm bảo, tuy nhiên nó phải thỏa mãn một số yêu cầu sau: Tất cả những tài sản này đều phải thuộc quyền sở hưu hợp pháp của bên đi vay hoặc tài sản của bên thứ ba. Chúng phải có khả năng chuyển nhượng, mua bán dễ dàng. Tài sản thế chấp phải có giá trị thực sự và không bị pháp luật cấm, chưa được dùng để làm tài sản đảm bảo của các khoản vay khác, trừ trường hợp có quy định khác trong hợp đồng tín dụng. Việc kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay Một nguyên tắc rất quan trọng trong tín dụng mà không một ngân hàng nào bỏ qua, đó là việc yêu cầu khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích. Sau khi giải ngân cho khách hàng, với sự phối hợp của các phòng ban, SCB giám sát khoản vay rất chặt chẽ. SCB yêu cầu khách hàng phải định kỳ xuất trình những hợp đồng kinh tế, hóa đơn xuất nhập hàng hóa, biên bản theo dõi tiến độ công trình...để đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích. Bên cạnh đó, ngân hàng còn cử nhân viên xuống cơ sở để kiểm tra hàng hóa, kho bãi, nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng để có những sử lý kịp thời khi rủi ro xảy ra. Nếu có hiện tượng sử dụng sai mục đích, SCB sẽ đơn phương chấm dứt hợp đồng tín dụng, ngừng giải ngân và có những xử lý phù hợp. 2.2.2. Những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng trong những năm qua, các nghiệp vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cũng ngày càng đa dạng và phong phú, làm tăng doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, qua đó góp phần nâng cao chất lượng loại hình cho vay này. Hiện nay, các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu mà SCB áp dụng là: Cho vay phục vụ nhập khẩu, gồm có: - Cho vay ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, hàng hoá phục vụ sản xuất. -Cho vay bằng Đồng Việt Nam để mua ngoại tệ phục vụ nhập khẩu. -Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, cho vay ký quỹ L/C. Cho vay phục vụ xuất khẩu, gồm có: - Cho vay để chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết. - Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu. - Bao thanh toán xuất khẩu. Những nghiệp vụ mà SCB cung cấp cho những nhà xuất nhập khẩu chưa thực sự đầy đủ, nhưng với vị thế là một ngân hàng non trẻ, nếu đáp ứng tốt những nghiệp vụ trên đã là một thành công lớn, tạo nền tảng cho sự phát triển sau này của ngân hàng. 2.2.3. Thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Trong những năm qua, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động ngoại thương ngày càng lớn mạnh, đóng góp ngày càng nhiều vào GDP. Do đó mà nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu cũng ngày càng tăng. Nắm bắt được xu thế đó, hướng tới hoàn thiện được hệ thống dịch vụ cung cấp cho khách hàng, SCB cũng đã đẩy mạnh cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Mở đầu cho mục tiêu đó là việc SCB mở rộng hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, tạo cơ sở cho hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. SCB đã thiết lập quan hệ Testkey với 6 ngân hàng nước ngoài và hơn 70 chi nhánh trực thuộc; thiết lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng uy tín trên thế giới, trong đó đã có quan hệ tài khoản với các ngân hàng như Wachovia NewYork, Citibank NewYork, Deutsche Bank Frankfurt, BHF Frankfurt… Những mối quan hệ này đã có nhiều mặt tích cực đến cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, thu hút khách hàng khi có nhu cầu tài trợ. Nhìn vào biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, từ 2004 đến 2007, doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu không những tăng mà tăng rất mạnh, từ tốc độ tăng trung bình hàng năm là khoảng 320%, trong đó cao nhất là năm 2005 với tốc độ xấp xỉ 411%. Doanh số cho vay của năm 2007 gấp lần lượt các năm 2006, 2005, 2004 là 3.65, 14.02, 71.64 lần. Trong vòng 4 năm, doanh số cho vay của SCB đã tăng đến hơn 70 lần đã chứng tỏ được chất lượng cho vay đang ngày càng cao, hoạt động tìm kiếm khách hàng cũng thu được thành công rất lớn. Với những ngân hàng hoạt động lâu năm, với tài sản lớn thì tốc độ tăng trưởng này có thể nói là không thể, nhưng với SCB thì những con số trên là hoàn toàn có thể hiểu được. SCB là một ngân hàng mới, với số vốn khởi điểm tương đối thấp, thêm vào đó, hoạt động ngân hàng trong giai đoạn này lại phát triển rất mạnh mẽ, do đó tốc độ tăng trưởng rất cao. Điều này có thể cho thấy hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở SCB được mở rộng qua các năm, số lượng khách hàng cũng tăng mạnh. Khi xét đến con số tuyệt đối thì giai đoạn 2006-2007 là tăng nhiều nhất. Trong giai đoạn này, doanh số của SCB đã tăng tới 523 tỷ đồng. Điều này không khó giải thích, sau một thời gian hoạt động, khi SCB đã quen với thị trường tài chính trong nước, và khẳng định được uy tín của mình với khách hàng, cũng như đẩy mạnh việc tìm kiếm khách hàng. Không những thế, trong giai đoạn này là giai đoạn Việt Nam mới tham gia WTO, ngoại thương được mở rộng, cho nên nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu lớn hơn hẳn những năm trước. Vì vậy, những kết quả trên của SCB là hoàn toàn hợp lý. Mục tiêu phát triển hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB còn được thể hiện ở sự tăng trưởng đều của loại cho vay này vào dư nợ tín dụng. Theo dõi biểu sau ta có thể thấy điều đó: Từ năm 2004-2007, dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tăng rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức hơn 2,9 lần. Trong đó dư nợ năm 2007 đạt gần 329 tỷ đồng, gấp 3,65 lần so với năm 2006, 14,47 lần so với năm 2005, và 60,85 lần so với năm 2004. Sau 4 năm, dư nợ đã tăng hơn 323 tỷ đồng, dư nợ trung bình trong giai đoạn 2006-2007 là cao nhất với con số 210,6 tỷ đồng. Dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tăng là dấu hiệu tốt cho thấy SCB đang hoạt động có hiệu quả, lượng cho vay không những ổn định mà tăng mạnh qua các năm. Tỷ trọng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong tổng dử nợ cũng tăng đều qua các năm. Độ dốc của hai biểu đồ trên là khá bằng nhau. Chứng tỏ dư nơ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu đang có xu hướng tăng mạnh và ổn định hơn những loại cho vay khác, dần thể hiện là loại hình cho vay có hiệu quả, có tiềm năng. Những số liệu trên cũng cho thấy SCB đang ngày càng quan tâm đến cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Ta thấy rằng tốc độ tăng của dư nợ và doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tăng khá đều nhau, điều này cho thấy vòng quay sẽ là khá ổn định. Vòng quay cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB giảm dần qua các năm. Tuy nhiên lượng giảm không nhiều. Vòng quay trung bình 3 năm là 3.5 vòng. Điều này cho thấy các khoản mà SCB cho vay hầu hết là cho vay ngắn hạn. Vòng quay qua các năm giảm dần chứng tỏ rằng SCB đã dần tăng cường cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên sự giảm này là không lớn, chứng tỏ SCB vẫn còn những vướng mắc nhất định trong việc triển khai những hình thức cho vay dài hạn. Tuy nhiên, điều này có thể sẽ được khắc phục trong những năm sắp tới khi xu hướng vòng quay đang có xu hướng giảm dần. Về tỷ lệ nợ quá hạn cũng giảm dần quá các năm. Cụ thể là: Như vậy có thể thấy, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở SCB giảm dần qua các năm. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm trung bình 0.38% mỗi năm. Độ giảm của tỷ lệ này qua mỗi năm là không đều nhau. Giai đoạn 2004-2005 giảm 0.61%, giai đoạn 2005-2006 giảm 0.08%, giai đoạn 2006-2007 giảm 0.44%. Tốc độ giảm trong giai đoạn 2005-2006 chững lại, có thể do trong giai đoạn này, SCB có những khó khăn, hoặc sai lầm nhất định, nhưng trong giai đoạn tiếp theo điều này đã được giải quyết, với tốc độ giảm là 0,44%. Những con số này đã chứng tỏ rằng SCB đã có những cố gắng nhất định trong việc kiểm soát và cải thiện rủi ro tín dụng, hướng tới nâng cao chất lượng cho vay và phát triển bền vững. Số lượng các hợp đồng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong những năm qua cũng liên tục tăng. Từ 2 sơ đồ trên, ta thấy rằng số lượng hợp đồng tài trợ xuất nhập khẩu của SCB tăng nhanh qua các năm. Sở dĩ năm 2004, SCB mới chỉ có 8 hợp đồng là do tại thời điểm đó SCB mới hình thành, số lượng chi nhánh ít, mặt khác, lúc này các hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB là rất ít, mới chỉ tập trung vào các hình thức cho vay truyền thống. Sang những năm sau, nhận thấy được vai trò của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, SCB đã dần mở rộng các dịch vụ tài trợ, nên số lượng hợp đồng đã tăng nhanh và năm 2007 đã là 201 hợp đồng, tăng gấp 2.18 lần so với năm 2006, 6.28 lần so với năm 2005 và 25.13 là so với 2004. Tỷ số doanh số cho vay/ Số hợp đồng cũng tăng chứng tỏ giá trị các hợp đồng trung bình theo thời gian cũng tăng. Tỷ số này ở năm 2007 là 3,584 tỷ đồng, tăng 1.67 lần so với năm 2006, 2.23 lần so với năm 2005 và 2.85 lần so với năm 2004. Trên đây là những thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB trong giai đoạn 2004-2007. SCB đã đạt được những thành tựu cũng như vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong hoạt động cho vay này. 2.2.4. Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 2.2.4.1. Những thành tựu đạt được Doanh số và dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Nhìn vào thực trạng đã trình bày ở trên, ta có thể khẳng định rằng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu đang phát triển rất mạng ở SCB, ngày càng đóng góp nhiều vào sự phát triển chung của toàn ngân hàng. Doanh số và dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tăng trưởng hằng năm tương ứng là 3,2 và 2,9 lần. Cho dù là một ngân hàng mới với xuất phát điểm thấp, nhưng việc duy trì được tốc độ tăng trưởng hàng năm cao như vậy là một sự cố gắng lớn của lãnh đạo và cán bộ công nhân viên SCB. Điều này cũng cho thấy sự quan tâm của khách hàng tới SCB ngày càng cao thể hiện uy tín và thương hiệu của SCB đang dần được khẳng định. Quy mô cho vay cũng ngày càng được mở rộng, khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn với khách hàng được nâng cao qua từng năm. Cơ cấu dư nợ Tỷ trọng đóng góp của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ của SCB có thể nói là thấp so với các ngân hàng khác, tuy nhiên tỷ trọng này cũng được nâng lên đáng kể qua các năm. Nếu như tỷ trọng này năm 2004 là 0.54% thì đến năm 2007 tỷ trọng này đã là 1.69%, tăng 3,13 lần. Điều này nói lên rằng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong tín dụng của SCB ngày càng quan trọng và cũng đồng nghĩa với việc chất lượng cho vay được nâng cao. Vòng quay cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Vòng quay cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB rất ổn định, trung bình là 3.5 vòng. Với một ngân hàng mới thì để đạt dược vòng quay tín dụng ổn định cần phải duy trì tốt sự tăng trưởng đều dặn của doanh số cho vay và dư nợ cho vay, điều này cho thấy SCB dã có sự cố gắng lớn trong những năm vừa qua. Vòng quay cho vay trung bình cũng thể hiện được cơ cấu cho vay của SCB, SCB chủ yếu là cho vay xuất nhập ngắn hạn. Định hướng của SCB là ngân hàng bán lẻ, khách hàng của ngân hàng phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động kinh doanh thương mại, do đó họ hầu hết có nhu cầu tài trợ ngắn hạn. Con số 3.5 vòng cũng đã phản ánh được điều này. Tỷ lệ nợ quá hạn Có thể nói, một trong những thành công lớn của SCB nhắm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng và tín dụng nói chung đó là kiểm soát tốt nợ quá hạn. Là một ngân hàng nhỏ, nhưng SCB không cho vay tràn lan để nhanh chóng nâng cao được tổng tài sản, mà định hướng của SCB là phát triển bền vững, do đó các khoản cho vay được thẩm định và kiểm soát rất chặt chẽ. Và đúng như slogan của ngân hàng “ SCB luôn hướng tới sự hoàn thiện vì khách hàng”, chất lượng cho vay của ngân hàng đã ngày càng hoàn thiện, tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm dần qua các năm. So với năm 2004, tỷ lệ nợ quá hạn năm 2007 chỉ là 1,52%, giảm 1,74 lần. Rủi ro tín dụng đối với các khoản vay mang tính chất thường trực, cho nên việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn cần phải có sự tham gia của các phòng ban trong ngân hàng, sau 3 năm, tỷ lệ này giảm 1,74 lần là một thành tựu lớn, củng cố được uy tín, góp phần nâng cao chất lượng cho vay và làm tăng tính bền vững trong sự phát triển của SCB nói chung. Số lượng hợp đồng tài trợ Trong cả năm 2004, số lượng hợp đồng tài trợ mà SCB ký kết chỉ vỏn vẹn 8 hợp đồng, nhưng sau một thời gian hoạt động, số lượng hợp đồng tăng dần qua các năm, đến năm 2007 con số này là 201 hợp đồng. Chỉ tiêu này đã cho thấy được những thành công của SCB trong quá trình mở rộng tài trợ xuất nhập khẩu, và tìm kiếm khách hàng. Chất lượng cho vay ngày càng tăng là nguyên nhân chính của việc thu hút khách hàng, gia tăng được số hợp đồng tài trợ. Bên cạnh đó, tỷ số doanh số cho vay/ số lượng hợp đồng ngày càng tăng đã cho thấy giá trị trung bình của các hợp đồng cũng ngày càng tăng. Điều đó chứng tỏ rằng, các hợp đồng cho vay không chỉ tăng lên về số lượng mà còn tăng lên về chất lượng. Với những cố gắng trong việc nâng cao chất lượng cho vay, SCB đã thu hút được những khách hàng lớn không những tăng được lợi nhuận mà còn làm giảm rủi ro cho ngân hàng do những khách hàng lớn thường là những doanh nghiệp có vốn lớn và uy tín cao. 2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Những hạn chế Thứ nhất, nguồn vốn tài trợ cho cho vay tài trợ xuất nhập khẩu còn thiếu thốn, chưa đủ lớn để tài trợ cho nhu cầu vay xuất nhập khẩu ngày càng cao. Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhiều trường hợp SCB đã phải vay nóng trên thị trường liên ngân hàng. Hạn chế này của SCB làm ảnh hưởng lớn tới khả năng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, nhiều khi sẽ dẫn đến rủi ro, gây tổn hại cho ngân hàng và ảnh hưởng không tốt tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Thứ hai, doanh số và dư nợ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tuy đã tăng rất nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng xét về số tuyệt đối thì doanh số và dư nợ của SCB so với khối Ngân hàng thương mại trong nước là nhỏ. Điều này đã chứng tỏ rằng thị phần cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB trên thị thường thấp. Như vậy, chất lượng cho vay của SCB tuy đã được cải thiện nhiều, nhưng vẫn chưa đủ để giành giật khách hàng với các NHTM khác, có vốn lớn và nhiều kinh nghiệm. Thứ ba, những hình thức tài trợ cho xuất nhập khẩu chưa đầy đủ. Mặc dù những hình thức tài trợ xuất nhập khẩu của SCB đưa ra cho khách hàng khá nhiều nhưng chưa đủ, và hầu hết những dịch vụ đó đều là những dịch vụ truyền thống, đơn giản, mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng, những dịch vụ mới với thu nhập cao chưa được áp dụng, làm hạn chế sự lựa chọn của khách hàng và giảm khả năng phân chia rủi ro của ngân hàng. Do đó, không những SCB không thể thỏa mãn đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng mà còn làm giảm tính an toàn trong hoạt động cho vay của mình, đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB bị kìm hãm. Thứ tư, cơ cấu của hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ tín dụng còn quá nhỏ. Thêm vào đó cơ cấu trong chính hoạt động cho vay này cũng chưa phù hợp. Mặc dù cơ cấu của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trên tổng dư nợ có xu hướng tăng qua các năm nhưng còn rất khiêm tốn so với các loại cho vay khác. Năm 2007 tỷ trọng của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu là cao nhất nhưng cũng chỉ chiếm 1.69% tổng dư nợ. Trong hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu ở SCB, hầu hết là cho vay tài trợ nhập khẩu. Hoạt động tài trợ xuất khẩu còn rất hạn chế, chủ yếu ngân hàng mới triển khai thành công được dịch vụ bao thanh toán để tài trợ xuất khẩu. Bên cạnh đó những khoản cho vay tài trợ xuất nhập khẩu này chủ yếu là ngắn hạn, những khoản cho vay trung và dài hạn rất ít. Khi không thể triển khai tốt các hình thức tài trợ xuất khẩu và trung và dài hạn, ngân hàng đã không thể thực hiện được đa dạng hóa đối tượng khách hàng, làm cho ngân hàng đã bỏ qua một số lượng khách hàng lớn, qua đó gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng cho vay của SCB. Thứ năm, Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tài trợ xuất nhập khẩu còn cao. Tuy tỷ lệ này hàng năm đã có xu thế giảm tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn khá cao. Điều này không những gây tổn thất lớn cho ngân hàng, mà còn làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường, chất lượng cho vay từ đó sẽ bị ảnh hưởng. Thứ sáu, doanh thu từ lãi còn thấp. Doanh số cho vay tài trợ xuất nhập khẩu thấp khiến cho nguồn thu từ lãi của hoạt động cho vay này chưa cao, đóng vào lợi nhuận chung vào ngân hàng thấp. Thứ bảy, các dịch vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của SCB còn rườm rà khiến cho khách hàng chưa hài lòng về chất lượng. Thời gian xét duyệt hồ sơ xin vay của khách hàng lâu, qua nhiều thủ tục nhiều khi làm chậm tiến độ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Thêm vào đó, quá trình giải ngân và thu nợ còn hạn chế về mặt hình thức khiến cho khách hàng khó chủ động được về nguồn vốn, gây ra những bất lợi nhất định cho khách hàng. Một khi chưa làm hài lòng khách hàng của mình thì chưa thể nói hoạt động cho vay của ngân hàng là có chất lượng. Có những hạn chế này do nhiều nguyên nhân, có cả chủ quan và khách quan. Việc xem xét chúng là cần thiết để đưa ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cho ngân hàng. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng Hệ thống chi nhánh và đại lý của SCB cả trong và ngoài nước hạn chế, chưa rộng khắp. Các chi nhánh của SCB trong nước còn ít, điều này đã hạn chế khách hàng đến với SCB do khoảng cách về địa lý. Ví dụ, trong năm 2006 khi mà chi nhánh Hải Phòng chưa được thành lập, cho dù SCB có nhiều ưu đãi khi khách hàng vay vốn nhằm mục đích tài trợ xuất nhập khẩu đi chăng nữa, thì một khách hàng ở Hải Phòng cũng sẽ không lên Hà Nội để vay vốn của SCB. Mặc dù trong những năm qua SCB có quan tâm đến vấn đề hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, nhưng chủ yếu SCB chỉ quan hệ bằng việc mở tài khoản tại ngân hàng đó. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế trên của SCB phải kể đến là chính sách tín dụng chưa thực sự hợp lý. Do đặc tính của SCB là ngân hàng nhỏ, nên thẩm quyền phán quyết tín dụng (là giá trị tối đa một khoản vay mà trưởng lãnh đạo đơn vị được kí quyết định cho vay mà không cần xin ý kiến cấp trên) của các trưởng phòng giao dịch, hay chi nhánh thấp, điều này làm ảnh hưởng đến thời gian xét duyệt hồ sơ của các khoản vay lớn, trì hoãn nhu cầu của khách hàng. Với những khoản lớn vượt quá quy định về thanh khoản của Ngân hàng nhà nước đề ra, SCB chưa chủ động tìm đối tác để thực hiện đồng tài trợ, từ đó làm cho các khách hàng lớn chạy sang ngân hàng khác, gây ấn tượng không tốt cho khách hàng. Tình hình huy động vốn của ngân hàng còn nhiều hạn chế đặc biệt là huy động vốn trung và dài hạn. Với thị trường ngân hàng ngày càng lớn mạnh, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt, phải nói là SCB chưa đủ uy tín để huy động vốn trung và dài hạn với số lượng lớn. Hầu hết, những khoản huy động của SCB đều là ngắn hạn, do đó, rất khó cho ngân hàng có thể tìm nguồn hỗ trợ phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trung và dài hạn. Do có nhiều hạn chế trong cơ cấu tổ chức mà sự phối hợp giữa các phòng ban của SCB chưa tốt. Sự hỗ trợ của phòng thanh toán quốc tế cho phòng tín dụng còn nhiều bất cập. Thêm vào đó còn nhiều trường hợp không chấp hành quy trình tín dụng của ngân hàng. Tất cả những điều này đều mang lại những rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng khi khách hàng cố tình không trả nợ. Bên cạnh đó, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu còn mang tính tự phát, chưa được triển khai trong toàn hệ thống. Có những đơn vị chuyên cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, nhưng ngược lại có những đơn vị dư nợ cho vay này rất thấp. Một bộ phận cán bộ nhận thức chưa đầy đủ trong việc phát triển hoạt động xuất nhập khẩu hơn thế đây là hình thức nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ do vậy lực lượng cán bộ tín dụng để triển khai vừa thiếu, vừa yếu về kinh nghiệm, nghiệp vụ và ngoại ngữ so với yêu cầu. Mặt khác, mạng lưới thanh toán quốc tế chưa thực sự phát triển tương xứng và phù hợp cũng ảnh hưởng rất nhiều, kiềm hãm sự phát triển của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Quan điểm của lãnh đạo SCB nhiều khi còn chưa năng động, chính vì vậy SCB chưa thực sự chú trọng đến công tác Marketing để tìm kiếm khách hàng mới. hầu hết những khách hàng vay xuất nhập khẩu của SCB đều là những khách hàng truyền thống, có quan hệ làm ăn lâu năm với ngân hàng, mặc dù SCB có rất nhiều ưu đãi cho khách hàng. Do nguồn nhân lực của SCB còn thiếu, cho nên cán bộ tín dụng hoạt động rất rộng, chưa có những cán bộ chuyên về cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cho nên có những bỡ ngỡ về pháp luật, thể lệ tập quán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ là điều không thể tránh khỏi. Với những tài sản thế chấp cho vay tài trợ xuất nhập khẩu hình thành từ vốn vay, đặc biệt là hàng hóa, Ngân hàng vẫn chưa thực sự nắm bắt được lô hàng một cách chắc chắn. Chủ yếu ngân hàng chỉ yêu cầu khách hàng gửi đến hóa đơn hàng hóa, hợp đồng kinh tế liên quan đến lô hàng. Tuy việc này tạo thuận lợi cho khách hàng, nhưng đồng thời cũng mang lại cho ngân hàng rủi ro khi khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích. Quá trình thu nợ và bán chéo sản phẩm chưa được thực hiện một cách hợp lý. Trong quá trình thu nợ, khi khách hàng gặp phải những rủi ro trong kinh doanh, SCB chưa thực sự tạo điều kiện giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng để cùng tháo gỡ khó khăn với khách hàng. Từ đó nhiều khi làm cho khách hàng rời bỏ ngân hàng. Quá trình bán chéo sản phẩm cũng chưa được đẩy mạnh. Vấn đề kiểm soát nội bộ chưa được quan tâm đúng mức. Từ đó, lãnh đạo ngân hàng chưa kiểm soát chặc chẽ những nảy sinh trong quá trình cho vay, không thế xử lý kịp thời những sai phạm trong quá trình cho vay, từ đó gây lên những ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cho vay của SCB. Thông tin tín dụng mà SCB thu thập mỗi lần thẩm định khách hàng chủ yếu là từ khách hàng, và của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Các nguồn thông tin từ các đối tác của khách hàng, các tổ chức tín dụng đã có quan hệ vay trả với ngân hàng, các ngành chủ quản chưa được SCB quan tâm khai thác. Từ đó, ngân hàng khó có thể đánh giá chính xác được năng lực, phẩm chất của người vay, không đảm bảo được chất lượng cho vay. Những chi nhánh và phòng giao dịch của SCB đã có một số nơi cơ sở vật chất, điều kiện làm việc chưa đáp ứng được điều kiện để cán bộ làm việc tốt. Thậm chí có nhiều cơ sở phòng tín dụng không đủ để kê bàn tiếp khách. Khách hàng thường có xu hướng tin cậy vào những ngân hàng có cơ sở vật chất tốt, do đó những hạn chế này sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến tâm lý khách hàng. Thêm nữa, trong khi một số ngân hàng nước ngoài, giờ đóng của buổi chiều là 18h thì giờ đóng của ở SCB là 16h30. Đây là một yếu tố nhỏ, nhưng cũng không kém phần quan trọng, vì thậm chí hiện nay đã có nhiều ngân hàng áp dụng dịch vụ ngân hàng 24 giờ. Nguyên nhân khách quan Hệ thống pháp lý của nước ta chưa đầy đủ, nhiều khi các luật còn chồng chéo, phủ định lẫn nhau đã gây ra những khó khăn nhất định cho các NHTM. Hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu phải chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp và ngân hàng trong nước khi có trang chấp, khiếu kiện xảy ra. Mặc dù sau khi gia nhập WTO, hàng rào thuế quan của nước ta đã giảm bớt, nhưng vẫn đang trong lộ trình, cho nên vẫn có hiện tượng một quy định ban hành chưa lâu đã thay đổi. Điều này ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, từ đó gây lên những khó khăn cho ngân hàng. Những hạn chế trong việc điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá có ảnh hưởng lớn tới cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Sự thay đổi trong tỷ giá sẽ dẫn đến những thay đổi trong lãi suất cho vay của các NHTM, những thay đổi này có thể gây lên những bất lợi cho những nhà xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Hệ thống thông tin của nước ta còn kém phát triển, các NHTM chưa có một nguồn cung cấp thông tin từ nhà nước hiệu quả, chưa có một kênh thông tin nào chuyên biệt cho hoạt động ngoại thương. Nhà nước cũng chưa có những cơ quan chuyên môn để hỗ trợ hoạt động ngoại thương, một hoạt động mới, đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu và rộng tới các tập quán thương mại quốc tế. Sự kém phát triển của những công cụ tín dụng thương mại như thương phiếu, hối phiếu đã làm cho tính thanh khoản của những chúng kém đi, thêm vào đó là sự kém phát triển của thị trường hối đoái đã gây ra những khó khăn nhất định cho NHTM. Một nguyên nhân khác rất quan trọng xuất phát từ phía người đi vay. đó là năng lực và đạo đức của họ. Nhiều khi phương án sản xuất kinh doanh của họ rất khả thi, nhưng do năng lực kém, không thể xử lý được những rủi ro xáy ra, nên họ bị mất vốn, thua lỗ, thậm chí phá sản. Hoặc do đạo đức của người vay, muốn chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng nên đã nghĩ ra cách để không hoàn trả khoản vay đó. Những điều trên nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng. Chính vì thế khâu thẩm định luôn được xem là rất quan trọng trong cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng và tín dụng nói chung. Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, như những biến động của thị trường quốc tế, thiên tai, lũ lụt…Đây là những tiền đề quan trọng để đưa ra những giải pháp cụ thể hữu hiệu nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN 3.1. Định hướng phát triển cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn 3.1.1. Định hướng chung Với những thành tựu đã có trong những năm vừa qua, SCB mong muốn có những bước phát triển hơn trong năm tiếp theo nên đã đề ra những phương hướng hoạt động chung cho toàn ngân hàng như sau: Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy động vốn và chủ động giữ vững tỷ lệ huy động giữa thị trường 1 và thị trường 2, tăng cường việc huy động nguồn vốn giá rẻ nhưng ổn định. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, triển khai các sản phẩm huy động mới nhằm duy trì khách hàng hiện hữu đồng thời thu hút khách hàng mới. Tăng trưởng tín dụng ổn định gắn liền với chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát một cách chặt chẽ. Thực hiện phục vụ khách hàng trọn gói, tăng cường bán chéo sản phẩm. Bên cạnh tăng trưởng tín dụng, SCB cũng sẽ đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối…nhằm đa dạng hóa thu nhập, phân tán rủi ro và nâng cao tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu. Bên cạnh việc tăng nguồn thu, SCB cũng sẽ chú trọng đến việc khai thác tối đa lợi ích của các tài sản không để tình trạng lãng phí, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận. Song song với những định hướng về hoạt động kinh doanh, về mặt tổ chức, SCB tiếp tục kiện toàn bộ máy và đưa bộ máy vận hành theo mô hình tổ chức mới, hoạt động có hiệu quả. Trong năm tiếp theo, SCB quyết tâm hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tập trung đầu tư và triển khai corebanking mới nhằm hỗ trợ tốt nhất hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, trung tâm dữ liệu dự phòng sẽ được xây dựng nhằm đảm bảo dự liệu của SCB được lưu giữ an toàn đúng quy định. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển mạng lưới hoạt động ra khắp các vùng miền trong cả nước với dự kiến sẽ mở thêm khoảng 30 chi nhánh và 60-70 phòng giao dịch nhằm đưa thương hiệu SCB tiếp cận với các khách hàng trên khắp mọi miền. 3.1.2. Định hướng về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Năm 2008 sẽ là một năm khó khăn cho SCB khi mà tỷ lệ làm phát năm 2007 rất cao, có nhiều hiện tượng thể hiện sự bất ổn của nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Thêm vào đó, năm 2008 sẽ chứng kiến sự góp mặt của hàng loạt những ngân hàng mới, khiến thị trường ngân hàng ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn. Để tồn tại và phát triển, SCB đã đặt ra cho mình những định hướng chung cho hoạt động tín dụng và hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng. Trong năm 2008, hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu phải đảm bảo: tiếp tục ổn định các mặt hoạt động nghiệp vụ, duy trì và mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, đảm bảo kinh doanh có lãi, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, xây dựng một ngân hàng có số lượng khách hàng ổn định, đẩy mạnh tìm kiếm những dự án có hiệu quả phúc vụ kinh doanh xuất nhập khẩu để đầu tư, có được chữ tín trên trường quốc tế, tăng uy tín trên mọi lĩnh vực, sử dụng tài sản Có một cách hiệu quả nhất, đồng thời chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh cho các năm tiếp theo, tiến tới đa dạng hoá các loại hình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Tăng cường hơn nữa việc mở rộng chi nhánh, đại lý trong nước và nước ngoài Muốn thu hút được khách hàng về phía mình, SCB cần phải đẩy mạng nghiên cứu để mở rộng thêm mang lưới chi nhánh và phòng giao dich trong nước. Bên cạnh đó, SCB cũng phải không ngừng mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính ở nhiều quốc gia khác nhau tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế, đó là tiền đề để nâng cao được chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Hoàn thiện dần chính sách tín dụng cho phù hợp SCB cần mở rộng thẩm quyền phán quyết tín dụng đối với các phòng giao dịch và chi nhánh nhằm góp phần giảm bớt thời gian thẩm định hồ sơ khách hàng. Đồng thời SCB cũng nên tích cực tìm kiếm đối tác để thực hiện các hợp đồng đồng tại trợ với những hợp đồng có giá trị lớn, đáp ứng tốt nhu cầu của các khách hàng lớn. Trong quá trình thu nợ, SCB cần nghiên cứu để đưa ra hình thức thu gốc và lãi phù hợp với khách hàng, tránh gây ra những áp lực cho khách hàng, và SCB có thể yêu cầu bắt buộc ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng để thuận lợi cho việc theo dõi và trả nợ. Nếu trong quá trình theo dõi, nếu phát hiện ra những dấu hiệu cho thấy khách hàng làm ăn thua lỗ do những rủi ro bất ngờ, ngân hàng cần có những biện pháp phòng ngừa thích hợp, đồng thời có thể cùng khách hàng giải quyết khó khăn. Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp, hoặc có thể gia hạn nợ, hay cho vay thêm nếu cảm thấy khách hàng vẫn có cơ hội vực dậy. Đây cũng là một động thái của ngân hàng cho thấy ngân hàng luôn quan tâm đến khách hàng, hết lòng vì lợi ích khách hàng, tù đó, ngân hàng sẽ giữ chân được khách hàng truyền thống, đồng thời có thể thu hút được khách hàng mới thông qua sự giới thiệu của khách hàng về ngân hàng với đối tác. Tăng cường huy động vốn để cung cấp vốn cho hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Với bất cứ một ngân hàng nào, nguồn vốn tài trợ cho hoạt động tín dụng nói chung chủ yếu là nguồn huy động từ dân cư. Nâng cao hiệu quả cho vay tài trợ xuất nhập khẩu chính là đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do đó muốn nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trước hết phải đảm bảo tốt khâu đầu vào- huy động vốn. SCB có thể tăng trưởng huy động vốn bằng một số biện pháp sau: SCB nên có những chính sách về lãi suất, đẩy mạnh khuyến mãi cho khách hàng khi gửi tiết kiệm tại ngân hàng để thu hút khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Đối với những khách hàng gửi nhiều lần ở ngân hàng, SCB nên có những phần quà, những khuyến mãi hấp dẫn hơn những khách hàng thông thường. Đặc biệt, SCB cần quan tâm hơn tới những việc huy động trung và dài hạn bằng cách có những sản phẩm tiết kiệm trung và dài hạn hấp dẫn. Ngoài ra, ngân hàng cần bố trí cho nhân viên giao dịch làm thêm vào ngày nghỉ, vì một số lượng không ít cán bộ công nhân viên chức làm giờ hành chính có nhu cầu gửi tiền vào ngày nghỉ. Một vấn đề khác để thu hút khách hàng gửi tiền là ngân hàng phải đảm bảo tốt cho khách hàng vấn đề bảo hiểm tiền gửi. Một bộ phận khách hàng, đặc biệt là những khách hàng cao tuổi rất quan tâm đến vấn đề an toàn khi gửi tiền. Nếu vấn đề này không được chú trọng, ngân hàng sẽ mất đi một số lượng khách hàng không nhỏ. Không chỉ mở rộng hình thức gửi tiết kiệm, mà SCB cần chú trọng phát triển huy động bằng chứng khoán như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi cho nhu cầu ngắn hạn, và trái phiếu cho nhu cầu dài hạn. Nếu làm tốt, đây sẽ là một kênh huy động rất hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường. Ngoài nguồn vốn huy động từ dân cư- thị trường 1, ngân hàng cũng cần có sự quan tâm thích đáng đến thị trường 2, từ những tổ chức tín dụng khác. Đó là những tổ chức tín dụng không những trong nước mà cả ở ngoài nước. Đây là nguồn cung vốn rất quan trọng khi ngân hàng cần vay nóng để đáp ứng cho nhu cầu tài trợ của mình. Cho nên, ngân hàng cần khai thác nguồn vốn này bằng cách tiếp tục mở rộng quan hệ với các ngân hàng trong nước và ngoài nước, nâng cao uy tín của mình tỏng việc vay trả cả gốc và lãi. Nghiên cứu hoàn hiện công tác tổ chức, nâng cao hoạt động của các nghiệp vụ hỗ trợ SCB cần nghiên cứu để cải thiện sự phối hợp giữa các phòng ban để thực hiện hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu có chất lượng. Đây là loại hình cho vay phức tạp, cần có sự giúp đỡ của các nghiệp vụ hỗ trợ, nếu làm tốt vấn đề này, hoạt động cho vay tài trợ xuất khẩu sẽ diễn ra thuận lợi. Song song với công việc trên, SCB cần đẩy mạnh những nghiệp vụ hỗ trợ như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ. Hai nghiệp vụ này có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Kinh doanh ngoại tệ có ảnh hưởng mạnh đến lượng vốn bằng ngoại tệ tài trợ cho khách hàng đặc biệt là những nhà nhập khẩu, còn thanh toán quốc tế nhanh chóng góp phần hạn chế những rủi ro cho khách hàng. Việc vận hành tốt hai nghiệp vụ này là điều kiện để cho vay tài trợ xuất nhập khẩu được nhanh chóng và an toàn. Ngân hàng phải xây dựng cơ chế có liên quan về quản lý, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước và vận dụng linh hoạt vào điều kiện ngân hàng. Bên cạnh đó SCB cần mở rộng quan hệ kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, ký kết các cam kết mua bán ngoại tệ, nghiên cứu thị trường để nắm bắt những thay đổi tỷ giá một cách kịp thời… Áp dụng những hình thức cho vay mới đồng thời thực hiện đa dạng hóa khách hàng Khả năng đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của khách hàng là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Như đã nói ở trên, những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu hiện nay của SCB là khá đơn điệu, chủ yếu là những hình thức tài trợ truyền thống. Những hình thức cho vay tài trợ nhà xuất khẩu tuy đã được áp dụng nhưng doanh số rất thấp. Vì vậy phương hướng lấy cho vay xuất khẩu làm trọng tâm và kết hợp giữa cho vay xuất khẩu và nhập khẩu, nhằm nâng cao chất lượng cho vay tìa trợ xuất nhập khẩu thì trong giai đoạn tới việc xem xét mở rộng các hình thức tín dụng cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết. Tuy nhiên nếu chỉ mở rộng những hình thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu thôi là chưa đủ. Điều quan trọng là phải làm sao cho khách hàng biết được ngân hàng có thể đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Chính vì vậy, song song với việc mở rộng những hình thức tài trợ, SCB cần đẩy tìm kiếm khách hàng thông qua các nghiệp vụ Marketing ngân hàng. SCB cần xây dựng cho mình một chiến lược Marketing phù hợp, bao gồm: Chính sách tìm kiếm thông tin, điều tra thị trường, nhằm tìm hiểu nhu cầu của thị trường để đưa ra những sản phẩm thích ứng. tìm hiểu về đặc điểm của khách hàng mình để có những biện pháp lôi kéo thích hợp; Chính sách giá nhằm tạo những đặc trưng riêng về dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thông qua những hình thức ưu đãi về phí suất và lãi suất; Chính sách phân phối, nhằm đưa sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất; Chính sách PR, khuyếch trương, bán chéo sản phẩm, chính sách này nhằm tạo quan hệ gần gũi giữa ngân hàng với khách hàng thông qua những buổi hội nghị khách hàng, qua đó thuyết phục khách hàng sử dụng những dịch vụ khác của ngân hàng ngoài những dịch vụ đã cung cấp. Nâng cao hiệu quả của quy trình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Để nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay, cạnh tranh với các ngân hàng khác, SCB cần phải hoàn thiện và hệ thống hóa các quy trình, quy định liên quan đến đến cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. SCB cần đưa ra những quy trình cụ thể và chặt chẽ, thực hiện thống nhất trong toàn ngân hàng, đặc biệt chú trọng đến thẩm định, quản lý khoản vay và các hình thức đảm bảo. Đồng thời phải đặt ra mục tiêu, chiến lược hàng năm cho những đơn vị trực thuộc, và có những hình thức khen thưởng, khiển trách xung quanh mục tiêu đó. Về quá trình thẩm định, Đây là một quá trình quan trọng, có tính quyết định đến chất lượng khoản cho vay. Trong giai đoạn này, ngân hàng trước hết cần thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng không chỉ chú trọng đến những thông tin mà khách hàng cung cấp, mà còn nên trực tiếp phỏng vấn khách hàng, mở rộng mạng lưới thu thập thông tin từ bên ngoài, có thể từ các tổ chức cung cấp thông tin tín dụng, hay những đối tác, ngân hàng đã có quan hệ làm ăn, vay trả với khách hàng của mình. Từ đó, có thể lập lên một cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng, để đánh giá đầy đủ về khách hàng thuận lợi cho những lần cho vay sau. Sau khi đã thu thập đầy đủ thông tin, SCB cần tập trung đưa ra những chuẩn mực cụ thể trong việc đánh giá phương án kinh doanh cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Việc quy định rõ những chỉ tiêu đánh giá khách hàng và việc làm cần thiết, thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá khách hàng. Thêm vào đó, SCB cần triển khai nhiều cán bộ tham gia vào công tác thẩm định, nâng cao sự hỗ trợ của phòng thanh toán quốc tế và kiểm soát nội bộ. Về quá trình quản lí khoản vay, Không những phải quan tâm đến công tác thẩm định, mà SCB cũng nên quan tâm đến công tác quản lý khoản vay. Sau khi giải ngân, định kỳ cán bộ tín dụng phải xuống cơ sở, kiểm tra hàng hóa, kho bãi, để chắc chắn khoản vay được sử dụng đúng mục đích và khách hàng có khả năng trả nợ. Để biện pháp này không mang tính hình thức, SCB có thể yêu cầu mỗi cán bộ tín dụng quản lý khoản vay phải có sổ nhật ký nhằm mục đích ghi lại những lần kiểm tra cơ sở khách hàng, và nếu cần thiết có thể yêu cầu có cả chữ kí của khách hàng. Nâng cao vai trò của kiểm soát nội bộ Nghiên cứu để đưa ra chính sách tín dụng là quan trọng, nhưng việc thực hiện đúng, nghiêm túc quy trình đề ra còn quan trọng hơn. Trong những năm tới, SCB cần quan tâm hơn nữa tới công việc này nhằm kiểm soát tốt tình hình cho vay, ngăn chặn kịp thời những sai phạm, hạn chế tôn thất cho ngân hàng, từ đó là cơ sở để ngày càng nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Tăng cường quản lý tài sản thế chấp cầm cố Để hạn chế tối đa những rủi ro trong hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, SCB cần xây dựng một hệ thống kho bãi để quản lý những tài sản thế chấp của khách hàng, thay vì gửi ở kho bãi của khách hàng hoặc kho bãi trung gian. Với những tài sản dễ cháy nổ, khó bảo quản, ngân hàng nên yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản đó. Mặt khác, ngân hàng cũng nên thành lập những tổ chuyên theo dõi và thanh lý tài sản đảm bảo. Điều nay sẽ giúp ngân hàng nâng cao được hiệu suất sử dụng tài sản đồng thời hạn chế rủi ro nếu nó xảy ra. Tuy nhiên, phải cân nhắc kỹ trước khi thanh lý tài sản đảm bảo, bời vì, thông thường đây là một trong những nguyên nhân để khách hàng dời bỏ ngân hàng. Đẩy mạnh đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng Con người luôn là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của tổ chức, đặc biệt là trong ngành kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu là một nghiệp vụ liên quan đến yếu tố nước ngoài, đến công nghệ cao, đến những biến động thường xuyên của thị trường cũng như những hệ thống, quy định quốc tế. Nếu muốn chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cao thì cán bộ tín dụng không những phải am hiểu về tín dụng, về hoạt động xuất nhập khẩu và nền kinh tế, họ còn phải sủ dụng thành thạo ngoại ngữ và vi tính. Để nâng cao chất lượng cán bộ, SCB cần phải: Quan tâm đến công tác tuyển chọn người tài: SCB cần thường xuyên tổ chức thi tuyển, với thái độ nghiêm túc, công khai; bên cạnh đó, SCB cũng phải thường xuyên tài trợ, cấp học bổng, tuyển chọn nhân viên ngay trong các trường đại học và cao đẳng. Làm tốt công tác này, SCB sẽ tránh được hiện tượng thừa nhân viên đại trà, thiếu nhân viên giỏi như nhiều ngân hàng đang gặp phải. Với những cán bộ đang làm việc tại ngân hàng, SCB cần phải tập trung đào tạo ngoại ngữ, vi tính có liên quan đến nghiệp vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu; những khóa học liên quan đến quy trình, quy chế mới; những khóa học nhằm trau dồi kiến thức về thẩm định dự án, phân tích tín dụng, ứng dụng Marketing vào hoạt động ngân hàng; những khóa học về những công nghệ mới, những quy định, cam kết quốc tế mới. Ngoài ra, SCB cũng nên thường xuyên tổ chức những buổi nói chuyện của các chuyên gia nước ngoài, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này với cán bộ công nhân viên ngân hàng… Nâng cao cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng SCB cần nhanh chóng nâng cao cơ sở vật chất, điều kiện làm việc tại những cơ sở còn thiếu thốn về không gian và trang thiết bị nhằm tạo điều kiện làm việc tốt nhất cũng như tạo ấn tượng tốt cho khách hàng. Một trong những công việc mà SCB cần làm ngay trong năm tới đó là nghiên cứu thay đổi phần mềm corebanking cho phù hợp, phần mềm đang sử dụng hiện nay là Smartbank đã cũ, lỗi thời, và gặp nhiều lỗi, ảnh hưởng đến quá trình làm việc của ngân hàng, gây nên những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. SCB cần nghiên cứu để từng bước bỏ chứng từ giấy trong hoạt động mà thay vào đó là hệ thống chứng từ điện tử, thực hiện nâng cấp mạng nội bộ, phát triển những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, mở rộng thêm hệ thống thẻ, rút tiền tự động, đảm bảo khách hàng gửi tiền một nơi nhưn có thể rút ở nhiều nơi… 3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Nước ta đang là phát triển nền kinh tế theo hướng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, sự tham gia điều tiết của nhà nước tuy đã giảm bớt, nhưng vẫn còn có nhiều hạn chế. Với mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, các ngân hàng nói chung và SCB nói riêng cần một mội trường kinh tế đồng nhất và ổn định. Hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh tế ngoại thương và tín dụng ngân hàng Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành có liên quan đến hoạt động ngoại thương như các cơ quan hành pháp, bộ ngoại thương, cơ quan hải quan, cơ quan thuế…để đưa ra những quy định chung, đồng bộ. Điều này không những tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương trong nước mà nó cũng là cơ sở để những nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến Việt Nam. Bên cạnh đó, các cơ quan ban hành pháp luật phải nghiên cứu thật kỹ trước khi ban hành các văn bản pháp luật, để hạn chế những khe hở, tạo điều kiện cho hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng phát triển, từ đó có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Các quy định đưa ra cần được tham khảo kỹ , nếu cần thiết sẽ có thời gian thử nghiệm, cần phải có tầm nhìn xa. Trước khi thay đổi quy định cần phải báo trước cho các doanh nghiệp liên quan, và phải có một khoảng thời gian đủ dài để các doanh nghiệp chuẩn bị cho những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những sửa đổi về các văn bản pháp luật điều chỉnh xuất nhập khẩu, những quy định về tín dụng ngân hàng cũng cần có sự đồng bộ và rõ ràng. Các văn bản mà Ngân hàng nhà nước đưa ra cần phải tham khảo các văn bản của các cơ quan khác đã ban hành, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho hoạt động của các NHTM. Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu kỹ trước khi ban hành các chính sách lãi suất và tỷ giá Do tầm quan trọng của các chính sách này đến hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu cho nên Ngân hàng nhà nước nên có những cân nhắc kỹ càng trước khi ban hành các chính sách lãi suất và tỷ giá. Việc thi hành chính sách lãi suất, tỷ giá nới lỏng hay cố định cần xem xét kỹ trên cơ sở các điều kiện kinh tế trong nước và thế giới và tác động của nó tới nền kinh tế. Hoàn thiện hệ thống thông tin trong và ngoài nước Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các NHTM, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thông tin trong và ngoài nước để đáp ứng kịp thời những nhu cầu của doanh nghiệp và ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước nên xây dựng những cơ quan tư vấn xuất nhập khẩu chuyên môn hóa, sẽ giải đáp kịp thời những thắc mắc của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước nên hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin cho các NHTM nếu có nhu cầu. Thành lập các cơ quan hỗ tợ hoạt động ngoại thương Nền kinh tế ngoại thương của nước ta nhìn chung vẫn còn non trẻ và nhiều hạn chế, để hoạt động ngoại thương diễn ra an toàn và bền vững, Nhà nước cần lập ra những cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự hỗ trợ này có thể diễn ra giảm dần, để các doanh nghiệp quen dần với môi trường quốc tế, dần dần tiến tới để các doanh nghiệp tự chủ. Với sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có tiền đề để phát triển, từ đó cũng góp phần nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu định kỳ phải công khai báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán Việc bắt buộc định kỳ công khai các bản báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán sẽ giúp các ngân hàng rất nhiều trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây có thể coi là một biện pháp để hạn chế rủi ro khách quan từ phía khách hàng. Qua biện pháp này, các ngân hàng sẽ không phải lo chuyện khách hàng cung cấp số liệu không chính xác cho mình và từ đó đánh giá được năng lực chính xác của khách hàng từ đó có những phán quyết cho vay phù hợp, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cho vay của các NHTM Đẩy mạnh sử dụng các công cụ tín dụng thương mại Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra những điều luật quy định việc sử dụng các công cụ tín dụng thương mại. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước có những cơ sở để phát hành và sử dụng các công cụ này, không chỉ trong nước mà quốc tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thực hiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế. Từ đó sẽ tạo mội trường cho việc luu hành rộng rãi các công cụ tín dụng thương mại. Khi thực hiện được, công cụ tín dụng thương mại cùng với cho vay ngân hàng sẽ kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành nguồn tài trợ rất tốt cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, qua đó nâng cao chất lượng cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM. Xây dựng nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững Nền kinh tế tăng trưởng ổn định là điều kiện cần thiết cho không chỉ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các NHTM mà tất cả các ngành nghể tham gia nền kinh tế phát triển. Để làm được điều này cần có sự phối hợp hoạt động của tất cả các cấp các ngành trong nền kinh tế. Không chỉ đặt mục tiêu tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý cũng phải thực hiên tốt các biện pháp để kiềm chế lạm phát. Đây cũng là mục tiêu lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. KẾT LUẬN Năm 2002 là năm đánh dấu sự ra đời của Ngân hàng thường mại cổ phần Sài Gòn trên cơ sở một ngân hàng cũ, hoạt động không hiệu quả. Trong hơn 5 năm hoạt động, SCB đã có những thành tựu lớn, đáng tự hào. SCB đang dần khẳng định được thương hiệu của mình, dần chiếm được thị phần trong ngành ngân hàng nước nhà, Sự quan tâm tới cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong những năm qua đã thể hiện sự nhạy bén của ngân hàng với xu hướng của thị trường. Tuy nhiên với những hạn chế của một ngân hàng mới thành lập, SCB còn gặp phải những khó khăn, hạn chế lớn trong quá trình hoạt động. Thêm vào đó, trong những tháng đầu năm 2008 này, nền kinh tế trong nước và thế giới có những diễn biến rất phức tạp. Những điều kiện trên là những thách thức lớn đối với đội ngũ cán bộ trẻ của SCB. Với những cố gắng không ngừng với mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, với những con người trẻ, năng động và rất nhiệt huyết, hy vọng chúng ta sẽ được chứng kiến những bước chuyển mạnh mẽ của SCB trong tương lai không xa. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang web của SCB: www.scb.com.vn Trang web của Ngân hàng nhà nước www.sbv.gov.vn Các trang báo điện tử về ngân hàng : Thời báo ngân hàng, tạp chí ngân hàng, thời báo kinh tế, vietnamnet, vneconomy… Các báo cáo và quy trình của SCB. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế-PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo- Nhà xuất bản thống kê 2006. Giáo trình Ngân hàng thương mại trường Đại học Kinh tế quốc dân – PGS.TS.Phan Thu Hà – Nhà xuất bản thống kê 2006. Ngân hàng thương mại – Edward W.Reed PH.D & Edward K.Gill PH.D, Biên dịch: PGS.TS. Lê Văn Tư - Nhà xuất bản thống kê 2004. Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Đại học ngoại thương, GS, TS Bùi Xuân Lưu, PGS, TS Nguyễn Hữu Khải.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc0 70.doc
Tài liệu liên quan