Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn 2006-2010

Để định hướng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này cần phải tiến hành nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành, từ khâu xây dựng cho đến khâu thực hiện, trong đó phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài. Quy hoạch cần phải được xây dựng trên cơ sở gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 cũng như Chiến lược thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Căn cứ vào các quy hoạch nói trên, các ngành, các địa phương cần xây dựng các danh mục dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vật; sản xuất nước uống đóng chai, đóng hộp từ hoa quả; chế biến, bảo quản thuỷ sản; sản xuất bột giấy, giấy bìa, ván nhân tạo trực tiếp từ nguồn nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản trong nước. - Các dự án trồng rừng, tái sinh rừng; trồng rừng lâu năm trên vùng đất hoang hoá, đồi, núi trọc. Các dự án trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả trên các vùng đất hoang. Các dự án khai hoang phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Các dự án làm muối (sản xuất, khai thác, tinh chế muối). Dự án về nuôi trồng thuỷ sản ở vùng nước chưa được khai thác. - Các dự án cung cấp dịch vụ hỗ trợ trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp và cây lâm nghiệp; hoạt động hỗ trợ chăn nuôi; hoạt động hỗ trợ lâm nghiệp; dịch vụ thuỷ sản; dịch vụ bảo vệ vật nuôi; nhân và lai tạo giống; dịch vụ bảo quản nông, lâm, thuỷ sản; dự án xây dựng kho bảo quản nông, lâm, thuỷ sản. - Các dự án cung ứng công nghệ mới về sinh học trong sản xuất cây giống, phân bón sinh học, thuốc trừ sâu sinh học, vắc xin thú y. - Những dự án đầu tư vào các ngành nghề khác như : trồng mía, trồng bông, trồng chè phục vụ công nghiệp chế biến; sản xuất giống cây trồng vật nuôi; sản xuất tơ sợi các loại; trồng cây dược liệu; thuộc, sơ chế da; đầu tư sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, thuốc phòng và chữa bệnh cho động vật và thuỷ sản; đầu tư sản xuất máy phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, máy chế biến thực phẩm; các dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản theo chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có quy mô trang trại; sản xuất vật liệu tổng hợp thay gỗ, than hoạt tính, sản xuất phân bón; các ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống. Ngoài ra, nước ta còn áp dựng mức thuế suất ưu đãi hơn cho các dự án trên (15% trong 12 năm, miễn 2 năm và giảm tiếp 50% trong 7 năm tiếp theo) nếu các dự án được thực hiện trên địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Đặc biệt đối với các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa, ở miền núi được hưởng ưu đãi cao nhất (10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm tiếp 50% trong 8 năm tiếp theo). Ưu đãi về thuế nhập khẩu Tại Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, các ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực này được quy định cụ thể như sau : - Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với các dự án nông, lâm, nghiệp thuộc danh mục khuyến khích đầu tư hoặc đầu tư vào những địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. - Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên, vật liệu nhập khẩu để thực hiện dự án sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện các dự án nông, lâm, ngư nghiệp. - Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu, bộ phận rời, phụ tùng và vật tư nhập khẩu để sản xuất nông sản cho xuất khẩu. 1.2. Các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp Trong khuôn khổ quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết xoá bỏ các yêu cầu nói trên ngay tại thời điểm gia nhập WTO. Việc xoá bỏ trợ cấp bị cấm dưới hình thức ưu đãi đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu và sử dụng hàng nội địa đang được đàm phán theo hướng duy trì một thời gian quá độ nhất định phù hợp với điều kiện của một nước đang phát triển. Theo quy định tại Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam cam kết sẽ xoá bỏ hoàn toàn yêu cầu bắt buộc phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với các dự án sản xuất mía đường, dầu thực vật, sữa, gỗ. 2. Tình hình thu hút FDI trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp 2.1. Tình hình chung Sau gần 20 năm thực hiện Luật đầu nước ngoài, FDI vào nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, và có tác động đáng kể cho sự phát triển lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Tính đến 20/12/2005, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thu hút được gần 1000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư, với tổng vốn đăng ký trên 4 tỷ USD. Trong đó, có 772 dự án còn có hiệu lực với tổng vốn đăng ký 3,73 tỷ USD, chiếm 13,04% số dự án và 7,38% vốn đầu tư đăng ký trong cả nước. Tính bình quân, toàn ngành thu hút bình quân mỗi năm khoảng 57 dự án. Thực tế, nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp trong thời gian qua không đều, cao nhất vào năm 1995, nhưng trong giai đoạn 1996 – 2000 đã giảm xuống chỉ còn bằng 50% của giai đoạn trước, và từ năm 2001 trở lại đây, vốn đầu tư nước ngoài chỉ bằng 50% của thời kỳ 1991 – 1995. Cơ cấu thu hút FDI trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, phù hợp với yếu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Từ năm 1994 đến nay, nguồn vốn FDI được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt, chế biến lâm sản, sản xuất đường mía, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy, sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong khi đó giai đoạn đầu FDI chủ yếu tập trung hướng vào lĩnh vực chế biến gỗ và các loại lâm sản. Các địa bàn là những vùng có nguyên liệu truyền thống, có điều kiện tự nhiên và khí hậu phù hợp cho việc phát triển các nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy được phần lớn các nhà đầu tư đặc biệt chú trọng và quan tâm. Đa số các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp là những dự án có quy mô nhỏ và gắn liền với nguồn nguyên liệu của địa phương (trừ một số dự án sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, dự án trồng rừng và chế biến nguyên liệu giấy, các dự án sản xuất mía đường là có quy mô lớn, hàng chục triệu USD). Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được thu hút vào Việt Nam chủ yếu dưới hai hình thức : Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, còn hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Bên cạnh đấy, phần lớn các ngành trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp không thuộc vào danh mục đầu tư có điều kiện, nên có gần 2/3 số dự án là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Phần lớn chủ đầu tư của các dự án 100% vốn nước ngoài là các nước Châu Á (Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo), ngoài ra có thêm Pháp và Mỹ. Còn trong hình thức liên doanh thì có đến gần 90% số dự án là của Pháp và các nước Châu Âu. Bên cạnh đấy, lĩnh vực nông nghiệp đã thu hút và tạo được việc làm cho gần 80 nghìn lao động trực tiếp, chưa kể đến số lượng lớn các lao động trong khu vực nông nghiệp chăn nuôi, trồng trọt để cung cấp sản phẩm cho ngành chế biến thực phẩm và thức ăn gia súc, cũng như các lao động thời vụ. 2.2. Có cấu thu hút FDI 2.2.1. Cơ cấu thu hút đầu tư theo ngành Trong những năm gần đây, cơ cấu thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Giai đoạn đầu, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và ban hành Luật đầu tư nước ngoài, khi đó phần lớn các dự án FDI đều chủ yếu tập trung vào các dự án chế biến gỗ và lâm sản. Tuy nhiên từ năm 1994 trở lại đây, nguồn vốn này được thu hút đồng đều hơn vào các lĩnh vực khác. Bảng : Cơ cấu đầu tư trong nội bộ ngành nông nghiệp Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ngành trồng trọt và chế biến nông sản Tính đến ngày 20/12/2005, lĩnh vực trồng trọt và chế biến lâm sản đã thu hút được khoảng trên 240 dự án đầu tư nước ngoài (kể cả các dự án đã hết thời hạn hoặc bị giải thể trước thời hạn), với tổng vốn đăng ký vào khoảng 1,5 tỷ USD, và vốn thực hiện trên 835 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm trên địa bàn cả nước có 14 dự án được cấp giấy phép đầu tư. Các dự án chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực trồng chè, rau, hoa quả, … Quy mô của các dự án này khá nhỏ, chỉ khoảng 3,5 triệu USD/năm. Các dự án trồng hoa quả và rau tuy có quy mô nhỏ, nhưng triển khai tốt, song tương đối phát triển và doanh thu khá ổn định (như các dự án trồng rau tại Hoà Bình, hay các dự án trồng hoa quả ở Đà Lạt). Tốc độ triển khai của các dự án trồng chè chậm và gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân chủ yếu là do yêu cầu của vùng nguyên liệu đòi hỏi phải có diện tích lớn và tập trung, điều này dẫn đến vướng mắc trong việc giải quyết vấn đề đất đai, và tranh chấp trong giải phóng mặt bằng với nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội. Mặc dù vậy, trong số các dự án trồng chè, có công ty chè Phú Bền (thành lập năm 1995), sau khi được chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (vào năm 2003) đã đi vào hoạt động tương đối tốt, sản phẩm chè sản xuất ra được xuất khẩu toàn bộ, tạo được việc làm và thu nhập cho lao động. Bên cạnh những dự án có quy mô nhỏ, trong lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản cũng có một số dự án có quy mô tương đối lớn và hoạt động khá hiệu quả, như dự án Công ty liên doanh mía đường Nghệ An TATE & LYTE với quy mô vốn đầu tư là 90 triệu USD, hay dự án Công ty TNHH Uni-President với quy mô đầu tư 198 triệu USD. Chỉ với 2 dự án này tính bình quân mỗi năm đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước trên 4 triệu USD/dự án. Một số dự án hoạt động trong lĩnh vực này hoạt động tương đối có hiệu quả, đặc biệt là các dự án đầu tư chế biến gắn liền với phát triển vùng nguyên liệu, như các dự án chế biến mía đường (ở Thanh Hoá, Phú Yên, Nghệ An, Tây Ninh, Long An), các dự án chế biến gạo, xay xát bột mỳ, khoai mỳ (ở Tây Ninh, Gia Lai, …). Các dự án này đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của ngành, và tạo thêm được việc làm cho nông dân địa phương. Các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản phân bố tương đối đồng đều trong các địa phương trên địa bàn cả nước. Đến nay đã có 47/64 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư trong lĩnh vực này, trong đó có gần 40 tỉnh đã có dự án đi vào sản xuất kinh doanh. Các nhà đầu tư trong lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản tại Việt Nam chủ yếu là các quốc gia có nền nông nghiệp tương đối phát triển (như Đài Loan, Pháp, Hoa Kỳ, …). Vốn đầu tư nước ngoài của 5 đối tác lớn nhất trong lĩnh vực này chiếm tới trên 60% tổng số vốn đăng ký của toàn ngành nông nghiệp nói chung. Bảng 1 : FDI trong lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản theo đối tác Đơn vị : Triệu USD Đối tác Vốn đăng ký Vốn thực hiện Đài Loan 299,2 164,8 British VirginIslands 170,8 95,7 Hoa Kỳ 153,0 68,6 Pháp 144,2 18,4 Singapore 104,7 63,2 Thuỵ Sỹ 82,8 79,6 Hà Lan 77,6 35,6 Hồng Kông 72,9 61,9 Hàn Quốc 57,2 16,8 Nhật Bản 56,3 39,0 Malayxia 49,6 69,3 Thái Lan 49,2 6,3 Các đối tác khác 156,2 88,3 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ngành trồng rừng và chế biến lâm sản Đây là ngành được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển do có lợi thế cả về thị trường tiêu thụ trong nước và ngoài nước, mặc dù trong thời gian qua ngành gặp nhiều khó khăn do chính sách đầu tư chưa ổn định, các địa phương lại thực hiện chủ trương đóng cửa rừng, và cho phép các doanh nghiệp trong tỉnh nhập khẩu nguyên liệu để chế biến lâm sản. Đến nay trong cả nước đã có khoảng 430 dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,34 tỷ USD. Trong đó, có khoảng trên 220 dự án còn có hiệu lực. Vốn đầu tư thực hiện đạt gần 40% tổng vốn đăng ký. Doanh thu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đạt trên 140 triệu USD, nộp ngân sách vào khoảng trên 750 nghìn USD, thu hút và tạo giải quyết được việc làm cho 2 vạn lao động. Song, nhìn chung, quy mô của các dự án trong lĩnh vực này chỉ ở mức trung bình, thậm chí là khá nhỏ (bình quân khoảng 3 triệu USD/dự án). Bảng 2 : FDI trong lĩnh vực trồng rừng và chế biến lâm sản STT Địa phương Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện Bình Dương 184 549,4 109,8 Đồng Nai 54 280,4 56,8 TP. Hồ Chí Minh 55 123,6 28,7 Các địa phương khác 127 279,3 137,5 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua bảng trên, ta nhận thấy số lượng các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này phân bố không đồng đều giữa các địa phương trong cả nước. Các dự án phần lớn tập trung ở miền Đông Nam Bộ (Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai). Một phần là do các tỉnh này có lợi thế về cơ sở hạ tầng so với các địa phương khác trong cả nước, song nguyên nhân chủ yếu là do chính sách hỗ trợ đầu tư nước ngoài ở các địa phương này khá thông thoáng, và có nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận với nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ các nước trong khu vực. Bảng 3 : Cơ cấu FDI vào lĩnh vực trồng rừng và chế biến gỗ theo đối tác STT Đối tác đầu tư Số dự án Vốn đăng ký đầu tư Vốn thực hiện Đài Loan 190 570,1 131,6 Malayxia 24 95,0 16,1 British VirginIslands 22 78,6 9,2 Hồng Kông 23 57,0 30,7 Pháp 12 56,2 29,8 Nhật Bản 30 55,3 10,7 Singapo 13 53,7 39,7 Các quốc gia còn lại 83 257,4 59,0 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đây là một lĩnh vực khá hấp dẫn, vì thế đã thu hút được các nhà đầu tư từ khắp các nước và khu vực trên thế giới (Đài Loan, Nhật Bản, Malayxia, Pháp, …). Đây là các đối tác chính đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực này, chiếm gần 90% tổng số vốn đầu tư vào ngành. - Ngành chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc Đây là ngành khá quan trọng, trước khi xáy ra dịch cúm gia cầm của các nước Châu Á (Việt Nam cũng chịu hưởng nhiều), hầu hết các dự án chăn nuôi và chế biến gia súc hoạt động tương đối có hiệu quả, mặc dù đây cũng là ngành có tính cạnh tranh lớn và độ rủi ro cao. Một số dự án đã mở rộng được phạm vi hoạt động ra quy mô toàn quốc (như dự án thức ăn gia súc Proconco, Cargill, Japfa Vina, dự án chăn nuôi lợn tại Bình Dương, dự án Công ty chăn nuôi CP Việt Nam, dự án phát triển chăn nuôi Peter Hand Việt Nam, hay Công ty TNHH thực phẩm F&N Việt Nam, …). Đến nay, sau khi khắc phục được phần lớn các hậu quả của dịch cúm gia cầm, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này đã hoạt động bình thường trở lại. Chỉ tính đến 20/12/2005, cả nước có khoảng 125 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, tổng vốn đăng ký đạt 1,12 tỷ USD. Trong đó còn khoảng trên 80 dự án còn có hiệu lực với tổng vốn đầu tư khoảng 890 triệu USD. Tính bình quân, vốn đầu tư của mỗi dự án là 11 triệu USD. Doanh thu bình quân của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này khoảng hơn 305 triệu USD/năm, và nộp vào ngân sách Nhà nước bình quân hơn 10 triệu USD/năm. Bảng 4 : Có cấu FDI trong ngành chăn nuôi theo đối tác (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị : Triệu USD STT Đối tác Vốn đăng ký Vốn thực hiện Thái Lan 381,74 179,74 Đài Loan 104,30 51,73 British VirginIslands 101,10 91,00 Singapo 52,58 32,42 Hà Lan 49,50 34,50 Trung Quốc 29,35 12,35 Hàn Quốc 28,80 7,20 Hoa Kỳ 26,10 6,54 Pháp 20,77 9,93 CHLB Đức 16,60 12,50 New Zealand 15,00 - Hồng Kông 7,30 5,76 Philiphin 6,00 1,00 Liên bang Nga 4,20 4,20 Australia 3,55 - Mauritius 2,75 2,41 Áo 2,50 - Hungary 2,25 - Nhật Bản 1,75 0,52 Malayxia 1,09 Canada 0,67 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua bảng trên, các quốc gia đầu tư nhiều vào Việt Nam trong lĩnh vực trồng trọt đều là những quốc có nền nông nghiệp là thế mạnh (như Thái Lan, Đài Loan, Hà Lan, Pháp, Trung Quốc, …). Còn lĩnh vực sản xuất và chế biến các sản phẩm chăn nuôi (thức ăn gia súc, chế biến thịt, …) thu hút các nhà đầu tư chủ yếu từ các nước và quốc gia như Singapo, hay British VirginIslands. Bảng 4 : FDI trong lĩnh vực chăn nuôi theo địa phương STT Địa phương Vốn đăng ký Vốn thực hiện Đồng Nai 412,54 90,72 Bình Dương 154,97 124,05 TP. Hồ Chí Minh 55,24 17,50 Bà Rịa – Vũng Tàu 41,00 37,40 Hà Tây 38,17 19,89 Hà Nội 30,13 13,03 Long An 26,90 7,20 Vĩnh Phúc 19,80 10,00 Tây Ninh 9,59 9,04 Các địa phương khác 69,57 25,10 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Khu vực Đông Nam Bộ có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển ngành chăn nuôi. Bên cạnh đấy, khu vực này cón là một trong những khu vực có cơ sở hạ tầng tương đối tốt trong cả nước, hơn nữa cơ chế chính sách ở các tỉnh này lại khá thông thoáng, và gần rất nhiều các thị trường tiêu thụ lớn, vì thế ta có thể thấy hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi đều chủ yếu tập trung tạo các tỉnh ở khu vực này (như Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, …). - Ngành thuỷ sản và chế biến thuỷ sản Đây là một trong những ngành được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và ưu tiên đầu tư phát triển. Trong thời gian vừa qua, ngành thuỷ sản của nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng Giá trị xuất khẩu của ngành này không ngừng tăng qua các năm. Bảng : Giá trị xuất khẩu thuỷ sản 2001 – 2005 Năm Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng (%) 2001 1.402.170 - 2002 1.760.600 25,56 2003 2.014.000 14,39 2004 2.240.000 11,22 2005 2.397.000 7,00 Nguồn : Bộ Thuỷ sản Tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, tiếp đó là cá Tra, cá Basa. Tuy nhiên trong những năm gần đây, do việc áp dụng chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm và cá da trơn của Việt Nam vào Hoa Kỳ (thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam), đã khiến cho xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Và đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho tốc độ tăng giá trị xuất khẩu Việt Nam có xu hướng chậm lại. Trong sự phát triển của ngành thuỷ sản, phải kể đến vai trò của FDI. Đến nay, trên cả nước có khoảng gần 150 dự án đầu tư trực tiếp nước vào ngành chăn nuôi và chế biến thuỷ sản. Tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 480 triệu USD. Trong đó, có 85 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 230 triệu USD và vốn thực hiện là gần 90 triệu USD. Đóng góp của các dự án FDI nuôi trồng và chế biến thuỷ sản vào ngân sách Nhà nước đạt khoảng trên 400 nghìn USD mỗi năm. Phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thuỷ sản đều là những dự án có quy mô nhỏ, trung bình khoảng 3 triệu USD/dự án, còn chưa tương xứng với tiềm năng của ngành thuỷ sản Việt Nam. Các dự án trong ngành có tỷ lệ giải thể cao. Số các dự án bị giải thể trước thời hạn chiếm trên 40% tổng số dự án đầu tư vào ngành. Tỷ lệ này so với tỷ lệ chung của cả ngàn nông nghiệp là cao hơn rất nhiều. Điều này cho thấy mức độ rủi ro và sự khó khăn khi tham gia đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực này. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho số lượng các dự án FDI vào lĩnh vực thuỷ sản trong thời gian gần đây có xu hướng giảm. Bên cạnh đấy, một nguyên nhân nữa khiến cho FDI vào ngành giảm đó là khó khăn trong việc tìm mặt bằng sản xuất và vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái do sản xuất gây ra cũng khiến các địa phương không còn mấy nhiệt tình đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực thuỷ sản. 2.2.2. Cơ cấu hình thức đầu tư Ta có thể nhận thấy nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nông – lâm – ngư nghiệp ở nước ta chủ yếu được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Trong đó, hình thức doanh nghiệp liên doanh chiếm 73% số lượng dự án. Phần lớn các nhà đầu tư ở cá nước Đài Loan, Pháp, Singapo, Hàn Quốc, Thái Lan và Hoa Kỳ thực hiện chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Còn các nhà đầu tư Malayxia, Hồng Kông lại chủ yếu lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh. 2.2.3. Cơ cấu đối tác đầu tư Trên thế giới hiện nay có khaỏng 42 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Nếu tính theo số lượng dự án, thì đứng đầu là các nhà đầu tư Đài Loan( trên 155 dự án), tiếp theo là Singapo đứng ở vị trí thứ 2 với gần 50 dự án. 2.2.4. Cơ cấu đầu tư theo địa phương Biểu 1: FDI trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp ở các địa phương Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua biểu đồ trên, phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung đều tập trung ở những vùng nguyên liệu phong phú, hoặc có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nguồn nguyên nhiên vật liệu nhằm cung cấp cho các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài (như các dự án trồn chè, rau và hoa quả tập trung nhiều Đà Lạt, các dự án mía đường tập trung chủ yếu ở Nghệ An, Thanh Hoá và một số tỉnh Đông Nam Bộ). Hiện nay, trong số các tỉnh, thành trong cả nước có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, Bình Dương là tỉnh đứng đầu với trên 105 dự án, tiếp theo đứng ở vị trí thứ hai là thành phố Hồ Chí Minh với gần 100 dự án, Đồng Nai (trên 50 dự án) và Lâm Đồng (gần 50 dự án) đứng ở các vị trí tiếp theo. Trừ một số dự án có quy mô lớn (dự án trồng rừng, dự án sản xuất đường mía, dự án chế biến thức ăn gia súc, dự án chế biến nguyên liệu giấy có quy mô hàng chục triệu USD), còn lại phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đều là những dự án có quy mô nhỏ và trung bình (thường khoàng từ 1 đến 3 triệu USD/dự án), và phân bổ gắn liền với nguồn nguyên liệu. IV. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG - LÂM – NGƯ NGHIỆP 1. Những thành tựu Xét trên phạm vi tổng thể, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, góp vai trò quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của đất nước : - Các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực này, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Theo báo cáo của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp, tổng doanh thu bình quân hàng nam đạt khoảng 320 triệu USD, và có xu hướng tăng dần trong các năm tiếp theo (năm 1999 tăng 37% so với năm 1998, năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1999, năm 2002 tăng 52% so với năm 2001). Tính từ năm 1988 đến nay, doanh thu luỹ kế của lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đạt gần 5,1 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu của lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp từ năm 2001 đến nay tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 1991 – 1995. Đặc biệt là từ năm 2001, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu khá cao (năm 2001 tăng 16% so với năm 2000, năm 2002 tăng 31% so với năm 2001). Doanh thu xuất khẩu luỹ kế của ngành tính từ năm 1988 đến nay đạt khoảng 1,6 tỷ USD. Nộp ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp tuy mới chỉ đạt mức khiêm tốn nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm (giai đoạn 1996 – 2000 tăng gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 – 1995). Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn các dự án đầu tư đều được hưởng chính sách ưu đãi vốn, và được miễn giảm thuế và tiền thuê đất trong những năm đầu. - Hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã bước đầu thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, góp phần đa dạng hoá sản phẩm, và nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu của nước ta Việc hình thành các khu công nghiệp, các khu chế xuất mới nhằm thu hút FDI vào các ngành công nghiệp nông thôn (như công nghịêp chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến nông sản, …) đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở nước ta theo hướng hiện đại. Đến nay, tính trên địa bàn cả nước có khoảng trên 100 khu công nghiệp và khu chế xuất, trong đó có 9 khu công nghiệp và khu chế xuất được xây dựng bằng vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu tập trung ở các địa phương : thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, … Một trong những tác động tích cực của việc hình thành các khu công nghiệp và khu chế xuất mới dó là đã giải quyết được phần nào việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn (kể cả lao động trực tiếp, lao động gián tiếp và lao động thời vụ), góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và cơ cấu sản phẩm ở nông thôn. Việc đem vào Việt Nam các thiết bị, công nghệ tiên tiến, cùng các giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế thông qua các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất sản xuất của ngành. Nhiều dự án đã trở thành những mô hình làm ăn kiểu mới, có hiệu quả cao, xứng đáng để nông dân và các doanh nghiệp ở Việt Nam học tập theo. Đầu tư nước ngoài cũng góp phần đáng kể cải thiện tập quán canh tác, cải thiện cơ sở hạ tầng ở các địa phương, đặc biệt là ở những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển. Bên cạnh đấy sản phẩm của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng tham gia thị trường thế giới hơn, qua đó tạo điều kiện cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường thế giới, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của ngành. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã góp phần tạo thêm việc làm mới, nâng cao thu nhập cho nhân dân các địa phương, góp phần cải thiện đời sống kinh tế xã hội của nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là ở những vùng địa phương có kinh tế - xã hội khó khăn. Đến nay các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung đã thu hút khoảng gần 78 triệu lao động trực tiếp, đó là chưa kể đến số lao động gián tiếp và thời vụ. Các dự án không chỉ giải quyết vấn đề việc làm, tạo thu nhập ổn định cho các lao động trực tiếp làm việc tại các nhà máy, mà còn cho cả hàng vạn hộ nông dân hoặc trực tiếp tham gia tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ. Theo đánh giá chung, tỷ lệ việc làm gián tiếp/việc làm trực tiếp trong lĩnh vực chế biến nông sản là cao nhất (34,5/1). Các địa phương ước các dự án đầu tư nước ngoài đã tạo được việc làm cho khoảng ¼ dân cư trên địa bàn. 2. Những mặt hạn chế Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong, song việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp trong thời gian qua vẫn còn tồn tại nhiều han chế, cần phải giải quyết : - Hiệu quả của các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, và chưa phát huy được thế mạnh của nước ta trong lĩnh vực này. Trong ngành trồng trọt và chế biến nông sản, các dự án chủ yếu tập trung đầu tư vào các lĩnh vực mà nguồn nguyên liệu là có sẵn, số lượng các dự án tạo ra các giống cây, giống con mới có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam chưa nhiều. Trong ngành trồng rừng và chế biến lâm sản, đầu tư nước ngoài trong khu vực này chưa đạt được hiệu quả cao như mong muốn, chưa đem lại được nhiều lợi ích cho nhà đầu tư, Nhà nước và người lao động. Các dự án chế biến lâm sản chủ yếu tập trung vào sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Đầu tư nước ngoài trong khu vực thuỷ sản chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của ngành. Phần lớn các dự án đầu tư cho lĩnh vực chế biến, còn số lượng dự án nuôi trồng rất ít (các dự án nuôi trồng chủ yếu do các hộ gia đình và doanh nghiệp Việt Nam thực hiện). Bên cạnh đấy, việc triển khai một số dự án đầu tư nước ngoài trong thuỷ sản đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm mô trường sinh thái ở một số vùng trong cả nước. Việc khai thác và sử dụng đất trong các dự án này cũng chưa thực sự đem lại hiệu quả và còn lãng phí. - Tỷ trọng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp còn thấp và thiếu ổn định. Biểu 2 : So sánh tỷ trọng đầu tư nước ngoài vào nông – lâm – ngư nghiệp Nguồn : Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tỷ trọng FDI của khu vực nông nghiệp nói chung so với các khu vực khác (công nghiệp, dịch vụ) tương đối thấp, chỉ khoảng 7%. Bên cạnh đấy, tỷ trọng này không ổn định qua các thời kỳ, và có xu hướng giảm. Thời kỳ 1991 – 1995 giảm xuống còn 8,3% (trong khi đó thời kỳ 1988 – 1990 là 21,6%), đến giai đoạn 1996 – 2000 chỉ còn khoảng 4,7%, và trong 5 năm 2001 – 2005 tăng lên khoảng gần 11%. Tỷ lệ các doanh nghiệp làm ăn thu thua lỗ, gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh khá lớn. Có đến gần 1/3 số các dự án vẫn đang trong thời gian chuẩn bị cơ sở hạ tầng và triển khai các thủ tục khác. Số các dự án bị giải thể trước thời hạn tương đối nhiều (30%), và cao hơn hẳn mức bình quân chung (20%), đặc biệt là các dự án cấp giấy phép kinh doanh trước năm 1990. - Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài phân bổ không đồng đều giữa các địa phương Tương tự như các dự án đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác, các tỉnh, địa phương có cơ sở hạ tầng khá phát triển, nguồn nguyên liệu phong phú, dồi dào, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nguồn nguyên liệu lại là những vùng thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc). Trong khi đấy, tỷ lệ các dự án đầu tư vào khu vực miền núi phía Bắc, vào Tây nguyên, một số tỉnh miền Trung và vùng đồng bằng sông Cửu long còn khá khiêm tốn. Hơn nữa tỷ lệ đổ vỡ của các dự án đầu tư nước ngoài ở các vùng này thường cao hơn các vùng khác. Điều này không tạo điều kiện phát triển ở những vùng mà kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, có tác động không tốt đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. - Đối tác đầu tư trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp chưa cấn đối và thiếu tính đa dạng Tính đến nay, trong cả nước có 42 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn các nhà đầu tư đều đến từ Châu Á, và có nền nông nghiệp khá phát triển. Điều này cho thấy Việt Nam chưa có khả năng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài từ các nước và khu vực phát triển mạnh (như Hoa Kỳ, Canada, các nước Châu Âu trừ Pháp…), và khả năng xúc tiến đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế. - Hình thức đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đa dạng Hiện nay, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu thế chung, nhưng chưa phong phú. Một phần nguyên nhân là do cơ sở hạ tầng của ngành nông nghiệp nói chung là còn nhiều yếu kém, chính điều này đã hạn chế phần nào các hình thức đầu tư khác. 3. Nguyên nhân chủ yếu Để đạt được những thành tựu trên đã có sự cố gắng rất lớn của Đảng và Nhà nước trong việc thực chỉ đạo và tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư. Tuy nhiên trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh những nguyên nhân chung về môi trường đầu tư (chưa có sự nhận thức thống nhất đối với đầu tư nước ngoài, công tác xây dựng quy hoạch đầu tư nước ngoài chất lượng chưa cao và thiếu tính cụ thể, kết cấu hạ tầng yếu kém, chi phí đầu tư cao, hệ thống chính sách pháp luật thiếu ổn định, hoàn thiện, thủ tục hành chính phức tạp, …), còn có những nguyên nhân khác làm số lượng các dự án đầu tư nước ngoài vào nông – lâm – ngư nghiệp có xu hướng ngày càng giảm hơn trước : - Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp nói chung và đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này là khá mạo hiểm, do có nhiều rủi ro hơn các lĩnh vực khác (vì phải chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiê : khí hậu, đất đai, khí hậu, …; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực thiếu bảo đảm) Hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu là diễn ra ở các vùng nông thôn, điều kiện tự nhiên khó khăn, thời tiết thường thay đổi; sản phẩm của ngành lại mang tính thời vụ, thường phải qua chế biến, dễ hư hỏng và dễ bị ảnh hưởng của các loại dịch bệnh. Mặt khác, lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp thường thấp, tỷ lệ tiết kiệm không cao. Mặc dù các dự án đầu tư nước ngoài được tiến hành chủ yếu ở các vùng nông thôn lân cận đô thị , nhưng nguồn nhân lực có trình độ để có thể quản lý việc triển khai dự án ở các khu vực này còn thiếu và chưa phần lớn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Để có thể nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, buộc các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải tăng thêm chi phí để đào tạo và thuê chuyên gia có trình độ. Bên cạnh đấy, cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn còn nhiều yếu kém, để có thể cải thiện và nâng cao chất lượng các công trình kết cấu kỹ thuật ở nông thôn đòi hỏi phải có thời gian dài và vốn đầu tư lớn. Chính những nguyên nhân đã khiến cho lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp ngày càng kém sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, phần nào khiến cho số lượng các dự án đầu tư vào ngành ngày càng giảm. - Nền nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là mang tính sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, chưa mang tính sản xuất hàng hoá. Kinh tế nông thôn Việt Nam Chủ yếu mang tính sản xuất nhỏ, manh mún và chưa được chuyên môn hoá. Các chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất nông nghiệp chủ yếu là các hộ gia đình, sản xuất theo phương thứ truyền thống, việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới còn khá hạn chế, đa số không được đào tạo về chuyên môn. Bên cạnh đấy, hoạt động sản xuất nông nghiệp còn mang tính thời vụ. Điều này cũng phần nào gây trở ngại cho việc thu hút FDI đầu tư vào ngành. - Hệ thống luật pháp, chính sách khuyến khích liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập, kém hiệu quả và chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nhưng nói chung các chính sách ưu đãi và hỗ trợ của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực vẫn còn tương đối chặt chẽ, dàn trải và thiếu định hướng rõ ràng nên hiệu quả thu hút FDI còn thấp. Bên cạnh đấy, cơ chế chính sách tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Do tính rủi ro của hoạt động sản xuất nông nghiệp nên phần lớn các ngân hàng vẫn rất e ngại trong việc cấp tín dụng cho các dự án này. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu trong nước chưa thực sự có hiệu quả (đối với các dự án chế biến lâm sản, các dự án dầu thực vật, …). Hiện nay, rất ít các dự án đầu tư nước ngoài sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước (do số lượng và chất lượng nguyên liệu ở Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất; việc xây dựng vùng nguyên liệu gặp nhiều khó khăn; …), mà phần lớn là nguyên liệu nhập khẩu . - Công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp còn kém hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác vận động xúc tiến vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua, nhưng nói chung là các hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế (nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn làm kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài). Các hoạt động đầu tư còn dàn trải và chưa có trọng tâm, trọng điểm. Việc nghiên cứu các đối tác nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Nói chung, tất cả các điều trên đều là những nguyên nhân chính dẫn đến việc thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ngày một giảm và kém sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, trong thời gian tới, chúng ta cần phải đưa ra được những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục được tình trạng trên và nâng cao nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này tại Việt Nam. CHƯƠNG II MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 -2010 I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ 1. Bối cảnh quốc tế Theo dự báo của các tổ chức thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới sẽ hồi phục, và có xu hướng tăng trong những năm tới, mặc dù vẫn ở mức thấp. Tuy nhiên mức độ cạnh tranh giữa các nước trong thu hút đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục hết sức gay gắt. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt Nam chỉ xếp sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thái Lan về mức độ hấp dẫn và triển vọng. Gần đây, trong báo cáo đầu tư thế giới 2004, Việt Nam được UNCTAD xếp thứ 39 trong số 140 nước theo chỉ số dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam so với quy mô của nền kinh tế, đứng thứ 5 trong khu vực châu Á (sau Brunei, Singapo, Hồng Kông và Trung Quốc), vượt xa Malayxia (thứ 75), Thái Lan (thứ 87), Philipphin (thứ 96) và Indonesia (thứ 139). Theo dự đoán của UNTACT, FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được dự đoán phục hồi trung bình. Tuy nhiên cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài của các nước Châu Á trong lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục diễn ra hết sức gay gắt. Các nước có chi phí rẻ về nguồn lao động sẽ là những nước có nhiều lợi thế trong thu hút FDI. Mặt khác do Trung Quốc gia nhập WTO, cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư theo hình thức mua bán, sáp nhập (M&A) được dự đoán sẽ thịnh hành tại các nước có nền kinh tế phát triển. Các công ty quốc tế sẽ áp dụng các chiến lược kinh doanh toàn cầu hoặc khu vực. 2. Bối cảnh trong nước Trong thời gian tới, nước ta có nhiều thuận lợi để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp : Với sự đổi mới về tư tưởng và nhận thức, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Đến nay nước ta đã ký kết 47 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ, như : Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BAT), định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản, Hiệp định khung ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ và kế hoạch thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN-Nhật Bản, ASEAN - Trung Quốc, tham gia APEC, ASEM và ASEAN với việc thực hiện các cam kết về xoá bỏ hạn chế về đầu tư và minh bạch hoá cơ chế, chính sách, pháp lý góp phần làm tăng hình ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam đối với các nước, vùng lãnh thổ trong Hiệp hội, góp phần thu hút ĐTNN. Việc thực hiện các cam kết, thỏa thuận song phương và đa phương về đầu tư sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà ĐTNN tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường Việt Nam. Đặc biệt nếu nước ta gia nhập WTO trong thời gian tới sẽ kích thích được mạnh mẽ hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đấy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra với tốc độ nhanh, nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, an ninh được bảo đảm, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện và khá an toàn, đặc biệt là nhiều chính sách mới về nông nghiệp và nông thôn được ban hành trong thời gian qua là một lợi thế lớn của Viẹt Nam so với các nước khác, có tác động tích cực đến thu hút FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 5 năm tới cũng sẽ đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Trong đó, khó khăn lớn nhất là khả năng cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta còn hạn chế so với một số nước trong khu vực; nhất là do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng còn thấp, việc cải cách thủ tục hành chính đòi hỏi phải có thêm thời gian mới có thể hoàn chỉnh. Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp khá thấp, diện tích đất nông nghiệp có thể sử dụng được cho sản xuất có hạn. Lao động trong khu vực này đang dư thừa, trình độ lao động còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu. Sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam khá thấp cả về số lượng và chất lượng. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng, nghèo đói ở khu vực nông thôn chiếm gần 80% số người nghèo đói trong cả nước. II. MỘT SỐ CHỈ TIÊU CƠ BẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT FDI TRONG NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Một số chỉ tiêu cơ bản Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010 đã được Đảng và Nhà nước ta xác định : “duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, vượt ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, thu nhập thấp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đối với lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 150/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của cả nước. Bảng 5 : Các chỉ tiêu phát triển nông, lâm, ngư nghiệp đến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị Tốc độ tăng trưởng giá trị nông, lâm, thuỷ sản Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ Tỷ lệ che phủ rừng Kim ngạch xuất khẩu Thu nhập bình quân đầu người Để có thể thực hiện được những mục tiêu nói trên, đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn. Xuất phát từ đó, tại Kế hoạch nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 đã xác định kế hoạch huy động vốn đầu tư cho phát triển toàn ngành như sau : Chỉ tiêu Giá trị (tỷ đồng) Tỷ trọng Vốn ngân sách Nhà nước 37,65 26,0% Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước 2,9 2,0% Vốn ODA 13,03 9,0% Vốn của các doanh nghiệp và KTTT 49,23 34,0% Vốn đầu tư nước ngoài 26,06 18,0% Tổng cộng 144.790 11,0% 2. Định hướng đầu tư - Việc thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian tới cần hướng vào việc phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con mới có năng suất, chất lượng có thể đáp ứng được yêu cầu trong nước và trên thị trường thế giới. Đặc biệt cần hướng vào sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (cà phê, cao su, chè, rau quả và chăn nuôi). - Đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm và tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, ngày càng phát triển, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. - Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho nông, lâm nghiệp như các công trình thuỷ lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông, … III. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Quan điểm Chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này cần dựa trên những quan điểm sau : - Phải phù hợp với quy hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, quy hoạch vùng nguyên liệu. - Sử dụng nguyên vật liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân. - Kết hợp với các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành. - Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo hướng : Tạo ra nhiều giá trị kinh tế cho xã hội nói chung; Đáp ứng cao nhất lợi ích riêng cho người sử dụng; Không làm suy thoái, cạn kiệt các chất dinh dưỡng cần thiết đã có trong đất, đồng thời phải có biện pháp làn tăng độ phì nhiêu của đất. - Có tính khả thi cao, nhất là về địa điềm thực hiện, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên liệu, … Việc quy hoạch và phát triển các vùng nguyên liệu phải gắn liền với việc xây dựng các cơ sở sản xuất có quy mô lớn và công nghệ cao, đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích nông dân và cấc thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp đạt hiệu quả, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Phát triển y tế, giáo dục, văn hoá, tổ chức các dịch vụ công cộng như : khuyến nông, khuyến lâm, bảo vệ thực vật, thú y, thuỷ nông với sự tham gia của nhân dân. - Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, gồm các công trình thuỷ lợi đầu mối, kênh trục đường chính, đường giao thông đến xã, đường dây điện đến trạm hạ thế, các công trình cung cấp nước sinh hoạt, … - Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, các công trình phòng chống thiên tai bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. - Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, quản lý chất lượng hàng hoá, bảo trợ xã hội, xoá đói giảm nghèo. 2. Giải pháp thu hút FDI trong nông, lâm, ngư nghiệp Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước trong thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, và để thực hiện những mục tiêu đề ra, cần có những giải pháp đồng bộ về môi trường, hoàn thiện hệ thống luật, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, … 2.1. Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành Để định hướng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này cần phải tiến hành nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch phát triển ngành, từ khâu xây dựng cho đến khâu thực hiện, trong đó phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài. Quy hoạch cần phải được xây dựng trên cơ sở gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 cũng như Chiến lược thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Căn cứ vào các quy hoạch nói trên, các ngành, các địa phương cần xây dựng các danh mục dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư. 2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp Bên cạnh những giải pháp tổng thể về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp cần xây dựng hệ thống các cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này theo những hướng sau : - Ban hành các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp Sản xuất nông nghiệp là một hoạt động nhiều rủi ro, vì thế đây là một lĩnh vực kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó cần tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước thay vì nhập khẩu, áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cao đối với các nguyên liệu thô phục vụ chế biến một số sản phẩm nhạy cảm (đường, sữa bột). Tiếp tục áp dụng mức thuế thu nhập ưu đãi đối với các dự án đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ mới để sản xuất các loại giống mới. Ngoài ra Nhà nước nên ban hành những chính sách bảo trợ cho nông dân và các doanh nghiệp như bảo trợ xã hội. bảo trợ thiên tai, … - Ngoài ra, cần có tăng cường các chính sách như : Chính sách phát triển thị trường vốn và tín dụng đầu tư, Chính sách thương mại và thị trường, Chính sách về đất đai trong nông nghiệp, Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu, Chính sách phát triển hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, Chính sách phát triển nguồn nhân lực. 2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài Sau khi tạo được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng, hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, vấn đề có then chốt là phải nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài. Cần phải hoàn chỉnh hệ thống các văn bản có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Xây dựng một quy chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung. Bên cạnh đấy, cần phải triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính và kiên quyết giảm các thủ tục hành chính không cần thiết để thu hút thêm được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. 2.4. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư Cần có các chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Bên cạnh đó việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới cho phép mở rộng các kênh thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đấy, cần đẩy nhanh quá trình thực hiện chủ trương thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Cần sớm ban hành danh mục các lĩnh vực cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam. 2.5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động xúc tiến đầu tư Để thực hiện được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghệp nói chung, công tác vận động xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới theo những hướng cơ bản sau : - Cần phải nhận thức rõ ràng rằng việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhằm triển khai có hiệu quả các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư sẽ là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, và nâng cao sự hiểu biết của các nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam. - Bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này. - Cần xem xét việc lập Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp kết hợp với huy động các nguồn vốn của các tổ chức, doanh nghiệp. - Cần đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền đầu tư nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nói riêng nhằm tạo sức hấp dẫn ban đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. - Cần triển khai nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của các nước và các vùng lãnh thổ cũng như của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào lĩnh vực này để có cơ chế, chính sách vận động thích hợp. - Cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vận động đầu tư cụ thể trong nước và ngoài nước, tập trung vào các ngành, các đối tác đầu tư cần thu hút đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN Sau gần 20 năm thực hiện Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, FDI đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Thực trạng phát triển của Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy nhu cầu về vốn rất lớn, đặc biệt là nguồn vốn FDI. FDI không chỉ bổ sung thêm nguồn vốn quan trọng cho quá trình phát triển, mà còn góp phần chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ cho người lao động, nhất là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. So víi nhiÒu n­íc trong khu vùc vµ trªn thÕ giíi, sè vèn ®Çu t­ trùc tiÕp n­íc ngoµi mµ ViÖt Nam thu hót ®­îc tuy cßn khiªm tèn nh­ng víi mét n­íc ®i sau cã tr×nh ®é ph¸t triÓn thÊp h¬n, l¹i tiÕp cËn víi thÞ tr­êng kinh tÕ - tµi chÝnh thÕ giíi ch­a l©u, ®· tõng bÞ bao v©y cÊm vËn th× sè l­îng FDI cã ®­îc lµ thµnh tÝch ®Çy khÝch lÖ. §iÒu quan träng h¬n lµ sè vèn ®ã ®Æt vµo ViÖt Nam ®óng thêi ®iÓm xuÊt ph¸t cña qu¸ tr×nh ®æi míi, më cöa. Trên cơ sở phân tích thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua, và nhận thấy những hạn chế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần phải tiến hành áp dụng những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, và tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28252.doc
Tài liệu liên quan