Tác giả 1
MỞ ĐẦU 2
1. Lý do lựa chọn đề tài 2
NỘI DUNG CHÍNH 4
I. TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT 4
- Từ hiện tại nhìn về quá khứ và hướng đến tương lai; 4
- Dịch chuyển tinh tế, linh hoạt giữa các ngôi kể, chẳng hạn: 4
1. Từ hiện tại tới quá khứ và tương lai: 4
2. Dịch chuyển tinh tế điểm nhìn trần thuật: 5
3. Tiểu kết: 9
II. TỔ CHỨC KẾT CẤU TÁC PHẨM 11
1. Kết cấu theo thời gian: 11
2. Kết cấu tâm lý: 14
3. Tiểu kết: 19
III. MÔ TẢ, PHÂN TÍCH TÂM LÝ NHÂN VẬT 19
1. Nội tâm qua vài nét ngoại hình tiêu biểu: 20
2. Kỹ thuật độc thoại nội tâm: 21
3. Khắc họa xung đột tâm lý: 25
4. Tiểu kết: 30
KẾT LUẬN 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
. Lý do lựa chọn đề tài: 35
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: 35
4. Phương pháp nghiên cứu: 35
5. Bố cục Báo cáo: 35
6. Quy cách trình bày: 36
NỘI DUNG CHÍNH 36
I. TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT 36
1. Từ hiện tại tới quá khứ và tương lai: 36
2. Dịch chuyển tinh tế điểm nhìn trần thuật: 36
2.1. Tổ chức các ngôi trần thuật: 36
2.2. Thủ pháp “Tấm gương”: 36
3. Tiểu kết: 36
II. TỔ CHỨC KẾT CẤU TÁC PHẨM 36
1. Kết cấu theo thời gian: 36
1.1. Bố cục: 36
1.2. Thời gian nghệ thuật: 36
2. Kết cấu tâm lý: 36
2.2. Kết cấu có tính chất luận đề: 36
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một vài phương diện về kỹ thuật tự sự trong tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các sự kiện xoay quanh tâm lý nhân vật khác nhau, tất nhiên trục chính là nhân vật trung tâm. Cách xây dựng thời gian tâm lý đã tạo khả năng xâm nhập có hiệu quả vào thế giới bên trong con người mà nếu theo “kết cấu biên niên - sự kiện” [9, 98] thì sẽ khó làm được. Để thời gian tuân theo dòng chảy tâm trạng thì tất yếu phải có sự đảo lộn các yếu tố thời gian. Song, ở Lão Khổ, thời gian sự kiện và thời gian tâm lý lại có sự xâm nhập lẫn nhau trong kết cấu tác phẩm và không phải lúc nào cũng có sự phân biệt rõ ràng. Chính điều này đã tạo ra tính chất ảo, tính chất phi thời gian của tác phẩm, thời gian như trên đã nói - có sự “nhạt hóa” theo dụng ý tác giả. Đây là một trong những “thủ thuật” của nghệ thuật cấu trúc tác phẩm của các nhà văn đương đại. Thời gian trong cấu trúc tự sự tác phẩm là thời gian bị “nhòe”, cố tình trộn lẫn quá khứ và hiện tại bằng các “dòng tâm tư” để tạo nên tính chất hư ảo và kích thước thời gian huyền thoại. Với những truyện ngắn có cốt truyện tâm lý, sự bộc lộ tính chất ước lệ của thời gian là khá rõ. Loại truyện ngắn này có đặc sắc là thủ pháp đồng hiện thời gian bằng huyền thoại, giấc mơ, suy tưởng, đặc biệt là bằng “kết cấu lắp ghép”. Kết cấu phi thời gian là một tiềm năng tất yếu của dòng ý thức, mạch vận động của tác phẩm là mạch vận động của tâm lý - nhận thức nhân vật chính là diễn biến các trạng thái, thái độ của nhân vật với các hiện tượng, sự kiện khách quan ở nhiều thời điểm khác nhau.
Không có kết cấu thể loại nào mà hình thức kể chuyện của nó cho phép nhấn mạnh, mô phỏng tính chất quá trình của thời gian hơn là tiểu thuyết. Cách tạo dựng kết cấu của Tạ Duy Anh khiến người đọc có cảm giác những câu chuyện trong quá khứ được “hiện tại hóa”. “Cái đầu của nhân vật lúc này giống như một màn ảnh trên đó quá khứ, hiện tại và tương lai, cái có thật và cái ảo mộng đồng hiện”. [6, 81] Về điểm này thì tiểu thuyết đương đại đã có bước tiến bộ so với văn học hiện đại, bởi trong tác phẩm của các nhà văn sở trường miêu tả tâm lý như Nam Cao cũng chưa thấy xuất hiện. Quá khứ trong văn Thạch Lam đẹp mà buồn, rõ ràng là nó do con người đứng từ thực tại ngoái lại đầy nuối tiếc, quá khứ trong văn Nam Cao là cái gì đã vĩnh viễn mất đi sau khi con người bị tha hóa (tự đánh mất nó đi) hoặc là bị cướp mất. Quá khứ trong tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy Anh lại khác. Nó có thể là điểm dừng chân, trú ngụ tạm cho nhân vật khi chạy trốn hiện thực hay không? Nếu như các nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam hay Nam Cao thường tiếc nuối quá khứ, thì ở đây ta ngạc nhiên trước một nhân vật nông dân thất học nhưng tính cách và thế giới nội tâm không hề giản đơn lại “khinh bỉ ký ức”. Vì “lão cho rằng ký ức sẽ níu kéo con người mà những cái gì đã qua đều chẳng cứu vớt dựa dẫm được gì”, “đêm nay, có lẽ vì quá cô đơn, Lão Khổ bỏ ra vườn một mình... Lần đầu tiên lão làm một việc ‘thiếu dũng mãnh’ - xét theo tiêu chuẩn của lão. Cả đời lão ưỡn ngực trước mọi bão táp, tai vạ. Còn giờ đây không chỉ tai vạ, có một cái gì đau đớn đến tận cùng khiến lão bỏ chạy. Lão bỏ chạy đi đâu? Lão lẩn trốn vào ký ức, là nơi lão vẫn quay lưng lại”, “ Phải rồi, lão cảm thấy nhẹ người vì ký ức lão mở toang. Hóa ra hành động vĩ đại nhất của lão lại là cái hành động lão căm ghét nhất, mà giờ đây khả dĩ cho lão niềm an ủi”. Thế là nhân vật từ hiện tại nhiều bất công, oan trái do sự kiện viết đơn tố cáo và bị coi là “một kẻ ác độc nếu không phải hắn gở chết, tâm thần hay rửng mỡ. Làm gì có những chuyện thế mà lại đã từng xảy ra trong một xã hội tươi đẹp như xã hội ta”, đã lần tìm về quá khứ mong có chỗ nương náu tâm hồn. Vậy mà quá khứ của lão - giờ đây với lão lại là một chuỗi ám ảnh không dứt, tưởng đã chôn vùi nay lại bật dậy. Một quá khứ đầy hãi hùng: đi làm chân chăn vịt cho nhà Chánh Tổng chịu nhiều ấm ức, ngay cả “chuyện tình của lão Khổ”, “cái đêm ấy” - ngày mà cô hàng xén trở thành vợ của gã chân sào cũng “ám ảnh lão Khổ suốt đời như một tiền định của số kiếp”. “Hình như nó là điềm báo trước cuộc đời lão sẽ vất vả, tai ương đến lúc chết”; làm cách mạng phá tan cơ nghiệp nhà Chánh Tổng - kẻ thù của lão nhưng sau đó lại bị “đấu tố”, bị coi là “Quốc dân đảng”, bị tước cả đất đai do cha ông để lại, và giờ đây hiện tại lão bị coi như một tên tội phạm dám tố cáo, bịa đặt chế độ, sắp bị đi tù. Mặc dù cái quá khứ ấy đã có lúc lão cảm thấy như đang ở thiên đường, nhưng cuối cùng công danh, địa vị chỉ là phù phiếm. Lão chạy trốn hiện thực bằng cách tìm về quá khứ nhưng lại bị nhấn chìm vào đó với những cảm giác đầy ám ảnh và hãi hùng, tưởng như mỗi “mảnh ký ức” lại là một “cơn ác mộng”, lão cố vùng vẫy thoát ra thì lại càng bị lún sâu vào đó. Ngòi bút Tạ Duy Anh tỏ ra linh hoạt và biến hóa sắc sảo khi mô tả kết cấu tâm lý nhân vật. Trên bề mặt tác phẩm, ta thấy một “thời gian sự kiện đảo tuyến” [9, 136], sự kết hợp nhuần nhuyễn, khó phân tách rạch ròi với “thời gian tâm lý đa tuyến” [9, 163]. Dạng thức tự sự này có liên quan chặt chẽ với kỹ thuật tự sự mở rộng điểm nhìn trần thuật, khúc xạ các điểm nhìn trần thuật. Chính kỹ thuật này đã đem lại tính chủ quan cho thời gian khách quan trong thời gian tự sự. Thế giới nghệ thuật tác phẩm được nới rộng đến tầng sâu ý nghĩa. Bề chìm của tác phẩm được khai thác, đào sâu đến tận đáy sâu của nó. Có một không gian ảo bên ngoài cũng chập chờn ẩn hiện cạnh không gian thực. Tuy nhiên Lão Khổ là tiểu thuyết có cốt truyện triển khai theo tâm lý nhân vật, các sự kiện không diễn ra theo trật tự tuần tự, mà bám sát diễn biến tâm lý nhân vật. Những suy nghĩ, cảm xúc và nhận thức thì lại luôn vận động, biến chuyển bất ngờ không theo một qui luật sẵn có nào hết. Chẳng hạn như Lão Khổ lúc ngồi ở hàng ghế bị can, đang khinh bỉ mọi thứ, nghe thấy những tiếng vỗ tay, tung hô đã bất chợt hồi tưởng lại quá khứ sau ý nghĩ: “Vì sao những tràng vỗ tay lại giống nhau đến thế?” Trong trí nhớ của lão, quá khứ hiện ra và lão được tung hô như một người “mẫn cán” đầy công trạng. “Hôm ấy tỉnh tổ chức một cuộc tổng kết công tác hợp tác hóa được dánh giá là thắng lợi quá mức tưởng tượng”. Và bất ngờ, Tạ Khổ là người làm cho bộ mặt huyện sáng sủa bởi có “ngôi sao xã Hoàng”. Khi ấy Lão Khổ “đang bì bõm ở ngoài đồng” và người ta phải cho xe về rước ông bí thư xã. Sự việc này nối tiếp sự việc kia, chồng chéo bởi các sự việc khác. Đó là Lão Khổ giải quyết việc cãi vã, xong rồi “Khi Lão Khổ, quần còn lấm bùn bước vào hội trường tỉnh uỷ, lão được đón tiếp bằng cả tràng vỗ tay như sấm dậy. Lão cảm động đến ứa nước mắt. Lão có cảm giác sau tràng vỗ tay ấy, lão có thể bay thẳng lên thiên đàng mà lão mơ ước”. Đột nhiên ý nghĩ nhân vật lại quay về với hiện tại cũng vẫn tràng vỗ tay ấy, nhưng với lão, “lão tiếp nhận bằng thái độ khinh bỉ”. Sự đảo lộn kết cấu thông thường tất yếu gắn liền với việc tạo dựng kết cấu tâm lý. Đây là kết cấu mà sự kiện không phải là yếu tố thúc đẩy dòng tự sự vận động mà chỉ là “cái cớ” là cái nền để nhà văn triển khai câu chuyện. Tâm trạng nhân vật mới là chỗ dựa cho mạch tự sự. Khi đó con người trong tác phẩm sẽ là con người ý thức, con người nội tâm, thường hồi tưởng quá khứ, chiêm nghiệm hiện tại và suy đoán tương lai. Vì vậy sự xuất hiện các yếu tố tâm lý ở cả quá khứ, hiện tại và tương lai đều không theo quy luật vật lý khách quan mà chủ yếu phụ thuộc vào quy luật tâm lý con người.
Thời gian thực chỉ một chiều, trôi từ quá khứ đến hiện tại. Giả sử câu chuyện về cuộc đời Lão Khổ được kể lại trình tự theo kết cấu thời gian thông thường - thời gian tuyến tính thì hẳn đã không có gì khó hiểu và đáng nói. Cho xuất hiện liên tục những dòng tâm thức nhân vật, sự đắm chìm vào tâm trạng như vậy có ý cho thấy, ngoài sự hiện hữu của hiện tại luôn tồn tại một “thời gian đã mất”, khi đó con người suy ngẫm về thời gian với sự xúc động, nuối tiếc, cay đắng vì những cái đã qua không gì bù đắp nổi.
Cách để xuất hiện thời gian đã mất là một gợi ý nào đó đối với hiện tại. Quá khứ xuất hiện để làm cái việc lý giải nhiều hơn. Trong Lão Khổ, quá khứ đồng hiện qua những dòng tâm tư, cho nên dẫu ở hiện tại, câu chuyện chỉ là kể về chuyện Lão Khổ viết đơn, bị đưa lên báo thời gian hiện thực rất ngắn, nhưng người đọc vẫn hiểu cả một đời người, hiểu nhiều đời người. Đó là cuộc đời dữ dội của Lão Khổ - nhân vật trung tâm, ngoài ra còn cuộc đời của các nhân vật khác: bà Khổ, Tư Vọc, lão Phụng v.v . Sự hiện diện đan xen quá nhiều của quá khứ có thể gây sự khó khăn cho người đọc trong việc nắm bắt diễn biến câu chuyện, nhưng nó lại mang một ý nghĩa nghệ thuật to lớn: Con người thường tìm về quá khứ khi họ bế tắc trong hiện tại và tuyệt vọng về tương lai. Tạ Duy Anh đã tạo ra những mảnh nhỏ, nghĩa là triển khai trần thuật theo lối liên tục tạo ra tính nhân quả mà kết nối bề sâu có tính suy tưởng. Chúng là những mảnh sự kiện, mảnh suy tư, mảnh tâm tình, mảnh triết lý, mảnh hồi tưởng, mảnh hiện tại, mảnh giấc mơ... Các “mảnh vỡ cuộc đời” ấy xô đẩy, chồng chéo lên nhau, va đập vào nhau, rối rắm, phức tạp. Có cảm tưởng như các kết cấu rối ren ấy cũng “chở” một dụng ý nghệ thuật nào đấy của nhà văn.
Kết cấu tâm lý cho phép tác giả tả sâu, kể sâu, dừng lại ở một chi tiết, một “mảnh vỡ” nào đấy của cuộc đời nhân vật; hoặc cũng có thể tả lướt nhanh, sơ qua, đặc biệt nhất là đã tạo ra những khoảng lặng, khoảng trống trên bề mặt kết cấu tác phẩm và bề chìm - sự vận động nội tại của cốt truyện để người đọc tự suy ngẫm. Ví dụ như đoạn tác giả miêu tả rất kỹ về lai lịch, về xuất xứ tên gọi đặc biệt của nhân vật, hoặc lướt qua ở đoạn kể về “bẵng đi hơn mười năm Lão Khổ mất hút trên chính trường”, kết hợp với việc sử dụng khá nhiều các dấu chấm lửng tạo khoảng lặng: “Lão Khổ lừng danh một thời, ba đào một thời, lụi bại một thời...” Hoặc chi tiết Lão Khổ đọc lá thư của Tạ Bông và chợt nhớ tới quá khứ, “quá khứ nhòe nhoẹt, ố vàng, bị mối mọt khắp nơi hiện ra đến là thảm thương.” Chỉ qua một từ chỉ thời gian: “Ngày ấy... Ngày ấy...” Giữa khoảng lặng ấy là hiện tại - hiện tại buộc lão phải tìm về quá khứ và tiếp sau đó là quá khứ làm cái công việc lý giải thực tại.
Cùng với quá khứ, tương lai cũng hiện ra nhưng là tương lai trong tâm tưởng chứ không phải gần kề hiện thực. Tương lai cũng không mở ra một cái gì sáng sủa hơn. Tính nhân quả được tạo dựng. “Gieo nhân gì gặp quả ấy”, tình huống truyện bắt đầu từ lúc Lão Khổ viết lá đơn mười bảy trang, thắt nút khi ông Tư trở về, mở nút khi có cái chết của ông Năm. Mô típ “tội ác và trừng phạt” đã được đưa vào kết cấu tác phẩm. Có lẽ ở điểm này thì Tạ Duy Anh đã học tập và kế thừa từ Đôx-tôi-ép-xki và gần hơn là Nam Cao.
2.2. Kết cấu có tính chất luận đề:
Một đặc điểm nổi bật nữa là tính chất luận đề “đậm đặc” đan xen vào kết cấu tâm lý ở tác phẩm. Như đã trình bày, điểm nhìn trần thuật được trao cho nhiều nhân vật, và vì thế nó có quan hệ gắn bó, chi phối đến thời gian tâm lý đa tuyến của kết cấu và làm nên tính chất luận đề cho tác phẩm. Đó là tầm triết lý, suy ngẫm về cuộc đời, về thân phận chính mình ở các nhân vật, ở phát ngôn, ở lời đối thoại hoặc đối thoại nội tâm của nhân vật. Ta thấy có khá nhiều các câu văn đậm chất triết lý. Đó là Lời cầu nguyện làm đề từ cho tác phẩm, là những câu tạt ngang trữ tình ngoại đề được tác giả khéo léo đưa vào, “gán” cho nhân vật. Ta giật mình vì sao mà một lão già “nông dân thất học” lại có thể phát ngôn ra những câu nói như: “Kiếp người còn có thêm một nỗi khổ nữa, nỗi khổ của sự nhận ra mình là người”, “cuộc sống này tồn tại phải chăng bằng sự vờ vĩnh?”, “ xét cho cùng xứ sở này đã bao giờ thoát khỏi gánh nặng truyền kiếp là nỗi lo về miếng ăn”, “hóa ra kiếp người không được bao năm”, “những ai sinh ra đều khốn khổ” v.v. Nếu như ta hay gặp lối kết cấu vòng tròn trong các tác phẩm viết về nông dân thời kì 30 - 45 trong văn Nam Cao, Ngô Tất Tố v.v, một kiểu kết cấu luẩn quẩn nói lên sự trói buộc, không lối thoát của thân phận con người trước hiện thực nông thôn xưa ngột ngạt, u ám, thì ở đây ta bắt gặp lối kết cấu “mở”. Truyện kết thúc bằng một loạt các câu hỏi của Lão Khổ - mỗi câu hỏi là một triết lý nhân sinh “lay thức cõi thiện”: “Cuối cùng thì ý nghĩa cuộc sống là gì? Khủng khiếp nhất là sự vô nghĩa... Vậy thì cuộc tranh giành đua chen của lão cuối cùng để làm gì? Lão là gì so với vũ trụ khôn cùng?” Chắc chắn lối kết ấy là một dụng ý của tác giả, thể hiện tư tưởng nhà văn về con người và cuộc đời: “Ở một khía cạnh nào đó, sống là cuộc đi đày, và cái chết là dấu hiệu đầu tiên của tự do. Hình như nhân loại chỉ toàn sai lầm, ấy là không chịu tìm lý do tồn tại của mình”. Ngay chương XX (chương cuối): Lời chúc tái sinh và màn chót cũng góp phần bật lên bề chìm - cái tầng sâu triết luận, ý nghĩa của bề mặt kết cấu tác phẩm: “Lão Khổ ơi, có ai cấm lão tin. Nói cho cùng thì tội ác dã man nhất mà loài người trút lên nhau là tước mất lòng tin. Cầu cho niềm tin của lão tái sinh trong một kiếp sống không biến con người thành quỷ dữ.”
3. Tiểu kết:
Việc tìm hiểu kỹ thuật tự sự trong Lão Khổ từ góc độ kết cấu trên đây đã cho thấy tài năng của Tạ Duy Anh trong việc tạo dựng một phương thức kết cấu độc đáo, phá vỡ mô thức tự sự truyền thống. Tạ Duy Anh đã tạo được một kết cấu bề ngoài có vẻ lỏng lẻo, như là các mảnh chắp nối giữa thực tại, quá khứ, những ảo tưởng về tương lai..., nhưng thực ra lại rất chặt chẽ. Sự kết hợp giữa kết cấu thời gian, kết cấu tâm lý đan xen “các mảnh vỡ tâm trạng” đã tạo ra một kết cấu đa tầng bậc, linh hoạt và biến hóa, tạo cho người đọc sự hứng thú trong suốt quá trình theo dõi diễn biến của cốt truyện.
Cách kết thúc “bỏ ngỏ” cũng là đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết Lão Khổ. Câu chuyện về cuộc đời và số phận nhân vật vẫn chưa kết thúc, để lại đằng sau biết bao câu hỏi day dứt người đọc.
III. MÔ TẢ, PHÂN TÍCH TÂM LÝ NHÂN VẬT
Nếu so sánh với giai đoạn tiểu thuyết trước 1975 và giai đoạn tiểu thuyết từ sau đổi mới tính từ 1986, ta có thể thấy rõ sự cách tân táo bạo trong tư duy và cách thức sáng tạo của thể loại. Nếu ở giai đoạn trước, tiểu thuyết có xu hướng sử thi hóa với hình ảnh của một cộng đồng đang làm nên lịch sử, tính cách anh hùng, thì sau đổi mới, điểm nhìn của tiểu thuyết bắt đầu hướng về cái cá thể, cái hiện thực còn đang dang dở. Nhà văn “nghiêng soi” từng mảnh đời nhân vật, khám phá thế giới nội tâm không cùng của nhân vật. Viết tiểu thuyết không còn là miêu tả khách quan mà là một cuộc “lộn trái mình ra” (Bảo Ninh), một cuộc tự vấn lương tâm, một sự thể nghiệm đau đớn..., đòi hỏi ở mỗi nhà văn một vốn sống, bản lĩnh và tài năng để lý giải thấu đáo và khúc chiết thế giới nội tâm của nhân vật. Nói theo Bê-lin-xki thì tiểu thuyết là “sử thi về đời tư”, do vậy một cuốn tiểu thuyết hay phải làm được cái công việc “miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội tâm con người”.
Trở lại với tác phẩm Lão Khổ, miêu tả và phân tích tâm lý có thể nói là phương thức chính, là nơi dồn nhiều tâm lực và nhiều nét đặc sắc của ngòi bút Tạ Duy Anh trong việc xây dựng nhân vật. Nếu chỉ quan sát từ bên ngoài, thì hầu như chỉ thấy nhân vật ở góc độ “kẻ quan sát”, muốn hiểu sâu hơn về nhân vật với tư cách là “nạn nhân, kẻ chịu đựng lịch sử”, thì rõ ràng phải đi sâu tìm hiểu kỹ thuật mô tả, phân tích tâm lý nhân vật của nhà văn. Cái mà Tạ Duy Anh đã làm được trong tiểu thuyết này là, chỉ trong một dung lượng ngắn đã miêu tả sâu sắc, sinh động, đầy đủ, rành rẽ các “ngóc ngách” tâm lý nhân vật; đồng thời còn tạo dựng những xung đột tâm lý, những xung đột mạnh mẽ giữa hành động bề ngoài và nội tâm của nhân vật.
1. Nội tâm qua vài nét ngoại hình tiêu biểu:
Một nhân vật phải được xem xét đầy đủ về ngoại hình và nội tâm của nó. Không phải ngẫu nhiên mà Tạ duy Anh dành ra khá nhiều cho việc miêu tả, khắc hoạ chân dung ngoại mạo của nhân vật. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung xem xét vài nét về các chi tiết khuôn mặt, ngôn ngữ, cử chỉ và hành động “khóc” của nhân vật.
Tuy không phải là những nét nổi bật về sự cách tân độc đáo, song những chi tiết này cũng không nằm ngoài “chủ tâm” của tác giả trong việc qua một số chi tiết “đắt giá” ấy sẽ cho ta cái nhìn sâu hơn về nội tâm nhân vật. Thử làm một phép thống kê sẽ thấy trong tiểu thuyết chưa đầy 250 trang ấy, tác giả đã nhắc đi nhắc lại một số hình ảnh khá nhiều lần. Đó là khuôn mặt lão Khổ: “Nét mặt nhàu nát thảm hại” (trang 28) trong đêm cô đơn, hay “có đêm lão ngồi uống rượu và cứ cười ha ha. Vợ lão chồm dậy và thất kinh: Mặt lão như bị nhuốm bằng máu. Lão cười đầy vẻ man rợ” (trang 75); hoặc là khuôn mặt “hốc hác vì đói khát, mất ngủ do phải chầu chực” (trang 10) sau ba hôm vác đơn đi kiện. Đó là khuôn mặt gồ ghề, góc cạnh, trên đó có cảm tưởng như ghi đậm khắc sâu dấu ấn vùng đất mà lão sống - cái “làng Đồng quỷ ám” đầy hận thù với những lời nguyền rủa độc địa, nơi bóp nghẹt mọi ước mơ ở trên đời. Có tới sáu lần nhà văn miêu tả nhân vật cùng với hình ảnh những giọt nước mắt: “Lão thấy tan nát gan ruột... Từ kẽ tay lão dân dấn bò ra những giọt nước mắt” (trang 36), “tự dưng lão Khổ ứa nước mắt khi chạm vào tay vợ, hình như lão chỉ toàn mang nỗi khổ trút lên vợ lão. Nước mắt lão lại ứa ra” (trang 148), “Nhiều đêm lão ngồi một mình bên chai rượu, để mặc nước mắt chảy lặng thầm trên má” (trang 165), “nước mắt chảy thành dòng trên mặt” (trang 183) hay chi tiết: “Lão lặng lẽ ngồi vào chỗ của lão, lặng lẽ hút thuốc, lặng lẽ vò tóc, lặng lẽ khóc thầm” (trang 189); hoặc “phải thấy là phần lớn thời gian lão ngồi như hóa đá, tay đỡ vầng trán đồ sộ. Lão đang ngẫm thế sự bằng nỗi đau thường trực. Một lần lão bảo, nếu không tin thì sống bằng gì? Cứ thế lão ôm mặt khóc rưng rức, khóc không giấu giếm.” (trang 249). Hành động “xọc tay lên mớ tóc” và “ngồi như hóa đá” cũng được miêu tả nhiều lần. Các chi tiết này xuất hiện với tần số và mật độ khá dày: “Lão xọc tay lên mớ tóc, dứt mạnh mấy cái, giơ ra trước đèn thổi phù đi” (trang 7), “lão đưa tay sục lên mớ tóc lưa thưa đỡ lấy đầu, mặt như bị vạc bằng rìu” (trang 36), “Lão Khổ đưa tay nắm mớ tóc lơ thơ trên đầu” ( trang 55), và “ngồi như hóa đá giữa mảnh vườn”, “đứng như hóa đá... lòng tan nát bởi nỗi đau không cùng”. Bằng ấy các chi tiết thuộc về ngoại mạo đã đủ làm nổi bật tính cách và cuộc đời nhân vật. Những giọt nước mắt ấy, khuôn mặt ấy, cái tư thế bất động và cử chỉ lặp lại ấy đều tập trung toát lên cái ý khắc họa tính cách, sâu hơn là tâm trạng của lão. Qua các chi tiết đó, sắc thái tình cảm và tâm trạng nhân vật phần nào được bộc lộ. Đấy là chưa kể đến hệ thống ngôn ngữ lạ lùng mà tác giả trao cho nhân vật - ngôn ngữ cộc lốc, nhát gừng, thô, tục, chát chúa, không kiềng nể bất cứ cái gì cả. Tất cả đều mang dụng ý nhấn mạnh cá tính “cá biệt” của lão già “nông dân thất học lại là hiện thân của lịch sử” kia. Các chi tiết ấy chỉ là vài nét chấm phá nhưng lại giàu sức biểu cảm và sức gợi, thể hiện ngòi bút thông minh sắc sảo của Tạ Duy Anh trong khắc họa nhân vật.
2. Kỹ thuật độc thoại nội tâm:
Trong tác phẩm cũng không ít lần tác giả miêu tả những hành động mạnh của nhân vật như: “nghiến răng trèo trẹo; uất sặc máu, con ngươi muốn bật khỏi mắt, cười sằng sặc...”, hoặc lối biểu hiện trực tiếp tâm trạng: “lão thấy tan nát gan ruột”, hay “thấy ruột bị cứa thành từng khúc”... Tuy nhiên, về điểm này thì không có gì đáng nói, bởi vì lối biểu hiện trực tiếp ấy ta đã bắt gặp nhiều thành quen thuộc ở các tác phẩm văn học trước đây, từ cổ chí kim. Điều đặc biệt đáng nói ở đây là ngòi bút miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật một cách tinh tế và sâu sắc của tác giả. Chi phối toàn bộ tác phẩm là cách kể chuyện bằng một đường dây tâm lý phức tạp, biến hoá, phức điệu. Đó là việc đưa vào tác phẩm một loạt các “dòng tâm thức”, “dòng tâm tư” và đặc biệt là thủ pháp “đối thoại - độc thoại nội tâm” một cách đầy hiệu lực làm tăng tính chất đối thoại tự bên trong của nhân vật.
So với văn học truyền thống thì quả là văn học hiện đại từ thời kì 30 - 45 cho đến nay đã có bước tiến bộ, vượt hẳn lên mô thức tự sự truyền thống ở chỗ nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đã được các nhà văn sử dụng rộng rãi và ngày càng tinh diệu, điêu luyện. Và nhất là từ đó các nhà văn lại luôn “vật vã” tạo nét riêng, nét mới cho bút pháp của mình. Ở đây, Tạ Duy Anh đã đi vào tận cùng bí ẩn sâu xa của tâm hồn, tiềm thức để khám phá các mặt khác nhau trong suy nghĩ và tình cảm của nhân vật. Kỹ thuật “độc thoại nội tâm” và “dòng ý thức” đã được sử dụng một cách triệt để. Ngoài việc miêu tả con người hành động, chủ đích của nhà văn là khám phá thế giới bên trong con người. Bên cạnh tổ chức các cuộc đối thoại, các thủ pháp như độc thoại (tái hiện dòng suy nghĩ bên trong nhân vật và các mâu thuẫn của nó), soi sáng nhân vật từ điểm nhìn của các nhân vật khác (như đã trình bày ở phần I) là việc tạo dựng xung đột tâm lý một cách thường xuyên làm cho nhân vật tự ý thức về mình trong mối quan hệ với xung quanh, với hoàn cảnh đang sống, tự mình bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ trung thực nhất. Nội tâm nhân vật là do ngôi thứ ba kể lại, nhập vào nhân vật, lại có khi được soi sáng qua điểm nhìn của nhân vật khác. Chẳng hạn, chi tiết bà Khổ nghĩ về chồng mình: “Nhưng chỉ bà Khổ chứng kiến những lúc chồng ngồi như hóa đá bên chai rượu. Bà hiểu rằng chồng bà đang phải nuốt xuống sự cay đắng đến tận cùng”.
Lão Khổ là nhân vật có đời sống nội tâm phức tạp. Lão luôn bị ám ảnh bởi quá khứ và hoài nghi về tương lai. Nhà văn đã tỏ ra sắc sảo và am hiểu tâm lý nhân vật khi mô tả, phân tích những “cuộc chạy trốn hiện thực”, ngược về quá khứ của lão Khổ trước thực tại bất công, đau đớn và đầy phi lý. Đó là quá khứ về “chuyện tình của lão Khổ”, gắn liền với nó là các tầng bậc cảm xúc được mô tả chân thực: “Gã chân sào thấy nóng bừng mặt. Có một khối lửa ngủ im trong gã từ thời các bà mụ nặn gã, bị cô hàng xén cời vào, thổi cháy ngún trong lồng ngực. Gã thấy nghẹn tắc ở cổ. Toàn thân gã run bắn như lên cơn sốt, mồ hôi tháo ra ào ào. Ô, hóa ra gã đã ở cái tuổi có thể làm chồng...”. “ Tự dưng gã như người mắc bùa, mắc ngải, hồn vía phiêu bạt đi đâu mất. Gã thấy chóng mặt, gã thấy nao nao một cảm giác kì lạ, cứ đầy dần lên ở khoang bụng. Gã hà hít không khí, thấy nó thơm lừng, say ngây ngất. Hai kẻ cùng đường gặp nhau đều có nhu cầu muốn được che chở...”. Ngòi bút tinh tế của nhà văn đã tiếp tục khơi sâu tâm lý nhân vật: lão cảm thấy “người đàn bà trước mặt gã cứ to dần ra, ôm tỏa lấy gã... Gã thầm ước ngày nào đó chính người đàn bà kia sẽ ngồi khâu những cái tã xinh xinh cho một sinh linh bé nhỏ tách ra khỏi cơ thể cô ta, có chứa cả một phần máu thịt của gã...” Cái bản năng con người đã được đánh thức giữa “gã chân sào và cô hàng xén”. Tác giả đã mô tả tâm lý nhân vật chân thực sống động và tinh tế. Nhưng quá khứ ấy lại theo lão suốt đời với sự ám ảnh “như một tiền định của số kiếp lão. Hình như nó là điềm báo trước cuộc đời lão sẽ vất vả, tai ương đến lúc chết.” Quá khứ chập chờn ẩn hiện gắn liền với các mảnh ký ức, mảnh tâm trạng hồi cố của nhân vật. Trong quá khứ mà nhân vật nhớ về, thấy có lúc lão “đang ở thiên đường”, đó là khi nhớ về cảm giác lão còn đang làm Chủ tịch xã Hoàng - lão còn là “ông thánh xã Hoàng”, hay thời điểm mà cả nhà Chánh Tổng bị lật đổ bằng một đám đông cách mạng dưới sự chỉ huy của lão: “Lão Khổ phút chốc thành điểm tựa, thành linh hồn của những kẻ không có một chút đề kháng nào. Họ tìm thấy ở lão bản lĩnh lạnh lùng của kẻ dẫn dắt. Lão Khổ nhận lấy ngay sứ mệnh ấy. Và bởi vì lão vốn đầy sức mạnh.” Đó là bằng chứng của việc nhân vật tự hiểu mình, tự nhận thức và tự bộc lộ mình. Rồi ngay cả cái suy nghĩ đầy tính chất “cá nhân tư thù” của lão ngay trong khi làm cách mạng cũng được mô tả chi tiết: “lão chợt nhớ đến mấy đứa em chết đói của lão. Lão nhớ tới những trận đòn thừa sống thiếu chết... Lão lần hồi nhớ lại từng sự kiện có liên quan đến lão và chi họ nhà lão bị Chánh Tổng dùng quyền thế chèn ép đày xuống làm vai dưới. Tàn phá cũng là làm cách mạng. Lão gầm lên: - Tất cả thuộc về bà con. Tiến lên!” Rồi cả đến những tâm trạng khi lão bị mang ra đấu tố một cách oan uổng: “Lão Khổ ngã ngửa người. Khi các ông trời con lệnh trói lão bằng dây thừng, dắt như dắt trâu trong tiếng gào thét “Đả đảo bọn Việt gian bán nước Quốc dân đảng Tạ Khổ và đồng bọn!”, lão vẫn chới với hy vọng có sự nhầm lẫn nào đó... Lão gật gù củng cố suy đoán ấy. Nếu vậy thì lão có hy sinh cũng cam lòng.” Sau đó là những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật: “Lũ dã man! Giờ đây thì ông rõ mặt chúng mày rồi”, “Lão sẽ hy sinh thật oanh liệt. Tuy thế lão cũng liếc mắt sang hai dãy ghế: toàn người thân của lão...” Và khi bị tố cáo vu oan lão đã “nghiến răng trèo trẹo... lão uất sặc máu”, lão nhớ lại những gì lão đã làm cho họ. Ký ức lúc chập chờn, bảng lảng sương khói, lúc chói gắt dữ dội đi về xen ngang thì hiện tại. Sự xuất hiện đứt đoạn của các mảnh hồi cố, quá khứ lắp ghép là thường xuyên trong suốt diễn biến cốt truyện. Tính chất “không liền mảnh” này khác với mô típ truyền thống con người phân thành hai nửa nhưng vẫn hoàn chỉnh. Ở đây, tâm trạng nhân vật bị phân thành nhiều mảnh khó lắp ghép. Nó có một cái gì đấy biểu hiện sự trúc trắc, liên tục vận động và thay đổi dữ dội của tính cách và đời người. Các biến cố của số phận Lão Khổ được gợi lên hầu hết đều qua việc ngược về dòng chảy quá khứ, tự tìm lại mình, kiểm điểm mình. Tác giả đã chỉ ra tận cùng, đáy sâu tâm lý nhân vật những toan tính, những nghĩ suy... “Thực ra thì lão Khổ chẳng bao giờ muốn nhớ lại những chuyện như thế. Phần vì lão coi thường ký ức như đã nói. Nhưng điều sâu xa hơn chính là ở chỗ cuộc đời lão đã từng cất cánh bay lên từ những biến cố dữ dội ấy. Lão coi nó như điều khó tránh của lịch sử, dù nó đẫm máu...” Ngòi bút tác giả có khả năng lý giải chiều sâu - những nguyên do sau cùng và bản chất nhất của nhân vật. Đồng thời tâm lý đứt đoạn và rối tung ấy, những độc thoại miên man bên trong được đưa ra cốt để bác bỏ thực tại của tồn tại và trình bày ý thức tha hóa con người như là tồn tại đích thực của thế giới. Độc thoại nội tâm và dòng tâm tư làm cái công việc quan trọng là diễn tả thực tại sâu sắc hơn. Nhờ thế tạo hiệu quả tâm lý đối với người đọc: đặt người đọc vào tình thế đồng thời với hiện tượng đang diễn ra, khả năng “hiện tại hóa quá khứ” vốn đã tiềm tàng trong tiểu thuyết lại càng được tăng cường.
Nhà văn đã chọn cho mình một chỗ đứng “bình đẳng” với nhân vật để cho nhân vật nói tiếng nói thật của mình. Thật khó mà phân biệt đâu là giọng tác giả, đâu là giọng nhân vật. Cuộc độc thoại nội tâm với ngôn ngữ được dùng là ngôn ngữ nửa trực tiếp nên đã mang tính chất như cuộc đối thoại đa giọng điệu: khi thì mỉa mai, giễu cợt, khi thì tự biện hộ, khi thì đanh thép... nhưng nổi bật lên vẫn là âm hưởng khắc khoải, thâm trầm của một tâm hồn con người bị nỗi đau tinh thần giằng xé. Ngòi bút của nhà văn còn tỏ ra rất tinh tế trong việc miêu tả và khắc họa tâm lý của một loạt các nhân vật khác trong truyện như: Hai Duy, Tư Vọc, mụ Quản, lão Phụng... tạo ra một hệ thống tâm lý đa tuyến nhiều chiều đan cài vào nhau.
3. Khắc họa xung đột tâm lý:
Miêu tả có chiều sâu tâm lý nhân vật phải đi kèm với việc tạo dựng xung đột, mâu thuẫn từ thế giới nội tâm nhân vật. Từ góc độ này ta có thể thấy rõ những bi kịch của nhân vật. Như đã nói, bi kịch lớn nhất của lão là: đa phần những việc lão làm đều có kết cục trái với ý định của lão, muốn thế này lại ra thế kia, lão muốn tạo ra Thiên đường thì rốt cục nó lại thành Địa ngục mà lão chính là kẻ đáng thương bị đày đọa trong đó: “Tất cả những gì lão Khổ mơ ước và tạo ra trở thành tai vạ cho đời lão”, “đến lượt ước mơ của lão quằn quại rên siết. Lão đã tự hạ huyệt chôn lão, không phải trong niềm tiếc thương, không phải theo cách “tống tiễn một cách vui vẻ, mà trong sự bình thản của thời cuộc”. Quả thật “tất cả những cố gắng của con người để hiểu quá khứ đều là những cố gắng đau đớn, nhọc lòng”. Chính lão cũng đã thừa nhận sự bất lực trong khi tìm mọi cách để trả lời cho những mất mát, đau khổ hằn in dấu vết lịch sử lên cuộc đời lão như những “đường cày” sau ngần ấy năm, phần lớn cuộc đời lão hết lòng phục vụ cách mạng, mong mang một “Thiên đường” đến cho đồng loại của lão. Lão đã từng là “kẻ chứng kiến lịch sử” và đã có lúc tham gia vào việc tạo dựng lịch sử. Đó là việc lão tạo dựng chính quyền cách mạng, “xóa sổ đám quan lại cũ, đày xuống làm loại cuối hạng, bắt cuốc đất, lật cỏ kiếm ăn...”, tham gia vào “cải cách ruộng đất...” Sau tất cả những cống hiến ấy, lão được hưởng thụ, đền đáp những cái gì? Là chiến sĩ cách mạng nhưng khi cải cách ruộng đất “thành ngay thằng Quốc dân đảng”, “ngót mười năm lặn lội thân cò hiến cho sự nghiệp đến cả giọt nước đái... để bị quy là chui vào tổ chức với dụng ý phá hoại ngầm”. Ngay đến hành động cuối cùng là viết đơn lão cũng không ngờ đấy lại là “màn mở đầu cho tấn đại bi kịch chót đời của lão”. Cái lá đơn mười bảy trang ấy với “lương tâm của người sắp nằm xuống” của lão bị coi là của kẻ “quyết tâm chết” đã làm lão khốn đốn.
3.1. Xung đột giữa bề ngoài và nội tâm:
Đặt nhân vật vào thời kỳ đấu tranh giai cấp, đi liền đó là các sự kiên -những “mốc” hành động mà lão Khổ tham gia. Tuy nhiên đó vẫn chỉ là “cái cớ” để lý giải, mổ xẻ tâm lý nhân vật. Nó giải thích vì sao lão phải chịu đựng một bi kịch tinh thần lớn đến thế. Lão Khổ là nhân chứng sống của lịch sử, lại cũng là “nạn nhân của lịch sử”. Tạ Duy Anh đã cùng một lúc lồng chiếu, khắc họa số phận con người với hai tư cách: người nông dân sống trong lời nguyền thâm thù giữa hai dòng họ và một tư cách khác là “kẻ quan sát lịch sử”. Đặc điểm nổi bật này trong cùng một nhân vật cho thấy sự kế thừa và cách tân của nhà văn trong việc xây dựng hình tượng văn học mới. Các xung đột nội tâm, đấu tranh nội tâm của nhân vật được sắp xếp xen kẽ làm bật lên cá tính mạnh mẽ của nhân vật. Đó là tâm trạng bi phẫn, bất mãn trước thời cuộc, đồng thời lại không hề cam chịu sự an bài của số phận mà quật mình chống trả mạnh mẽ cả cái được coi là “số kiếp tiền định” của mình. Bề ngoài lão có vẻ bất chấp, không mảy may quan tâm đến việc thiên hạ đang “rùm beng” lên với câu chuyện xung quanh lão, nhưng bên trong có sự đối lập hẳn “Lão dỏng tai nắm bắt mọi thông tin... Lão Khổ cố tỏ ra xem thường thời thế” nhưng thực ra lão “đang phải nuốt xuống sự cay đắng đến tận cùng”... Một mặt, lão vô cùng căm thù, khinh bỉ lũ người chuyên đi tàn phá và “hạng phúc trên sự lụi bại của người khác”; một mặt lão lại tự biện hộ và ăn năn về những lỗi lầm của mình: “Lão Khổ cúi xuống và thất sắc: lão đang dẫm lên toàn xương người” trên chính mảnh vườn của cha ông mà lão đã mang hiến cho hợp tác xã đẻ rồi sau bảy năm tranh chấp mới đòi lại được, và tự lão đã nhận ra: “Chính lão cũng từng là kẻ đi tàn phá”. Soi chiếu nhân vật dưới nhiều góc độ, nhiều nhân vật xung quanh, lão Khổ hiện lên trong tác phẩm không phải là một điển hình mà là một “nhân vật đời thường” - trong lão tồn tại cùng lúc cả cái tốt lẫn cái xấu, cái cao cả, thánh thiện lẫn cái đớn hèn, dục vọng; cả “rồng phượng lẫn rắn rết” cùng tồn tại. Cách tạo dựng nhân vật toàn diện và chân thực như thế, đặc biệt là khám phá cả phần tốt lẫn xấu từ trong ý nghĩ sâu kín của nhân vật là bằng chứng cho cách nhìn hiện thực, cách tiếp cận độc đáo, mới mẻ của Tạ Duy Anh về quá khứ, về lịch sử. Qua một số phận, một bi kịch của một con người đời thường ấy, nhà văn có thể phản ánh những phi lý, bất công của hiện thực mà ngay cả các cuộc cách mạng cũng không tránh khỏi. Đây là bản chất của hiện thực.
3.2. Các yếu tố tâm linh:
Có một điểm độc đáo nữa ở nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật của tác phẩm, đó là việc soi chiếu nhân vật từ góc độ “tâm linh”. Ngoài lô gíc tâm lý thông thường, nhà văn còn đặc biệt chú ý đến cái vô thức, tiềm thức nằm ở tận sâu, ở phần còn khuất lấp trong nội tâm nhân vật. Đó là những cuộc đối thoại tâm tưởng giữa người sống và người chết (giữa lão Khổ và Vũ Xuân, giữa lão Khổ và một loạt các nhân vật ở phiên tòa xét xử trong giấc mơ của lão...). Thủ pháp miêu tả tâm lý nhân vật thực hiện theo sự tuôn chảy một cách hỗn độn, miên man, vừa chồng chất vừa tiếp nối của “dòng ý thức” với những giấc mơ quái đản, những ký ức đau xót, nặng nề, những triết lý tư duy, những huyễn tưởng. “Dòng ý thức” đó thể hiện tâm trạng nặng nề của một kiếp người nhọc nhằn, trong cuộc sống tù đọng, âm u. Có những dòng tâm linh chỉ có thể lý giải là thuộc về vô thức nhân vật, bản năng con người. Nếu như trước kia, ở những thời điểm nhân vật ở đỉnh cao của danh vọng, tắm mình trong huy hoàng, niềm tin và lí tưởng là chỗ dựa cho nó, thì giờ đây, đối mặt với thực tại tàn khốc, vô nghĩa lý đến không thể lý giải nổi, chỗ dựa tinh thần cho nhân vật là tâm linh. Một loạt các câu văn đậm chất triết lý, suy ngẫm về số kiếp, về cõi đời được tác giả trao cho nhân vật suy nghĩ và phát ngôn: “Cuộc đời cho lão đủ cả: hạnh phúc, niềm tự đắc của kẻ mạnh, kinh nghiệm thích ứng với mọi cảnh ngộ và cả sự đa nghi”, “Số kiếp là cái cóc gì”, “Một kiếp người hóa ra chẳng được bao năm...” Có rất nhiều cảm xúc, suy nghĩ mà đó là lần đầu tiên xuất hiện trong con người thực dụng của lão: lão thấy mình “mù lòa trong niềm tin thánh thiện”, “lão đang tự thú sự bất lực của lão”. Sự trở về của nhân vật Tạ Bông và sự gặp gỡ của nhân vật này với lão cho thấy cái tính cố chấp cố hữu của con người “nông dân” trong lão: “lão cảm thấy lão lại nắm chắc phần thắng. Ông ta sẽ không thoát khỏi sự bủa vây của lịch sử...”, nhưng rốt cuộc thì “lần đầu tiên trong đời lão Khổ cảm thấy sự thất bại ê chề”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn bao gồm cả việc đọc lá thư cũ và nói chuyện với Tạ Bông, lão Khổ đã được tác giả miêu tả, phân tích và gọi tên trạng thái tâm lý một cách khá đầy đủ, tinh tế và chính xác. Chi tiết tâm linh đậm nét nhất có lẽ là ở Hình phạt khủng khiếp (chương truyện thứ 16) với giấc mơ quái dị của lão về phiên tòa cuối cùng do lão tự ảo tưởng, ở đó nhân vật tự phán xét mình, tự nhận tội và kiểm điểm một cách trung thực. Tội của lão là mù quáng bắt nhân dân ăn thịt nhau vì “một cái bánh vẽ”, mà không hiểu việc lão làm do “tâm địa không đến nỗi nào” do vậy “hình phạt” với lão là bắt về trần gian sống tiếp, để lão nhận ra là còn rất “nặng nợ với phàm tục”. Các yếu tố “tâm linh” như một phương tiện hữu hiệu giúp tác giả thâm nhập vào sâu trong tâm hồn nhân vật để dựng lên những bức tranh nội tâm và góc khuất thuộc về nội tâm nhân vật - cái phần u uẩn không dễ nắm bắt. Những biểu tượng ấy có khả năng khái quát những điều “vô thường” nơi cõi nhân gian đầy tục lụy, làm sáng tỏ những khoảnh khắc, những phút giây “bừng ngộ” của nhận thức mà lý tính tỉnh táo không lý giải được.
Con người vốn dĩ ít ai nhận ra được những sai lầm, những bi kich của chính mình, cũng có nghĩa là ít khi tự mình phủ nhận mình. Nét tính cách này thường hiếm thấy trong tự sự truyền thống, nó chỉ trở nên phổ biến từ đầu thế kỉ XX với các tác phẩm của Nam Cao - nhà văn hiện thực tâm lý, ở Thạch Lam, ở tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách “đặc” về miêu tả nội tâm nhưng thế giới nội tâm ở đây vẫn chưa thoát khỏi qui phạm của văn học truyền thống. “Chẳng hạn khi trao đổi tâm tình cho nhau, Đạm Thủy và Tố Tâm vẫn phải dùng tới những bài thơ Đường luật hoặc những lá thư đầy tính biền ngẫu” [10, 61]. Tự Lực văn đoàn cũng có nhiều thành tựu trong mô tả tâm lý song còn gượng ép, tiết tấu chậm và còn đầy sự áp đặt của bàn tay tác giả, tâm lý nhân vật chưa có sự lô gíc của những quá trình vận động, mới chỉ dừng lại ở việc thể hiện tinh tế thế giới cảm giác con người. Chính Nhất Linh đã nói: “sẽ cố viết cho đúng tâm lý hơn, cho nhân vật linh hoạt hơn...” [10, 68]
Ở truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, ta bắt gặp loại nhân vật mới mẻ và hiện đại này. Ở đó, việc khắc họa một khuôn mặt được chiếu rọi qua ánh sáng của vô số đèn và rất nhiều các góc độ là thế giới tâm linh đầy bí mật, nơi mà những cảm xúc, suy nghĩ mờ tối nhất, sâu kín nhất tự bộc lộ. Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là người đi đầu cho lối viết, lối xây dựng kiểu loại nhân vật mới của văn học đương đại nhất là từ sau những năm 80 của thế kỷ trước. Trở lại với Lão Khổ, ta thấy thế giới tâm linh đa sắc màu của nhân vật đã được khám phá qua ngòi bút Tạ Duy Anh. Đó là những đoạn tưởng tượng, suy tưởng đầy màu sắc huyền ảo trong tâm tư nhân vật:
“Lão bỗng thấy đất dưới chân lão sụt lở. Lão tụt dần xuống, tụt dần xuống cho đến khi lão biến thành chính cây roi đường. Lão đi khắp thế gian và mời mọc bọn trẻ con bọn chim chóc nhưng không ai đoái hoài đến.
- Chúng tôi không thể ăn máu, thịt người.
- Hãy nhìn lại xem. Quả ngọt tôi sinh ra mà.
- Các người ăn xác nhau để tồn tại. Sao ngươi không thử cúi nhìn xuống chân ngươi xem...
Lão Khổ cúi nhìn và thất sắc: lão đang dẫm lên toàn xương người...”
Ở Lão Khổ, không có chỗ cho những ước mơ, lão tin lão có “sứ mệnh phải hy sinh trước” để “thế giới đi đến đại đồng”, lão khinh bỉ thế giới mơ mộng thần tiên của Hai Duy - con trai lão, “lão gom thành đống, cả nhật ký lẫn hình vẽ những nàng tiên của con mình, dùng chân di nát. Lão không biết rằng lão đang xéo đạp lên trái tim của con trai lão”... Lão thừa nhận: “đã gục ngã bởi không sao nắm bắt được một điểm bám víu trong thế giới của con trai lão. Trong thế giới ấy, lão hiện hình là một con quỉ dữ.” Vậy mà chính lão lại luôn bám vào một niềm tin hết sức mơ hồ về những gì xảy ra trong quá khứ: “Rồi cuộc sống đã hun đúc cho lão một thứ niềm tin chỉ có thể sánh với niềm tin tôn giáo. Tước mất của lão niềm tin ấy lão sẽ chết. Ngay cả giờ đây lão đang là nạn nhân của tấn bi hài mới, thì niềm tin thần thánh ấy vẫn dư sức để lão không mảy may nghi ngờ tính chất vớ vẩn, đong đưa của cuộc đời. Lão Khổ cảm thấy lão vừa được tiếp thêm sức mạnh”... Chi tiết lão nhớ lại lá thư của con trai lão trước ngày bỏ đi là bằng chứng cho những giằng xé, xung đột nội tâm của lão. Lời lẽ của lá thư thực ra là một cách ẩn giấu những nhận thức lại mình của lão được tác giả đặt điểm nhìn ở nhân vật khác, cụ thể ở đây là Hai Duy. Theo đó thì lão Khổ vừa là “cai ngục vừa là tù nhân số một” trong nhà tù “làng Đồng quỷ ám”, lão tự “xiềng xích và thấy thích thú bởi tiếng kêu xủng xẻng. Tràn ngập trong đó là lòng hận thù, thói hợm hĩnh về quá khứ, những ảo tưởng điên rồ về tương lai”, đó là một cộng đồng “không biết mơ mộng”. Đằng sau những lời lẽ đó là sự bất lực của Lão Khổ trước những câu hỏi dồn dập của con trai lão: “Giữa tình yêu và lòng hận thù nên chọn cái nào?” Những ảo tưởng, phông vẽ về một thiên đường của lão - cái niềm tin tội nghiệp của lão bị những câu hỏi ấy “châm cho một mồi lửa” vì lão không thể trả lời được, “Sự trì níu vết thương quá khứ còn lê thê hết đời lão”. Sự mâu thuẫn, giằng xé mãnh liệt trong nội tâm nhân vật như đã nói, còn được thể hiện một cách đầy biểu cảm qua sự mô tả về khuôn mặt “nhàu nát đến thảm hại”, qua những giọt nước mắt và cái dáng ngồi “như hóa đá” mà nhà văn đã nhiều lần phác họa. Rõ ràng để khám phá thế giới bên trong đầy bí ẩn và có chiều sâu khôn cùng của nhân vật, tác giả đã phải sử dụng kết hợp nhiều phương thức, trong đó ngoài những thứ lý giải được, bằng việc ngược về quá khứ, còn phải viện đến việc khía sâu vào thế giới vô thức của nhân vật. Bởi vì suy cho cùng, con người có mấy ai tự hiểu sâu sắc được hết mọi góc cạnh tâm hồn mình? Ngay cả việc tác giả đặt nhân vật chênh vênh, mấp mé bên bờ “thiện - ác” cũng không nằm ngoài việc khắc sâu cái “vô thức” trong tâm linh nhân vật này. Có như thế, toàn bộ những nét vẽ nội tâm nhân vật mới chân thực như nó vốn có. Tạo dựng nhân vật với đầy mâu thuẫn, nghịch lý, thường xuyên biến động, luôn luôn có những bước ngoặt, những biến chuyển không lường hết được trong những cuộc đâu tranh nội tâm, nhờ đó mà tính chủ thể luôn được tăng cường.
Thử đặt một cái nhìn xuyên suốt tác phẩm, sẽ thấy một âm hưởng vang lên từ nỗi đau âm ỉ của nhân vật. Có cảm giác như Lão Khổ lạc lõng giữa cõi đời này: “Lão thấy cô đơn đến khủng khiếp... Lão cô đơn vì lão cảm thấy mệt mỏi đến tận cùng trong cuộc loại trừ nhau. Cuối cùng thì ý nghĩa cuộc sống là gì? Bởi vì lão không chịu tìm cho ra điều ấy nên cuộc đời lão mới long đong, bèo bọt và vô nghĩa”... “Lão lang thang cô độc ngay giữa đồng loại”... “Chỉ thấy toàn ma dữ, bóng tối, chết chóc... thì cuộc sống còn là cái gì!” Nếu đem so sánh với các nhân vật nông dân trong văn học trước đó và ngay cả tác phẩm cùng thời sẽ thấy được nét mới mẻ, độc đáo, khám phá riêng của Tạ Duy Anh. Lão Khổ hiện lên như một hiện tượng dị biệt so với các hình tượng nông dân trước đó, mà nếu không quan sát ở tầng sâu nội tâm thì không thể nào nhận thấy được. Đó là tầm triết luận sâu sắc được bộc lộ qua một nhân vật “nông dân thất học” về sự sống, cuộc đời, sự tồn tại của con người trên cõi đời, về kiềp người, về sự vô nghĩa lý... Xét cho cùng thì “bi kịch tinh thần” của nhân vật này không những chỉ là việc phải chịu đựng những gì ngược với tâm huyết cả đời lão, mà còn là bi kịch của cảm giác một thân phận cô đơn, lạc lõng ngay giữa đồng loại, của việc nhận thức được sự vô nghĩa của kiếp người ở lão: cả một cuộc đời vật vã, khổ sở từ khi sinh ra cho đến lúc về già rốt cuộc cũng chỉ là phù du, bèo bọt: “Đời lão xét đến cùng chỉ còn bà vợ... Danh vọng cũng chả ra ngoài ba thước đất”, “đời lão xét đến cùng là hiện thân cho sự đổ vỡ thảm hại”... Những câu văn như thế có thể chăng là sự chiêm nghiệm, tổng kết về cuộc đời lão. Những lỗi lầm của lão trong quá khứ chỉ vì lão “không biết nói dối”, “hình phạt đối với lão là bắt về trần gian sống tiếp”. Kết thúc tác phẩm là cái nhìn của nhân vật ngôi thứ nhất xưng “Tôi” về nhân vật, về căn nguyên của toàn bộ những gì đã xảy ra trong câu chuyện. Truyện kết thúc không phải bằng việc nói về kết cục số phận nhân vật như thế nào mà mở ra bằng việc nói đến niềm tin của nhân vật - như là một cánh cửa để người đọc tự khám phá: “Lão đang ngẫm về thế sự bằng nỗi đau thường trực. Một lần lão bảo: Nếu không tin thì biết sống bằng gì? Cứ thế lão ôm mặt khóc rưng rức, khóc không giấu giếm”. Lời chúc tái sinh của nhân vật xưng “Tôi” ở cuối truyện làm toát lên giá trị nhân sinh sâu sắc của tác phẩm.
4. Tiểu kết:
Như vậy, dưới ngòi bút tác giả, một bức tranh tâm lý nhân vật đã hiện ra. Đó là bức tranh tâm lý nhiều màu, ở đó có những khoảng sáng tối, đậm nhạt khác nhau. Nhà văn như một người hoạ sĩ có sở trường trong việc phối màu, chọn lựa các đường nét một cách hết sức hiệu quả, có những chỗ hài hòa, lại có cả rất nhiều các “điểm gắt” gây ấn tượng đột ngột đối với độc giả. Sẽ là gượng ép nếu tác giả không “cao tay”, không tạo được chỗ đứng “bình đẳng” cho nhân vật ở góc độ xây dựng thế giới nội tâm của nó. Miêu tả, phân tích tâm lý không tách rời các góc độ khác mà ngược lại có quan hệ gắn bó mật thiết với góc độ kết cấu và điểm nhìn trần thuật của tác phẩm.
Tất nhiên để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật còn cần phải có các yếu tố khác như: ngôn ngữ, giọng điệu... Tuy nhiên như đã trình bày ở phần mở đầu, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu kỹ thuật tự sự trong tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy Anh từ ba góc độ - ba yếu tố chính mà ở đó, chúng tôi cho là ghi dấu sự sáng tạo của nhà văn nhiều nhất, đậm nét nhất.
KẾT LUẬN
1. Có thể nói với tiểu thuyết Lão Khổ, Tạ Duy Anh đã thể hiện thành công những tìm tòi, khám phá mới mẻ của mình về kỹ thuật tự sự trên cơ sở kế thừa tinh hoa của những người đi trước trong việc đổi mới thi pháp tiểu thuyết. Với lối kết cấu phi thời gian - không gian, không theo trình tự các sự kiện mà chỉ coi đó là “cái cớ” để khai triển tình huống truyện, một kết cấu tâm lý, kết cấu đậm tính chất luận đề đã được tạo lập; và chính lối kết cấu tâm lý ấy đã chi phối toàn bộ câu chuyện. Điểm nhìn trần thuật được trao cho nhiều nhân vật là nét độc đáo, tạo ra nhiều “tấm gương’’để soi chiếu nhân vật, chân dung nhân vật được khúc xạ qua đó; cùng với bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật vừa tinh tế vừa lô gíc và tạo dựng hàng loạt những xung đột, giằng co bên trong nội tâm nhân vật chính. Có thể nói điều đó cũng giống như việc nhân vật tự tạo một “tấm gương” lớn để tự kiểm điểm, tự nhận thức, tự hiểu và lý giải về mình. Kỹ thuật độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm, dòng tâm tư, lắp ghép các “mảnh vụn” tâm trạng và suy nghĩ... đã được nhà văn sử dụng linh hoạt, sáng tạo và phát huy đầy hiệu lực. Một con người đã hiện ra không phải theo lối “điển hình hóa” mà chủ tâm của tác giả là “đời thường hóa” nhân vật với đầy đủ những phần tốt - xấu, thiện - ác, ý nghĩ cao cả - dục vọng bản năng, thánh thiện - tầm thường... để nói lên những vấn đề sâu sắc về hiện thực. “Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng, nhưng cũng đầy thương xót con người” (Báo Pháp luật, số 140, 2004).
2. Nét độc đáo, mới mẻ của Tạ Duy Anh trong tác phẩm Lão Khổ là ở chỗ, nhà văn đã liên tục buộc người đọc phải gồng mình, căng óc ra để theo dõi câu chuyện bởi lối viết văn cực kỳ linh hoạt, biến hóa, sắc sảo của mình. Nhìn lại lịch sử, nhìn lại quá khứ, Tạ Duy Anh có cách tiếp cận và thể hiện riêng của mình. Bóc trần cái vỏ hào nhoáng chiến công, anh hùng của lịch sử, những vấn đề nhức nhối, phi lý, đầy bất công đối với số phận con người một thời đã được phô bày trên những trang văn gai góc, sắc lạnh, tỉnh táo về thế sự. Nhờ đó, độc giả biết thêm và đặc biệt có cái nhìn sâu hơn, chân thực hơn, đầy đủ hơn về quá khứ. Bất kể thời đại nào thì đối tượng của văn chương cũng là về con người: số phận, nỗi đau, bi kịch và cả phần vô thức - tâm linh con người, những khủng hoảng về nhân cách... Quan niệm về con người, về cuộc đời đã được nhà văn gửi gắm qua nhân vật: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới sự giằng giật xiêu dạt của lịch sử. Trên đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt thật của quá khứ, con người vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dục, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sạch bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ”(Báo Thể thao và văn hóa, số 47, 2004). Chạm vào và khơi sâu những vấn đề gai góc, luôn để nhân vật đứng mấp mé bên bờ vực của thiện và ác, đứng giữa bi đát của hoàn cảnh thực tại, chất nhân sinh ở ngòi bút nhà văn là đã để nhân vật tự “tìm vào cái ác để lay thức cõi thiện”, tự gồng mình phá bỏ những nghiệt lệ, định kiến nặng nề ở thực tại.
Với những đặc sắc, cách tân về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt là sự đột phá liên tục kỹ thuật tự sự trên đây, Tạ Duy Anh đã tạo cho mình một dấu ấn trong lòng độc giả, tạo một luồng sinh khí trên văn đàn, đóng góp không nhỏ vào việc đổi mới thể loại tiểu thuyết.
Tiểu thuyết Lão Khổ nói riêng và văn học đương đại nói chung là mảnh đất màu mỡ đã và đang cần nhiều người đến khai phá. Ở với đề tài này, chúng tôi mới chỉ đề cập đến một vài phương diện chủ yếu trong nghệ thuật tiểu thuyết của Tạ Duy Anh qua Lão Khổ. Chúng tôi hy vọng rằng, tới đây sẽ tiếp tục công việc của mình ở mức độ sâu, rộng hơn. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô, sự góp ý chân thành của bè bạn và những người quan tâm đến đề tài này./.
Hà Nội, 24/03/2005
Đinh Việt Hà
Tạ Duy Anh giản giới
Tạ Duy Anh tên khai sinh là Tạ Viết Đãng, sinh ngày 9-9-1959. Quê quán: thôn Cổ Hiền, xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Ông còn có các bút danh: Lão Tạ, Chu Quý, Quý Anh, Bình Tâm... Là cử nhân văn chương, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Tạ Duy Anh từng là cán bộ giám sát chất lượng bê tông nhà máy thủy điện Hòa Bình, trung sĩ bộ binh ở Lào Cai, giảng viên Trường Viết văn Nguyễn Du - nơi mà ông được đào tạo chính quy. Hiện ông là Biên tập viên - Nhà xuất bản Hội nhà văn.
Tạ Duy Anh là một cây bút đa tài, viết được nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, tản văn, tục biên... Ở thể loại nào cũng để lại không ít ấn tượng.
Các tác phẩm chính:
Các tập truyện ngắn: Bước qua lời nguyền, Luân hồi, Gã và nàng, Bố cục hoàn hảo, Ngày hội cuối cùng, Quả trứng vàng, Ba đào ký, Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh...
Truyện vừa: Hiệp sĩ áo cỏ, Những chuyện không phải trong mơ.
Tiểu thuyết: Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối.
Tản văn: Kẹo kéo, Ngẫu hứng sáng trưa chiều tối.
Phần lớn các tác phẩm trên đều được tái bản nhiều lần.
Nhận định về tiểu thuyết Tạ Duy Anh, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến viết: “...Nhiều tác phẩm của Tạ Duy Anh mang cảm hứng trút bỏ những thành kiến nặng nề của quá khứ, xóa bỏ những nếp sống gắn liền với bạo lực khốn cùng và tối tăm... Chủ đề này trong hiện tại được cảm nhận với nhiều sự mắc mớ nhưng nó có tương lai, nó là chủ đề của tương lai.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách lý luận - phê bình:
01. Hà Minh Đức (chủ biên): Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997.
02. Phương Lựu (chủ biên): Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003.
03. Phạm Vĩnh Cư (dịch): Lý luận và thi pháp tiểu thuyết của M.Bakhtin, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2003, trang 260.
04. Trần Đình Sử (chủ biên): Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2002.
05. Trần Đình Sử (chủ biên): Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004.
Sách công cụ, chuyên luận và tác phẩm văn học:
06. Đặng Anh Đào: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
07. Lại Nguyên Ân: 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2003, trang 324.
08. Lại Nguyên Ân: Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003.
09. Lê Thị Tuyết Hạnh: Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự (qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003, trang 98, 163, 164.
10. Lê Thị Dục Tú: Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003, trang 61, 68.
11. Lê Bá Hán (chủ biên): Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999, tr. 131.
12. Nhiều tác giả: Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2002.
13. Nhiều tác giả: Văn học 1975-1995 - Tác phẩm và dư luận, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
14. Nguyễn Khắc Trường: Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1990.
15. Nguyễn Khải: Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1984.
16. Nguyễn Minh Châu: Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, 2003.
17. Tôn Phương Lan: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
18. Tạ Duy Anh: Bố cục hoàn hảo, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2004.
19. Tạ Duy Anh: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Đối thoại văn chương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2004.
20. Tạ Duy Anh: Tục biên Ba đào ký, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2004.
21. Vũ Khắc Chương: Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHDOCS 10.doc