Tính cấp thiết của đề tài
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn và hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có phương án sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro, do đó vấn đề đảm bảo tiền vay luôn được các ngân hàng chú trọng trong suốt quá trình kinh doanh của mình. Trong thời gian qua, nhiều Nghị định, Thông tư được ban hành, hướng dẫn việc đảm bảo tiền vay bằng tài sản, đáp ứng sự mong đợi của các ngân hàng trong quá trình nhận và xử lý tài sản đảm bảo, góp phần hạn chế rủi ro trong cho vay. Tuy nhiên, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đại Dương, em nhận thấy việc thực hiện cho vay đảm bảo bằng tài sản có tồn tại một số hạn chế đòi hỏi cần có biện pháp khắc phục. Đây không chỉ là thực tế ở Ngân hàng Đại Dương nói riêng, mà còn là thực tế ở hầu hết các NH TMCP ở nước ta.
Trong vài năm gần đây, ngân hàng Đại Dương có sự phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hiệu quả và phát triển nhanh của Việt Nam.Tuy nhiên, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đại Dương, em nhận thấy việc thực hiện cho vay đảm bảo bằng tài sản có tồn tại một số hạn chế đòi hỏi cần có biện pháp khắc phục. Đây không chỉ là thực tế ở Ngân hàng Đại Dương nói riêng, mà còn là thực tế ở hầu hết các NH TMCP ở nước ta.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình, em xin chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng Đại Dương”, nghiên cứu và phân tích tình hình cho vay có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng Đại Dương, và mong muốn đóng góp một vài ý kiến hỗ trợ trong định hướng mở rộng hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo của Ngân hàng Đại Dương nói riêng và toàn ngành ngân hàng nói chung.
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG . 3
1.1. Quá trình hình thành và phát triển. 3
1.2. Phạm vi và nội dung hoạt động. 4
1.3. Cơ cấu tổ chức. 5
1.4. Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. 7
1.5. Tóm tắt quá trình thực tập. 8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG . 11
2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây. 11
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay có TSĐB 14
2.2.1. Quy định, chính sách tín dụng của ngân hàng. 14
2.2.2. Tình hình cho vay có TSĐB 15
2.2.2.1. Tài sản cầm cố thế chấp. 17
2.2.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. 21
2.2.2.3. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 21
2.3. Đánh giá hoạt động cho vay có TSĐB 22
2.3.1. Một số kết quả đạt được. 22
2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay có TSĐB 24
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ TSĐB 27
3.1. Định hướng pháp triển của ngân hàng. 27
3.1.1. Định hướng chung. 27
3.1.2. Định hướng của ngân hàng. 27
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay có TSĐB 29
3.2.1. Đa dạng hóa khách hàng . .29
3.2.2. Đa dạng hóa các loại hình cho vay có TSĐB 30
3.2.3. Nâng cao tính pháp lý trong các văn bản, nghị định. 32
3.2.4. Nâng cao trình độ của nhân viên tín dụng. 33
3.2.5. Nâng cao chất lượng thẩm định tài sản. 34
3.2.6. Tổ chức đánh giá lại giá trị TSĐB thường xuyên. 35
3.3. Một số kiến nghị 36
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ. 36
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước. 36
KẾT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 40
DANH MỤC BẢNG BIỂU 41
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng Đại Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng Đại Dương phát triển mạnh, khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm gần 85% hạn mức tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng Đại Dương), các doanh nghiệp này vay vốn tại Ngân hàng Đại Dương phần lớn là để thanh toán tiền hàng, đầu tư tài sản lưu động…Vì thế bên cạnh sử dụng sản phẩm tín dụng doanh nghiệp, các doanh nghiệp đến với Ngân hàng Đại Dương còn sử dụng kèm dịch vụ thanh toán nên hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế của Ngân hàng cũng được phát triển mạnh.
Trong dư nợ tín dụng, cho vay VNĐ vẫn chiếm chiếm tỷ trọng đa phần, cho vay ngoại tệ chủ yếu được áp dụng cho các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ như các công ty xuất nhập khẩu, các ngành dịch vụ có nguồn thu ngoại tệ…nên chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Đại Dương. Ngân hàng có tín dụng ưu đãi cho các công ty xuất khẩu theo chương trình hợp tác với Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hàng tháng Ngân hàng Đại Dương đã tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Tính đến 31/12/2010 tỷ lệ nợ loại 1 chiếm 95,03%; nợ loại 2 chiếm 2,76%; nợ loại 3 chiếm 0,24%; nợ loại 4 chiếm 0,65% và nợ có khả năng mất vốn chiếm 1,33% tổng dư nợ cho vay. Tổng nợ quá hạn cuối năm 2010 là 7.990.027.396 đồng, hàng tháng Ngân hàng đã tiến hành trích lập dự phòng cho các khoản nợ loại 2-5 nên chất lượng tín dụng được cải thiện đáng kể.
Thực trạng hoạt động cho vay có TSĐB:
Quy định, chính sách tín dụng của ngân hàng:
Qui định chung:
Tuân thủ pháp luật: Tất cả các công nhân viên chức NH Đại Dương có trách nhiệm tuân thủ qui định của pháp luật trong lĩnh vực NH, hoạt động tín dụng và các qui định liên quan khác.
Phải phù hợp với chiến lược hoạt động và phát triển của NH Đại Dương theo từng thời kỳ: Việc mở rộng tín dụng phải dựa trên chiến lược, định hướng của NH qua từng thời kỳ và giai đoạn.
Quan điểm bình đẳng và hướng tới khách hàng: Trong cấp tín dụng, NH Đại Dương không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu và thực hiện theo đúng qui trình cấp tín dụng.
Đề cao trách nhiệm cá nhân: NH đề cao trách nhiệm của cá nhân trong hoạt động tín dụng, tuân thủ các bước cấp tín dụng, các cá nhân được giao quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm đối với quyết định đó, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ đạo đức và nghiệp vụ.
2.2.1.2. Chính sách tín dụng của NH TMCP Đại Dương:
Chính sách cho vay:
- Đối tượng vay vốn: Mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn.
- Nguyên tắc cho vay:
+ Sử dụng đúng mục đích
+ Hoàn trả gốc và lãi đúng hạn
- Điều kiện cho vay:
+ Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự.
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
+ Có phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh khả thi và phù hợp với qui định của pháp luật.
- Mức cho vay: Điều này còn căn cứ vào: năng lực tài chính của khách hàng, TSĐB, mức độ khả thi của dự án, định hướng phát triển của Nhà nước...
- Thời hạn cho vay:
- Lãi suất cho vay: Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt theo qui định của NHNN, NH Đại Dương .
- TSĐB: Định giá TSĐB vô cùng quan trọng trong việc xác định hạn mức cho vay
Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:
- Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho một nhóm khách hàng, một ngành nghề.
- Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải thực hiện theo chế độ tập thể.
- Đối với các dự án có vốn vay trên 10 tỷ đồng thì phải trải qua 3 phòng: Phòng thẩm định dự án, phòng quản trị rủi ro và phòng quản lý nợ.
Tình hình cho vay có TSĐB:
Bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng cần vốn, đặc biệt hiện nay trong điều kiện các doanh nghiệp rất cần đi tắt đón đầu trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn lại càng có ý nghĩa rất quan trọng giúp doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Sở giao dịch đứng trên tư cách như là một NHTM cũng là một nơi để các doanh nghiệp huy động vốn. Khi cho vay, ngân hàng phải tuân thủ các quy chế về cho vay, quyết định về đảm bảo tiền vay và giao dịch đảm bảo.
Hiện nay căn cứ vào Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng NNVN ban hàn quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Quyết định số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11/01/2002 về sửa đồi điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHH; Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP ra ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, Nghị định 85/2002/NĐ- CP về sửa đổi bổ xung nghị định 178, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch đảm bảo; cùng với các Quyết định về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống Ngân hàng Đại Dương Việt Nam, trong năm qua hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng đã có những bước chuyển biến đáng kể.
Đảm bảo tiền vay là một điều kiện cho vay quan trọng, vì vậy trong quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước, Ngân hàng luôn xác định thực hiện bảo đảm tiền vay là điều kiện không thể thiếu trong quan hệ vay vốn, bảo lãnh và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Bảng 2.2: Doanh số cho vay theo các hình thức bảo đảm
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng DSCV
DSCV có BĐBTS
DSCV không có BĐBTS
%DSCV có BĐBTS/ Tổng DSCV
2007
1013,783
197,163
861,620
19,4%
2008
1371,625
310,400
1061,225
22.6%
2009
1833,723
610,740
1222,983
33,31%
20010
1682,586
758,227
924,359
45,06%
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của ngân hàng từ năm 2007-2010)
Vấn đề bảo đảm tiền vay trở thành một vấn đề rất cần thiết đối với công tác bảo toàn vốn và phát triển hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Sau 18 năm hoạt động, các khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các khách hàng quen,có mối quan hệ làm ăn lâu năm vì thế khoản mục cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm khá lớn trong doanh số cho vay của Ngân hàng. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do yêu cầu phát triển của nền kinh tế, hội nhập và mở cửa mà qua bảng trên ta thấy Ngân hàng Đại Dương đã chú ý nhiều tới vấn đề tài sản đảm bảo. Doanh số cho vay không có Bảo đảm bằng tài sản tuy chiếm một tỷ trọng lớn nhưng có xu hướng ngày càng giảm, doanh số cho vay có bảo đảm ngày càng tăng từ 19,4% (2007); 22.6% (2008); 33,31%(2009) tới 45,06% (2010). Có được điều này là do xuất phát từ phương châm đa dạng hoá khách hàng, hoạt động an toàn hiệu quả của Ngân hàng. Trong các loại hình bảo đảm tiền vay bằng tài sản thì hình thức bảo đảm tiền vay hình thành từ vốn vay tuy là hình thức mới song doanh số cho vay cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn trong các loại hình tài sản bảo đảm, tiếp theo đó là thế chấp, cầm cố và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản cầm cố thế chấp
Trong nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng hiện đại, việc thu hồi nợ từ thanh lý tài sản cầm cố thế chấp được coi là nguồn trả nợ thứ hai của dự án khoản vay ( nguồn trả nợ thứ nhất là từ nguồn thu của bên vay từ dự án). Vì vậy trong hoạt động của Ngân hàng, tài sản cầm cố, thế chấp cũng được nhiều chú ý và có bước tiến đáng kể.
Bảng 2.3 : Dư nợ cho vay có tài sản cầm cố, thế chấp
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
dư nợ
Dư nợ có BĐBTS
Dư nợ có TSĐB của khách hàng vay
DNTC/ dư nợ có ĐB
DNCC/ dư nợ có ĐB
Số tiền
Số tiền
%/ Tổng dư nợ
Cầm cố
Thế chấp
1
2
3
4
5
6
7
8
2006
862
129
15%
2,8
2,3
1,79%
2,17%
2007
930
197
21,24%
13,2
8,4
4,27%
6,7%
2008
1508,232
695,520
46,11%
85,751
52,079
7,49%
12,33%
2009
2050,689
1167,840
56,95%
29,629
57,882
4,96%
2,54%
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng Đại Dương năm 2007-2010)
Tài sản cầm cố:
Hiện nay tại Ngân hàng Đại Dương, đối tượng cho vay cầm cố chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình vay để sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và một số doanh nghiệp cầm cố động sản để vay vốn, mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất. Tài sản được dùng làm tài sản đảm bảo là các giấy tờ có giá như sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, cầm cố vàng kim khí quý và các tài sản khác mà độ an toàn tương đối cao, giá trị tín dụng cấp trên tài sản lớn. Đối với các tài sản cầm cố là các loại máy mc thiết bị, do điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển nên hầu hết các máy móc lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, hao mòn nhanh vì vậy sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc định giá các tài sản, hơn nữa đây là các loại tài sản có giá trị lớn, chuyên dùng để sản xuất một loại mặt hàng gây khó khăn trong việc phát nại và giá trị thu hồi không đảm bảo. Vì vậy tài sản mà Ngân hàng ưu đãi nhất hiện nay là sổ tiết kiệm, chiếm hơn 80% tổng số tài sản cầm cố.
Biểu đồ số 2.3: Tỷ trọng các loại tài sản cầm cố
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2010)
Doanh số và dư nợ cho vay cầm cố: Doanh số và dư nợ cho vay cầm cố chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng số tài sản bảo đảm tiền vay từ 2,17%; 6,7%; 12,33%; 2,5% , tỷ trọng này có xu hướng tăng qua các năm 2007-2009 và hơi giảm năm 2010 vì Ngân hàng có xu hướng sử dụng tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay hơn.
Hiện nay theo quy định của Ngân hàng Đại Dương, mức cho vay tối đa với tài sản cầm cố được quy định như sau:
Với tài sản cầm cố là giấy tờ có giá: Mức cho vay tối đa bằng số tiền gốc cộng lãi chứng từ có giá trừ số lãi phải trả cho ngân hàng trong thời gian xin vay.
Với tài sản cầm cố do khách hàng vay, bên bảo lãnh giữ sử dụng hoặc bên thứ ba giữ, mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm.
Với tài sản cầm cố do ngân hàng giữ. Mức cho vay tối đa bằng 75% giá trị tài sản bảo đảm.
Chất lượng các khoản cho vay cầm cố của sở giao dịch trong thời gian qua là rất hiệu quả, khách hàng luôn sử dụng tiền vay đúng mục đích và hoàn trả đúng thời hạn, Ngân hàng Đại Dương chưa phải xử lý tài sản cầm cố đối với bất kỳ một khoản vay nào để thu hồi nợ. Việc không phát sinh khoản nợ quá hạn trong cho vay cầm cố là một thành tích rất đáng biểu dương tạo tiền đề phát triển lâu dài cho hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố tại Ngân hàng Đại Dương.
Tài sản thế chấp.
Ngân hàng Đại Dương cho vay có tài sản thế chấp chủ yếu là các cá nhân, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân với mục đích xin vay phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tài sản thế chấp hiện nay chủ yếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và một số loại tài sản khác. Thế chấp quyền sử dụng đất là một vấn đề phức tạp hơn so với biện pháp bảo đảm khác vì nó liên quan tới đất đai (một thứ tài sản thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý). Do thực hiện đúng quyết định của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Đại Dương đã đánh giá hợp lý và chính xác tài sản thế chấp, trên cơ sở đó đưa ra các mức cho vay tương ứng linh hoạt.
Mức cho vay tối đa bằng 75% giá trị tài sản đảm bảo.
Riêng mức cho vay tối đa so với giá trị quyền sử dụng đất do Tổng giám đốc quy định cụ thể từng thời kỳ trong phạm vi mức nói trên.
Đối với bộ chứng từ xuất khẩu thế chấp cho vay mức cho vay tối đa bằng 100% giá trị bộ chứng từ hoàn hảo.
Trong các loại tài sản thế chấp thì hiện nay thế chấp bằng nhà cửa, vật kiến trúc được ưa chuộng hơn cả do thế chấp bằng nhà cửa, quyền sử dụng đất không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày của khách hàng vay. Hơn nữa ở nước ta cơ sở hạ tầng thấp, đời sống vật chất chưa cao nên đất đai nhà cửa vẫn là tài sản có giá trị nhất.
Biểu đồ số 2.4: Tỷ trọng các loại tài sản thế chấp
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2010)
Doanh số dư nợ và cho vay thế chấp: Qua bảng 2.3 ta thấy khối lượng tài sản thế chấp tăng nhanh qua các năm, từ 2,3 tỷ năm 2007 tới 57,882 tỷ năm 2010. Tuy nhiên tỷ trọng của tài sản thế chấp trên tổng doanh số tài sản đảm bảo là nhỏ, có tăng qua các năm nhưng mức tăng là không đáng kể. Điều này có thể do trong hoạt động cho vay thế chấp đã phát sinh nợ quá hạn, tuy nhiên đa số các khoản nợ này. Ngân hàng Đại Dương đều có khả năng thu hồi chỉ có một số ít buộc Ngân hàng phải bán đấu giá tài sản để thu nợ. Việc phát sinh nợ quá hạn cho thấy Bảo đảm tiền vay không phải là rào chắn rủi ro an toàn nhất để bảo vệ an toàn nguồn vốn tại Ngân hàng. Chính sự am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ, cộng với khả năng nắm bắt thông tin nhanh nhậy để phân loại, thẩm định chính xác và toàn diện khách hàng, phương án vay vốn…cùng với kỹ năng tạo lập các mối quan hệ bền vững với khách hàng mới là yếu tố then chốt bảo đảm chất lượng và hiệu quả tín dụng cũng như tăng trưởng bền vững trong hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng Đại Dương.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Hiện nay, bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro phổ biến nhất, được cả ngân hàng và khách hàng ưa chuộng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay luôn chiếm ưu thế vượt trội trong tổng khối lượng cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại các ngân hàng thương mại. Không nằm ngoài xu hướng đó, hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng Đại Dương luôn chiếm tỷ trọng cao, dư nợ không ngừng tăng lên đảm bảo cả về chất lượng và khối lượng tín dụng. Cụ thể là:
Bảng 2.4: Cho vay có TSĐB hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng Đại Dương năm 2007 – 2010
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
Tổng doanh số cho vay
DSCV có TSĐB
DSCV có BĐ bằng TSHTTVV
% so với tổng DSCV có TSĐB
2007
1013,783
197,163
150,011
76,08
2008
1371,625
310,400
250
80,54
2009
1833,723
610,740
421,265
68,97
2010
1682,586
758,227
612,807
80,82
(Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Ngân hàng năm 2007 – 2010)
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba cam kết với ngân hàng về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng. Trong thời gian qua, tài sản bảo lãnh của Ngân hàng Đại Dương còn rất khiêm tốn cả về số lượng khách hàng và khối lượng giao dịch do đây là một hình thức còn rất mới mẻ, khách hàng chưa quen sử dụng bởi vì trên thực tế: Với những khoản vay ngắn hạn, khách hàng thường sử dụng tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm cố, nếu là các khoản vay trung và dài hạn thì khách hàng sử dụng luôn tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho nghĩa vụ của mình. Hơn nữa tại Việt Nam không có nhiều tổ chức cá nhân đứng ra bảo lãnh bởi nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ với các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh còn chưa hoàn thiện và chưa phát huy được công dụng. Ngoài ra tiềm lực về tài chính của các tổ chức kinh tế ở Việt Nam còn nhiều yếu kém, chỉ riêng việc đảm bảo khả năng tự chủ tài chính cho mình còn khó khăn thì không thể đứng ra bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của người khác. Nói như trên không có nghĩa là hình thức bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba khả năng mở rộng và phát triển kém, mà ngược lại đây là hình thức có tiềm năng rất lớn và đang được Ngân hàng Đại Dương quan tâm thực hiện.
Đánh giá hoạt động cho vay có TSĐB
Một số kết quả đạt được:
Như vậy đến năm 2010, Ngân hàng Đại Dương đã thực hiện tốt các nhiệm vụ và hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu đặt ra. Nguồn vốn huy động đạt 85,4%,hoàn thành 124% kế hoạch; dư nợ cho vay đạt 105% chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2007 đặt ra.
Đến 31/12/2010, dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 2.788 tỷ đồng, tăng 374 tỷ đồng so với năm 2007, tốc độ tăng 15,5%, đạt 90% kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Đại Dương phù hợp với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn. Trong đó:
Dư nợ cho vay VND: 1.889 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68% trong tổng dư nợ, tăng 183 tỷ đồng so với đầu năm, tỷ lệ tăng 11%.
Dư nợ cho vay USD (quy VND): 899 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32% trong tổng dư nợ, tăng 191 đồng so với đầu năm, tỷ lệ tăng 27%.
Dư nợ cho vay ngắn hạn: 988 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,4% trong tổng dư nợ, tăng 73 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 8%.
Dư nợ cho vay trung, dài hạn: 1.800 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 64,6% trong tổng dư nợ, tăng 301 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 20%.
Dư nợ cho vay quốc doanh: 2.066 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 74% trong tổng dư nợ, giảm 6%.
Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh: 722 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26% trong tổng dư nợ, tỷ lệ tăng 6%.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đại Dương đã có sự chuyển biến tích cực về chất, mức độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và giám sát, cho vay thận trọng, không chạy theo số lượng và hướng tới một cơ cấu tín dụng cân đối, hợp lý. Chủ động rút dần dư nợ đối với doanh nghiệp yếu kém, dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. Dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo tăng 9% so với năm 2009. Trong năm đã có thêm 197 khách hàng là các DNNN, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc nhiều ngành hàng đến quan hệ tiền gửi và vay vốn tại Ngân hàng Đại Dương.
Vốn tín dụng đã được đầu tư có hiệu quả vào các doanh nghiệp, kinh doanh các ngành hàng lương thực thực phẩm, dược phẩm, hóa chất, ngành công nghệ truyền hình, bưu chính viễn thông, điện lực và dịch vụ giao thông vận tải. Cơ cấu khách hàng cũng từng bước được thay đổi, khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng tư nhân tăng lên rõ rệt, làm cho cơ cấu tín dụng bền vững hơn, phù hợp với chiến lược phát triển của Ngân hàng Đại Dương.
Chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt, các khoản cho vay đều được thẩm định chặt chẽ, nợ quá hạn giảm cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, dư nợ quá hạn cuối năm chỉ còn 7,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,26% trong tổng dư nợ cho vay.
Về kết quả thu hồi nợ tồn đọng: Ngân hàng Đại Dương đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hồi nợ quá hạn khó đòi như phát mại tài sản, bám sát đôn đốc khách hàng trả nợ khi có nguồn thu. Kết quả trong năm đã thu được 1 tỷ 932,5 triệu đồng. Tuy nhiên, kết quả thu hồi nợ đọng ngoại bảng còn thấp so với kế hoạch Ngân hàng đề ra.
Như vậy về hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả đáng tin cậy. Khoản cho vay có bảo đảm ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, trong đó bảo đảm tài sản bằng nguồn hình thành từ vốn vay chiếm khá lớn. Lượng khách hàng ngày càng được mở rộng và đa dạng hoá, góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng cao, bền vững và hiệu quả, làm lành mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Một số hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay có TSĐB
Một số những hạn chế trong hoạt động cho vay có TSĐB tại Ngân hàng Đại Dương
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực cho vay có TSĐB, nhưng bên cạnh đó việc nhận tài sản đảm bảo đang gặp không ít những hạn chế vướng mắc
về thủ tục và khả năng thẩm định. Những hạn chế còn đang tồn tại:
- Khó thanh lý các tài sản là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất hoặc có thanh lý được thì cũng không thu hồi đủ gốc và lãi vay.
- Hạn chế trong việc kiểm soát và xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ đối với những doanh nghiệp nhà nước do không có hoặc thiếu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu cần thiết của tài sản.
- Danh mục nhận các loại tài sản mà Ngân hàng có thể nhận thế chấp còn hạn chế.
Những hạn chế trên đây được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại.
Nguyên nhân chủ quan của Ngân hàng Đại dương
Là một tổ chức kinh tế hoạt động trong hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Đại Dương cũng chịu một sự cạnh tranh khá gay gắt trong việc tìm kiếm nguồn vốn huy động và tìm khách hàng cho vay vốn. Nền kinh tế thế giới đang trong quá trình hội nhập vì vậy các NHTM liên tục điều chỉnh tăng lãi suất do đó công tác quản trị rủi ro về lãi suất theo thị trường gặp khó khăn, do vậy mà Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn.
Những sơ sót trong công tác thẩm định: Hiện nay Ngân hàng còn thiếu rất nhiều những nhân viên có kiến thức sâu về các mảng kỹ thuật nghiệp vụ như xây dựng, đóng tàu,…một cán bộ tín dụng phải tìm hiểu rất nhiều kỹ thuật khác nhau do đó việc thẩm định các loại tài sản chủ yếu là trên những chỉ tiêu tài chính và hiệu quả đạt được, đôi khi nó mang tính chất dự đoán của cán bộ tín dụng vì vậy kết quả tất yếu là các khoản thẩm định thiếu sự toàn diện và chính xác trong kết luận. Mặc dù mạng lưới và hệ thống thông tin đã được cải thiện rất nhiều nhưng hiện nay ở Ngân hàng chưa có phòng quản lý các thông tin và xếp loại tín dụng cho khách hàng do đó công tác thu thập và xử lý thông tin thiếu tính hệ thống, chất lượng thông tin không cao, khả năng tích hợp các thông tin còn yếu do đó việc xếp loại tín nhiệm khách hàng còn chưa thực hiện được. Việc đánh giá khách hàng chủ yếu dựa vào chủ quan và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, theo góc độ khoa học thì việc đánh giá mang tính chủ quan sẽ ẩn chứa rất nhiều rủi ro.Tuy nhận thức rõ được các hạn chế đó nhưng trong điều kiện hiện tại không cho phép nên các cán bộ tín dụng của Ngân hàng vừa phải tự thu thập thông tin, tự đánh giá thẩm định, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và khắc phục các khó khăn. Vì vậy điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai các nghiệp vụ bảo đảm của nguồn vốn.
Nguyên nhân khách quan:
- Đối với tài sản cầm cố, thế chấp:
Hiện nay Ngân hàng Đại Dương thực hiện cầm cố các loại tài sản được quy định tại nghị định 178/1999/NĐ- CP. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn có nhiều những bất cập. Theo quy định của Ngân hàng nhà nước, khi cầm cố tài sản, bảo lãnh bằng tài sản, các bên được thoả thuận về việc khách hàng vay, bên bảo lãnh hoặc bên thứ ba giữ tài sản cầm cố, nghĩa là khách hàng vay có thể giữ tài sản là máy móc, thiết bị, dây chuyền. Nhưng theo quy định của Bộ luật dân sự nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu, thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Như vậy ở đây có sự thiếu nhất quán và gây khó khăn cho Ngân hàng khi nhận máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất làm bảo đảm tiền vay.
Việc thẩm định tài sản bảo đảm còn nhiều thiếu xót và tắc trách, đánh giá chưa sát sao với giá trị thực của tài sản, chủ quan trong việc xác minh tính đúng đắn và hợp pháp của giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất. Điều này gây ra nhiều bất lợi cho Ngân hàng Đại Dương, đòi Ngân hàng phải có biện pháp xử lý tài sản đảm bảo hiệu quả. Song ngay trong công tác xử lý tài sản để thu hồi nợ cũng còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân bao gồm cả chủ quan và khách quan. Ngân hàng vẫn phải theo đuổi những vụ tranh chấp tại toà kinh tế tốn rất nhiều công sức, thời gian, tiền của trong khi việc đôn đốc trả nợ còn nhiều khó khăn, tốc độ thu hồi còn chậm.
Đối tượng khách hàng của Ngân hàng còn bó hẹp trong một số ngành và một số lĩnh vực, chưa tiếp cận nhiều trong việc cấp tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là thành phần kinh tế liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Do vậy khối lượng tín dụng nhỏ lẻ, danh mục tài sản được chấp nhận cho cầm cố, thế chấp cũng chưa đa dạng về mặt thực tiễn.
- Bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh:
Hiện nay việc bảo lãnh của Tổng công ty cho các doanh nghiệp thành viên tại Ngân hàng được hạch toán độc lập. Theo thông tư 06/2000 của NHNN quy định “Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Tổ chức tín dụng bên bảo lãnh có thể thoả thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện trong nghĩa vụ bảo lãnh”. Tuy nhiên trong thực tế do doanh nghiệp thành viên không hội đủ các tài sản bảo đảm, do vậy tổng công ty đứng ra bảo lãnh, nhưng việc bảo lãnh này là rất khó khăn do hầu hết tài sản của Tổng công ty thuộc quyền quản lý của các doanh nghiệp thành viên, tài sản riêng của Tổng (văn phòng công ty) thường rất nhỏ. Do đó nếu yêu cầu bảo lãnh bằng tài sản sẽ gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp thành viên, vì vậy để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Đại Dương đề nghị cho phép tổng công ty bảo lãnh bằng khả năng tài chính chứ không bảo lãnh bằng tài sản.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CÓ TÀI SẢN ĐẢM BẢO TẠI NGÂN HÀNG ĐẠI DƯƠNG
Định hướng pháp triển của NH
Định hướng chung
Mục tiêu và nhiệm vụ xuyên suốt trong năm 2011 của ngành Ngân hàng Hà Nội là nghiêm túc thực hiện yêu cầu, chỉ đạo của NHNN Việt Nam, thành phố Hà Nội; thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung, giải pháp về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và ngân hàng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị của NHNN và chỉ đạo của Thành ủy, UBND TP Hà Nội. Các chỉ tiêu tổng thể (định hướng chung cho ngành Ngân hàng Hà Nội) được đưa ra gồm:
Tổng vốn huy động tăng 25% - 27% so với năm 2010
Tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế phù hợp với mục tiêu tốc độ tăng tín dụng dưới 20% so với năm 2010 của hệ thống Ngân hàng;
Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ nhỏ hơn 3%;
Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập là 25%;
Định hướng của NH
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế ngày càng mở rộng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Đại Dương nói riêng gặp không ít khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực nhất là đối hoạt động tín dụng. Bước sang 2011, trên cơ sở kết quả kinh doanh các năm 2008, 2009, 2010 và căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ và các biện pháp kinh doanh Ngân hàng Đại Dương đề ra nhiệm vụ kinh doanh cho năm 2011, cụ thể như sau:
Các mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2011:
- Nguồn vốn huy động duy trì ở mức 18.000tỷ đồng (cao hơn mức bình quân năm 2010)
- Dư nợ cho vay tăng 15% so với năm 2010
- Lợi nhuận hạch toán nội bộ 400 tỷ đồng.
- Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 1%.
- Thu phí dịch vụ từ 10 tỷ đồng. (tăng 20% số thực hiện năm 2007).
- Thu nợ khó đòi ngoại bảng 2 tỷ đồng.
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp Nhà nước chiếm 70% trong tổng dư nợ.
- Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo chiếm 58% trong tổng dư nợ.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, Ngân hàng cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:
a. Đẩy mạnh khai thác mọi nguồn vốn, hướng tới việc tạo lập một cơ cấu nguồn vốn cân đối, chi phí đầu vào thấp.
Bằng mọi biện pháp để duy trì các khách hàng truyền thống. Giao trách nhiệm cụ thể cho các phòng nghiệp vụ và phòng giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng chủ động đưa ra biện pháp thu hút vốn khi có nguồn thu. Làm tốt công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng kể cả doanh nghiệp và dân cư có nguồn tiền gửi lớn, để đàm phán giữ nguồn khi đến hạn, tuyệt đối không để khách hàng rút tiền gửi ngân hàng khác vì chưa được quan tâm đầy đủ.
Nghiên cứu, phân tích thị trường, tìm kiếm các đơn vị là các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có nguồn thu để khai thác vốn. Thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền để thu hút nguồn vốn từ dân cư. Tiếp tục đưa ra các hình thức khuyến mãi mới (quà tặng, các chính sách lãi suất) phù hợp,hấn dẫn khách hàng gửi tiền. Có chính sách chăm sóc khách hàng đặc biệt để duy trì ổn định khách hàng tiền gửi truyền thống.
b. Tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý, giám sát, hướng tới một cơ cấu tín dụng an toàn. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo định hướng của Ngân hàng nhà nước.
Tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với khả năng quản lý, giám sát của Ngân hàng. Kiên quyết thực hiện chính sách cho vay có chọn lọc để đảm bảo an toàn vốn. Luôn cập nhật thông tin về khách hàng, ngành hàng để đầu tư vốn đúng hướng. Thường xuyên phân tích và nắm vững tình hình kinh doanh, kết quả tài chính của khách hàng để đầu tư đúng hướng và hiệu quả. Giảm dần dư nợ hoặc chấm dứt quan hệ tín dụng đối với khách hàng làm ăn yếu kém, có dấu hiệu chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Tuyệt đối không để nợ quá hạn mới phát sinh.
Đẩy mạnh công tác tiếp thị để thu hút khách hàng vay mới, chú trọng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, hộ gia đình để tăng dư nợ ngắn hạn, dư nợ ngoài quốc doanh. Rà soát, đánh giá lại toàn bộ khách hàng đang có dư nợ không có tài sản đảm bảo, đốc thúc khách hàng bổ sung tài sản để nâng dần tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo trong tổng dư nợ. Tiếp tục thực hiện các biện pháp để tận thu các khoản nợ khó đòi đã được xử lý hạch toán ngoại bảng.
c. Tập trung phát triển hoạt động dịch vụ để tăng thu phí dịch vụ trong tổng thu nhập phù hợp với sự phát triển của một ngân hàng hiện đại.
Đây là một nhiệm vụ trọng yếu trong xu thế cạnh tranh và hội nhập và là hướng đi tất yếu để đa dạng hóa nguồn thu. Trước hết, cần hoàn thiện và mở rộng các sản phẩm dịch vụ hiện có, nghiên cứu và đưa vào ứng dụng sản phẩm dịch vụ mới trên cơ sở khai thác tiện ích của công nghệ ngân hàng hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh dịch vụ cho vay hỗ trợ học sinh du học, có kế hoạch tiếp thị ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ Internet banking, nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng về thông tin nhanh chúng, kịp thời.
Tiếp tục giao chỉ tiêu phát triển thẻ ATM, Visa, trả lương cho từng phòng nghiệp vụ. Chủ động làm việc với các đơn vị có quan hệ gửi tiền, vay vốn để ký hợp đồng mở và chuyển lương qua thẻ. Khảo sát địa điểm thích hợp để đặt máy ATM mới và cơ sở chấp nhận thẻ.
Tuyệt đối không để xảy ra rủi ro, thất thoát tài sản của ngân hàng và khách hàng.
Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay có TSĐB
Đa dạng hóa khách hàng:
Đây được coi là giải pháp chiến lược của Ngân hàng Đại Dương. Với lợi thế có tập đoàn Đại Dương là một trong những đối tác chiến lược, cổ đông lớn của ngân hàng, ngân hàng có lợi thế rất lớn về gia tăng số lượng khách hàng. Đối tượng khách hàng không chỉ là các doanh nghiệp lớn, mà còn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, hộ gia đình. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay, việc đa dạng hóa khách hàng là rất quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng. Đặc biệt, với việc bán 30% cổ phần cho tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Ngân hàng Đại Dương có cơ hội cấp tín dụng cho hàng nghìn công ty trong tập đoàn tài chính Dầu khí. Trong xu hướng hiện nay, theo định hướng của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa được đánh giá là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và được ưu tiên khuyến khích phát triển. Do đặc điểm riêng của loại hình này là hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng hiện tại vướng mắc lớn nhất mà các doanh nghiệp này gặp phải chính là tạo được nguồn vốn để tái sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng mang lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng. Với việc mở rộng mối quan hệ của mình với các doanh nghiệp, Ngân hàng Đại Dương sẽ nhanh chóng mở rộng hoạt động cho vay của mình, đồng thời đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn để tái sản xuất. Qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đa dạng hóa các loại hình cho vay có TSĐB
Đây là giải pháp rất cần thiết và xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, vì để bảo đảm an toàn khi cho vay thì cần phải có tài sản bảo đảm tiền vay. Thực tế cho thấy, diễn biến của nền kinh tế thường xuyên biến động, hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, vì vậy bảo đảm tiền vay là một yếu tố cần thiết. Tuy nhiên việc xác định giá trị tài sản bảo đảm cần đảm bảo tính khách quan, tài sản đảm bảo phải có khả năng chuyển nhượng, đủ điều kiện pháp lý. Ngân hàng Đại Dương nên thường xuyên thu thập thông tin về tài sản cùng loại qua thị trường và trung tâm bán đấu giá sẽ giúp Ngân hàng có cơ sở xác định giá tài sản bảo đảm.
Hầu hết mọi tổ chức tín dụng đều đưa ra định hướng là tăng cường cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong khi thực tế tài sản của khách hàng nhất là đối với doanh nghiệp nhà nước rất thấp so với dư nợ tại ngân hàng. Hiện nay danh mục tài sản đảm bảo thường giới hạn trong những tài sản thông dụng và có độ an toàn cao như: Sổ tiết kiệm, trái phiếu, nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, máy móc thiết bị…Còn các loại tài sản khác như quyền sở hữu công nghệ, phát minh sáng chế, hợp đồng bán hàng, hàng hoá, các khoản phải thu, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng nhận thầu..hầu như chưa xuất hiện hoặc có nhưng rất ít mặc dù đây là những loại tài sản có rất nhiều ưu điểm. Giả sử chúng ta cầm cố hàng hoá, khi khoản nợ vay không thực hiện được thì việc thanh lý hàng hoá sẽ dễ dàng hơn bất động sản rất nhiều, đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp thực hiện dự trữ vật tư hàng hoá theo chu kỳ thời vụ nhằm ổn định sản xuất và đáp ứng yêu cầu của thị trường. Muốn mở rộng hoá được các loại hình tài sản trên cần:
+ Trước tiên Ngân hàng Đại Dương cần thu hút nhiều khách hàng tham gia vay vốn, bám sát tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước của các bộ, các ngành, tổng công ty, thường xuyên tiếp cận nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp đang có qua hệ tín dụng với Ngân hàng Đại Dương nhằm đảm bảo an toàn hiệu quả.
Tổ chức phân tích tài chính, phân loại khách hàng để có được định hướng đầu tư với từng loại khách hàng cụ thể, tăng cường tiếp cận với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp dân doanh sản xuất kinh doanh hiệu quả để thiết lập và mở rộng quan hệ tín dụng thanh toán. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay, quyền sở hữu về tài sản đang trong tình trạng rắc rối về mặt pháp lý do đó trong những trường hợp cụ thể cán bộ tín dụng phải xác định tầm quan trọng của mỗi yếu tố, cân nhắc điều kiện cần và đủ của chúng để có thứ tự ưu tiên lựa chọn tài sản nào có thể bảo đảm được nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Như đối với các doanh nghiệp nhà nước yêu cầu tài sản đảm bảo loại một là rất khó khăn vì vậy ngân hàng phải ưu tiên cho tính hiệu quả của các dự án, trong khi đó với khách hàng là các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp lớn nếu ngân hàng yêu cầu tài sản quá khắt khe mà không mở rộng các tài sản đảm bảo và có thể không cho vay nữa ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng, việc bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào cũng có thể làm cho ngân hàng thiếu sức hút đối với khách hàng.
+ Bên cạnh đó, Ngân hàng Đại Dương cần có một đội ngũ cán bộ có kiến thức về các quyền liên quan đến tài sản, các lĩnh vực kinh tế, thương mại, tổ chức những buổi tập huấn nâng cao trình độ cán bộ về quyền tài sản, tuyển dụng các nhân viên có kiến thức về kinh tế, thương mại, xây dựng ( như kỹ sư xây dựng, kỹ sư giao thông), thiết lập quan hệ với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước để có thể triển khai hoạt động bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm.
Yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm ngoài tài sản của khách hàng như dùng tài sản của các cá nhân (chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng, thành viên hội đồng quản trị…) để bảo lãnh vay vốn ngân hàng, áp dụng các biện pháp cầm cố quyền đòi nợ, bảo lãnh của tổng công ty. Hiện nay, việc mua bảo hiểm nhân thọ đối với các cá nhân là rất phổ biến, giá trị của hợp đồng cũng khá cao, do đó nếu ngân hàng nhận cầm cố hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ tương đối thuận tiện vì tính thanh khoản cao và ít tốn kém về chi phí quản lý, đồng thời thu hút số lượng khách hàng mới. Giảm dần dư nợ nếu khách hàng không đáp ứng đủ điều kiện tài sản đảm bảo theo quy định của ngân hàng.
Khi nhận tài sản đảm bảo ngân hàng phải thường xuyên xem xét tính hợp pháp, hợp lệ, tính thị trường của tài sản đó. Tránh trường hợp hiện nay khi ngân hàng yêu cầu khách hàng cung cấp tài sản bảo đảm thì khách hàng có xu hướng đưa ra bất kỳ tài sản nào mà họ nghĩ là có thể cầm cố thế chấp được mà chưa cần biết là tài sản nào thì đủ điều kiện làm tài sản đảm bảo, vì vậy rất cần có hướng dẫn cụ thể với khách hàng vay vốn về các tiêu chuẩn đó.
Mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế liên doanh và thành phần kinh tế 100% vốn nước ngoài, qua đó mà các loại hình tài sản đảm bảo sẽ được mở rộng, hạn chế cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả. Để bắt đầu quá trình mở rộng trên Ngân hàng Đại Dương có thể áp dụng những tài sản mới này đối với các doanh nghiệp có uy tín, dự án kinh doanh khả thi, rủi ro thấp, chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, từ việc thử nghiệm đó mà Ngân hàng Đại Dương sẽ rút ra được những bài học và kinh nghiệm, đưa ra các chính sách hợp lý khuyến khích khách hàng sử dụng các loại tài sản mới phù hợp cho từng đối tượng khách hàng. Đây là một quá trình tương đối khó khăn và lâu dài vì với mỗi một hình thức bảo đảm mới cũng đòi hỏi ngân hàng phải tốn thêm chi phí để nghiên cứu, và có độ an toàn không cao bằng các tài sản thông dụng do đó đòi hỏi Ngân hàng Đại Dương phải có một chiến lược và kế hoạch cụ thể để xây dựng một quy trình cho vay theo các hình thức tài sản đảm bảo mới có hiệu quả và chất lượng.
Nâng cao tính pháp lý trong các văn bản, nghị định.
Vấn đề bảo đảm tiền vay cũng rất cần phải có đủ các luật hay một luật chung mang tính chuyên ngành, có tính hệ thống để điều chỉnh nó nhằm tạo môi trường pháp lý cho hoạt động bảo đảm, phù hợp với thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng. Tuy đã được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý của Chính phủ, của ngành Ngân hàng nhưng trong thực tế việc vận dụng lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Vì vậy trước hết cần xác định bảo đảm tiền vay chỉ là nhằm tạo cơ sở pháp lý cho khoản vay, hạn chế rủi ro chứ không phải mục đích là khi không thu được nợ thì ngân hàng lấy tài sản đó để xử lý thu nợ hoặc khách hàng cũng không muốn đưa tài sản hay bán tài sản để cấn trừ nợ mà vấn đề chính là cả ngân hàng và khách hàng muốn khoản nợ cho vay ra đều thu hồi về trên cơ sở khách hàng có nguồn thu trả nợ từ việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Do đó vấn đề này nên để ngân hàng và khách hàng tự quyết định trên cơ sở giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng chủ động trong các thủ tục về giao dịch bảo đảm.
Việc định giá tài sản để đảm bảo khoản vay, ngân hàng nên quy định theo hướng cho phép tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận giá trị tài sản đảm bảo phù hợp với thực tế tại thời điểm vay và tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về giá trị tài sản này. Việc định giá tài sản để đảm bảo khoản vay nên lập riêng biên bản định giá tài sản đảm bảo vì đây là cơ sở thoả thuận giá trị định giá tài sản thế chấp, cầm cố giữa ngân hàng và khách hàng. Mặt khác cũng để nhằm đảm bảo đầy đủ thủ tục theo yêu cầu của cơ quan công chứng trong trường hợp phải ra công chứng thực.
Đối với các tài sản là quyền sử dụng, tài sản gắn liền với đất đai khi thế chấp, bảo lãnh chỉ cần quy định đăng ký qua giao dịch bảo đảm, không nhất thiết phải qua công chứng tài sản bảo đảm hay không là do khách hàng tự thoả thuận…vv
Ban hành các quy định về thanh lý tài sản cầm cố, thế chấp phù hợp với thực trạng giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của giai đoạn trước đây. Đồng thời nghiên cứu để sớm đưa thị trường bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp vào hoạt động để giúp ngân hàng nhanh chóng xử lý được tài sản cầm cố thế chấp, những khoản nợ khó đòi. Có những quy định cụ thể các tiêu chuẩn tối thiểu đối với tài sản cầm cố thế chấp trong đó ngoài việc bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản còn phải tính đến khả năng phát mại tài sản trên thị trường. Tránh việc nhận cầm cố, thế chấp những tài sản mà tính lỏng thanh khoản quá thấp…
Nâng cao trình độ của nhân viên tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, năng lực quản trị kinh doanh, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo nên năng lực quản trị, điều hành của NHTM, do đó NHTM cần quan tâm đến công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, hiểu biết về pháp luật và kiến thức về quản trị rủi ro ngân hàng để bộ máy NHTM hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Như ta đã biết, rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở nước ta hầu hết đều bắt đầu từ việc thực hiện những nghiệp vụ cụ thể. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn bất cập, hoặc do ý thức trách nhiệm không cao hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên đã vi phạm quy trình nghiệp vụ, cơ chế chính sách pháp luật dẫn đến những thất thoát tài sản của ngân hàng do đó đội ngũ nhân viên đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
Sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công nhân viên nghiệp vụ, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của mỗi người sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Nâng cao kiến thức về quản trị nguồn nhân lực đối với cán bộ quản lý các cấp giúp NHTM sử dụng đúng người, đúng việc, theo nguyên tắc “ Căn cứ vào công việc để bố trí lao động” hạn chế rủi ro trong kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng. Để phát triển nguồn nhân lực Ngân hàng Đại Dương có thể tiến hành tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nhân lực; lựa chọn và phân hạng nhân lực, chức danh, tiền lương và chế độ khen thưởng, khuyến khích, các nguyên tắc giao tiếp nôi bộ. Với mục tiêu nâng cao tầm và kỹ năng cán bộ lãnh đạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu, có khả năng quản trị công nghệ hiện đại và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt.
Nâng cao chất lượng thẩm định tài sản
Thẩm định tài sản là một khâu không thể thiếu của ngân hàng trong quá trình nhận tài sản đảm bảo, là cơ sở xác định mức cho vay tối đa và tính toán khả năng trả nợ của khách hàng. Vì vậy việc định giá chính xác tài sản đảm bảo sẽ giúp ngân hàng ra quyết định cho vay đúng đắn, vừa tạo dựng mối quan hệ an toàn giữa ngân hàng và khách hàng, tránh hiện tượng nếu ngân hàng định giá giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn giá trị thực của nó điều này sẽ gây thiệt hại cho người vay và nếu ngân hàng định giá cao hơn so với giá trị thực của tài sản khi đó mức cho vay của ngân hàng sẽ cao, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngân hàng nếu khách hàng không thanh toán được nợ. Muốn nâng cao chất lượng thẩm định Ngân hàng Đại Dương cần chú ý:
Cần bố trí những cán bộ có trình độ kinh nghiệm về nghiệp vụ tín dụng, thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận, những khóa học về thẩm định dự án để cập nhập thông tin, cách thức thẩm định. Ngân hàng cũng cần áp dụng công nghệ phần mềm về thẩm định dự án, trên cơ sở đó để đưa ra các kết quả chính xác và nhanh chóng. Xây dựng một số tiêu thức định giá giá trị tài sản đảm bảo dựa trên những thông tin xác thực, lập hội đồng định giá tài sản để có quyết định chính xác hơn, có thông tin đầy đủ hơn về tài sản.
Ngoài ra để nâng cao chất lượng thẩm định, cán bộ tín dụng không chỉ thẩm định khi cho vay, mà cả sau khi cho vay để đánh giá hiệu quả của dự án đã đầu tư. Thực hiện thẩm định như vậy là một biện pháp để ngăn chặn và phát hiện kịp thời các sai sót trong cho vay, phát hiện doanh ngiệp có sử dụng đúng như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng hay không, đánh giá tình trạng của tài sản đảm bảo đồng thời giám sát quá trình sử dụng tài sản đảm bảo của khách để xem có đúng mục đích hay không và có biện pháp xử lý kịp thời.
Tổ chức đánh giá lại giá trị TSĐB thường xuyên
Tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng khi nguồn thu nợ thứ nhất không thể thực hiện được. Do đó giá trị của tài sản đảm bảo có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ an toàn của khoản vay. Để biết được giá trị của tài sản Ngân hàng Đại Dương nên thường xuyên đánh giá lại giá trị của tài sản, tài sản trong quá trình sử dụng phải chịu tác động của nhiều yếu tố như môi trường, mức biến động giá cả trên thị trường, hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình. … vì vậy để đánh giá được chính xác nhất giá trị tài sản ngân hàng phải thường xuyên thu thập thông tin giá cả của các tài sản tương đương trên thị trường, xác định mức khấu hao hợp lý cho mỗi tài sản. Trong quá trình đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo, nếu như giá trị của nó hao hụt nhanh, không thể bù đắp gía trị của các khoản vay thì ngân hàng có thể giảm giá trị các khoản vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ xung thêm tài sản đảm bảo, và Ngân hàng Đại Dương phải lập quỹ dự phòng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Một số kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ:
Như ta đã thấy, hệ thống văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay hiện nay là khá nhiều thế nhưng hiệu quả của chúng chưa cao. Các văn bản khi được ban hành còn rất nhiều bất cập, chồng chéo chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của các bên thực hiện bảo đảm tiền vay, và cũng chưa có những hình thức xử phạt hợp lý đối với khách hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Do đó Chính phủ cần phải chú ý tới các vấn đề:
Tiếp tục thực hiện việc rà soát, tập hợp thống nhất hoá các quy định hiện hành về cơ chế cho vay và bảo đảm tiền vay, giao dịch bảo đảm cho phù hợp với các luật liên quan đến hoạt động ngân hàng như luật các tổ chức tín dụng, luật doanh ngiệp…nhằm loại bỏ bớt những chồng chéo và không thống nhất của chúng
Sớm ban hành luật bất động sản hoặc trong khi chờ luật ban hành cần phải có biện pháp chấn chỉnh tình hình biến động đất đai, tránh tạo cơn sốt giả tạo nhằm ổn định thị trường bất động sản và sớm phát triển thị trường này một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó cần có các quy định riêng về việc xử lý tài sản của các doanh nghiệp nhà nước khi không trả được nợ vay.Trong khi chưa có quyết định giao đất chính thức cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng khu dân cư, Chính phủ nên có văn bản hướng dẫn cách xử lý cho các cơ quan chức năng thực hiện tạo điều kiện để các doanh nghiệp có giấy tờ pháp lý làm cơ sở cho việc vay vốn.
Quy định rõ trách nhiệm của các bên khi tham gia hợp đồng bảo đảm tiền vay, khi bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ ngân hàng có quyền thu hồi và phát mại tài sản, nếu bên cho vay không giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền nhờ các cơ quan luật pháp cưỡng chế thi hành
Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Để hoạt động bảo đảm tiền vay tiến hành một cách thuận lợi và dễ dàng hơn Ngân hàng nhà nước cần chú ý một số vấn đề sau:
Nên chỉ đạo các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố làm đầu mối để phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc giải quyết các vướng mắc của Ngân hàng thương mại nhà nước trên địa bàn về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thu hồi nợ cho ngân hàng.
Kịp thời ban hành các văn bản nghị định hướng dẫn thực hiện các quy định mới của pháp luật, phổ biến tới các ngân hàng sự thay đổi trong hướng điều chỉnh để các ngân hàng chủ động hơn trong cho vay. Đồng thời ngân hàng nhà nước nên giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các ngân hàng trong các hoạt động kinh doanh.
Để mở rộng danh mục các tài sản bảo đảm như cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khi cho vay, Ngân hàng nhà nước cần khẩn trương ban hành thông tư hướng dẫn và thực hiện pháp lệnh thương phiếu và hình thành thị trường mua bán nợ.
Hiện nay bộ luật dân sự 2005 đã ra đời và có nhiều quy định rất rõ ràng, tôn trọng sự thoả thuận của các bên trong quá trình vay vốn, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thu hồi nợi vay có bảo đảm bằng tài sản để quay vòng vốn kinh doanh. Vì vậy Ngân hàng nhà nước sớm xây dựng và hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm tiền vay để trình Chính phủ xem xét, ký ban hành làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện. Văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay trình Chính phủ cần được xây dựng trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp và sửa đổi bổ sung những quy định cũ trong nghị định 178, nghị định 85 cho phù hợp với quy định của bộ luật dân sự 2005. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các ngân hàng và khách hàng trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế.
KẾT LUẬN
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong nền kinh tế mang tầm quan trọng như hệ thống mạch máu trong cơ thể. Do đó một nền kinh tế phát triển khi và chỉ khi có một thị trường tài chính nói chung và một hệ thống ngân hàng nói riêng hoạt động vững mạnh. Xác định được tầm quan trọng của mình, các ngân hàng luôn coi tiêu chí chất lượng và an toàn là phương châm cho hoạt động của tốt nhất. Vì vậy khoản mục tài sản đảm bảo luôn được các ngân hàng coi trọng. Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đại Dương, em nhận thấy Ngân hàng đã rất chú ý tới vấn đề trên, tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn có một số vướng mắc nhất định. Trước tình trạng này đòi hỏi phải có một sự kết hợp chặt chẽ giữa ngân hàng với khách hàng, cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho ngân hàng trong quá trình hoạt động. Trên cơ sở của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp có thể những giải pháp nêu trên là chưa thực sự hoàn chỉnh nhưng em rất mong sẽ đóng góp một phần nào trong việc giảm thiểu những rủi ro mà ngân hàng mắc phải trong hoạt động tín dụng.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngân hàng Đại Dương (2007 – 2010), Báo cáo hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng Đại Dương (2009), Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng.
Ngân hàng Đại Dương (2010), Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2010 và triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2011.
Ngân hàng Đại Dương (2007 – 2010), Bảng cân đối vốn kinh doanh.
Ngân hàng Đại Dương (2007 – 2010), Bảng tổng kết cơ cấu dư nợ cho vay.
Ngân hàng Đại Dương (2006 – 2009), Bảng tổng kết thực trạng chất lượng tín dụng.
Ngân hàng Đại Dương (2007 – 2010), Bảng tổng kết tình hình huy động vốn.
Ngân hàng Đại Dương, Các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Ngân hàng Đại Dương (2007), Quy trình nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
Ngân hàng Đại Dương (2009), Quy chế của ngân hàng.
Frederic S.Mishkin (1994), Tiền tệ, ngân hàng & thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr.61 – 140, Hà Nội.
Peter S. Rose (2004), Giáo trình quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính, tr.695 – 710, tr.716 – 718, Hà Nội.
Ngày 20/04/2011, Website:
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
TSĐB
NH TMCP
UBND
VNĐ
DNVVN
CNTT
TGTK
TCKT
NHNN
NHTM
DSCV
BĐBTS
DNTC
DNCC
TNHH
TSHTTVV
DNNN
USD
Nguyên nghĩa
Tài sản đảm bảo
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ủy ban nhân dân
Việt Nam đồng
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Công nghệ thông tin
Tiền gửi tiết kiệm
Tổ chức kinh tế
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Doanh số cho vay
Bảo đảm bằng tài sản
Dư nợ thế chấp
Dư nợ cầm cố
Trách nhiệm hữu hạn
Tài sản hình thành từ vốn vay
Doanh nghiệp nhà nước
Đô la Mỹ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 - Hoạt động huy động vốn của NH Đại Dương năm 2007 - 2010 11
Bảng 2.2: Doanh số cho vay theo các hình thức bảo đảm 16
Bảng 2.3 : Dư nợ cho vay có tài sản cầm cố, thế chấp 17
Bảng 2.4: Cho vay có TSĐB hình thành từ vốn vay tại NH Đại Dương năm 2007 – 2010 21
Biểu đồ số 2.1: Tổng dư nợ tín dụng của NH Đại Dương 2009 - 2010 12
Biểu đồ số 2.2: Phân loại dư nợ tín dụng năm 2010 13
Biểu đồ số 2.3: Tỷ trọng các loại tài sản cầm cố 18
Biểu đồ số 2.4: Tỷ trọng các loại tài sản thế chấp 20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 330 bao cao ngoai thuong.doc