Đề tài Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên Huế

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự do tiếp cận nhu cầu thị trường để lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh của mình, bao gồm chiến lược tài chính, nhân sự kỹ thuật-công nghệ, liên doanh liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Bằng các công cụ quản lý vĩ mô mà trước hết là công cụ pháp luật, Nhà nước tạo “hành lang” và điều tra phối hợp hoạt động nhằm khuyến khích cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì Nhà nước giữ vai trò là người hướng dẫn các doanh nghiệp vào thị trường thế giới vừa đảm bảo các bên cùng có lợi, vừa giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Từ năm 1988 khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chính thức có mặt tại Việt Nam. Qua hơn 20 năm vận động và phát triển đến nay, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Khu vực kinh tế này đã có những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, cho kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nuớc ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn chỉ số phát triển chung của cả nước. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm của cả nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối ổn định (tăng trung bình 1,5%/ năm) khu vực này còn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án có vốn đầu tư nuớc ngoài bằng 39-40% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Từ đó có thể thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tình hình kinh tế thời gian qua đã trải qua nhiều biến động. Điều đó đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế nuớc ta. Trong khi đó chính sách pháp luật tại Việt Nam mới ở mức “tháo gỡ”. Còn nhiều quy định cản trở đầu tư cần gỡ bỏ. Không nói đến việc các luật, nghị định bị “treo”, mà tư duy quản lý kinh tế ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên-Huế nói riêng cũng còn nhiều điểm đáng lo nghĩ. Đây chính là một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển của kinh tế nước ta. Vì các lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên-Huế” nghiên cứu đề tài này sẽ tìm ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiến tới hoàn thiện một số điều của Luật đầu tư, xây dựng Luật doanh nghiệp thống nhất góp phần khắc phục những khó khăn trong quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như tại Thừa Thiên-Huế trong thời gian tới. Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu đề tài. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3 4. Phương pháp nghiên cứu. 3 5. Bố cục đề tài. 3 PHẦN NỘI DUNG 4 Chương 1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 4 1.1. Khái niệm và vai trò quản lý của Nhà nước. 4 1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. 4 1.1.2. Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. 5 1.2. Pháp luật về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 9 1.2.1. Về ban hành và tổ chức các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 10 1.2.2. Về việc xây dựng và ban hành cơ chế chính sách kinh tế nhằm phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 17 1.2.3. Quy định về thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 27 Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI THỪA THIÊN-HUẾ. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 29 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thừa Thiên-Huế 29 2.1.1. Điều kiện tự nhiên: 29 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 30 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thừa Thiên - Huế 31 2.2.1. Tình hình quản lý 31 2.2.2. Những vướng mắc hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 41 2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc hạn chế 50 2.3. Một số giải pháp kiến nghị, hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 53 2.3.1. Hoàn thiện pháp luật: 53 2.3.2. Kiến nghị 57 PHẦN KẾT LUẬN 63 Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên-Huế

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1770 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về quản lý nhà nuớc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực tiễn áp dụng tại Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở cửa rộng hơn thị trường thương mại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này có nghĩa doanh nghiệp nước ngoài được nhập khẩu hàng hoá nhưng không được phép bán lẻ tại thị trường Việt Nam, thay vào đó chỉ được phân phối cho một đại lý thay vì nhiều đại lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài trước khi có quy định mới này có khá nhiều nhà phân phối. Tuy nhiên, nếu nhập khẩu trực tiếp họ phải loại bỏ hết và chỉ giữ lại một nhà phân phối. Đây là điều bất hợp lý. Nguy cơ “đẻ’’ ra những giấy phép con, cản trở hoạt động của nhà đầu tư là không thể tránh khỏi. Bởi lẽ, muốn được cấp phép đầu tư phải thuê tư vấn độc lập thẩm định hiệu quả của dự án, phải có chứng nhận thẩm định chất lượng thiết bị nhập từ nước ngoài. Việc tạo ra những “giấy phép con’’ thể hiện tư duy cũ của người quản lý, không phù hợp với bối cảnh hội nhập. Xu hướng chung, quản lý doanh nghiệp phải chuyển từ “tiền kiểm’’ sang “hậu kiểm’’, nhằm giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp gia nhập thị trường. Tăng cường “hậu kiểm’’, cơ quan quản lý sẽ phải chịu khổ và vất vả hơn trong việc thẩm định các yêu cầu đối với nhà đầu tư. Có ý kiến cho rằng, không phải cán bộ quản lý không biết phiền toái của “giấy phép con’’ thế nhưng bằng “giấy phép con’’, cơ quan quản lý đầu tư muốn nắm “đằng chuôi’’, giành lấy sự an nhàn cho mình. “Giấy phép con’’ có thể làm sống lại cơ chế “xin- cho’’, tạo nên mảnh đất mầu mỡ cho tiêu cực, nhũng nhiễu phát sinh. Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp mà chủ yếu để thị trường quyết định. Cụ thể, các doanh nghiệp làm ăn với nhau sẽ giám sát lẫn nhau, và họ sẽ biết ai để có thể “chọn mặt gửi vàng”. Về thẩm tra, kiểm tra: Luật đầu tư chung nên cho phép nhà đầu tư đăng ký dự án, đăng ký kinh doanh cùng một thời điểm và tự chịu trách nhiệm về tính trung thực của dự án, không cần đến sự thẩm tra của Nhà nước. Nếu trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp muốn đầu tư các dự án vượt ngoài phạm vi ngành nghề đã đăng ký thì buộc phải đăng ký bổ sung. Như thế, nhà đầu tư không cần đăng ký dự án, chỉ cần đăng ký kinh doanh, chịu trách nhiệm về dự án đầu tư ở những lĩnh vực ngành nghề đăng ký. Quản lý Nhà nước về đầu tư không có nghĩa là cơ quan Nhà nước phải thẩm tra tính khả thi hay hiệu quả của dự án, vì không đủ nhân lực để làm thay chủ đầu tư. Theo quy định của Luật đầu tư chung thì những dự án phổ thông từ 5 tỷ đồng - 300 tỷ đồng phải làm nhiều thủ tục để xin Giấy chấp thuận đầu tư của cơ quan quản lý đầu tư và chịu thêm một cơ quan thanh tra mới là thanh tra đầu tư. Đây là những vấn đề nảy sinh mà Luật Khuyến khích đầu tư trong nước trước đây không qui định. Trong khi đó, các doanh nghiệp hiện nay còn phải chịu sức ép từ các đơn vị thanh tra như: Tài chính, thuế, môi trường, xây dựng, sử dụng đất đai, lao động, hình sự, cứu hoả, thống kê… Ngoài ra, còn có các cơ quan thanh tra chuyên ngành về chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, hàng hải, bưu chính viễn thông, vệ sinh an toàn thực phẩm…Người ta đã đặt câu hỏi, bất kỳ dự án đầu tư nào cũng đều phải chịu sự thanh tra của các tổ chức nói trên, không hiểu thanh tra sẽ thực hiện những công việc gì? Bất kỳ dự án đầu tư nào ở doanh nghiệp mà trị giá cổ phần Nhà nước từ 100 tỷ đồng trở lên cũng được coi là dự án phổ thông có điều kiện. Như vậy cho dù giá trị dự án chỉ vài tỷ đồng cũng được coi là dự án phổ thông có điều kiện và buộc phải thẩm định bởi cơ quan Nhà nước để cho phép đầu tư. Điều này luật hiện hành cũng không qui định. Nhà nước quy định thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang các loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Mục đích của cổ phần hoá là trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp, giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước, nay chúng ta lại định áp đặt trở lại cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước cho các doanh nghiệp cổ phần hóa hay chăng? Quy định về tên doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tên doanh nghiệp phải ghi bằng tiếng Việt. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn sử dụng bằng tiếng nước ngoài chỉ được dùng tên công ty mẹ. Chính vì quy định này mà có những tên tiếng nước ngoài khi dịch sang tiếng Việt hoàn toàn không mang một ý nghĩa nào như Công ty Hậu cần Quyền lực (Power Logistics Corporation), Công ty Chuyên Nhân tạo (Artificial Pro Inc)…Các nước quanh ta đều cho phép doanh nghiệp sử dụng tiếng nước ngoài đặt tên nhằm nâng cao khả năng hội nhập như Trung Quốc có công ty Lenovo, Haier, Chery, Alibaba.com; Hàn Quốc có Kucky Goldstar (sau này là LG); Nhật có Sony…Có lý không khi các doanh nghiệp Việt Nam đã tên tuổi như X-Men, Kido, Nino Maxx, VnExpress, Vietnamnet…lại không thể dùng tên thương mại của mình để đặt tên cho doanh nghiệp bởi những quy định trên? Việc buộc đặt tên doanh nghiệp bằng tiếng Việt bất kể tên đó có ý nghĩa không, có trong sáng và ăn sâu vào tâm trí người tiêu dùng hay không vô hình chung lại là quy định quá hình thức, gây cản trở cho doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên cùng địa bàn. Việc quy định tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải là tên công ty mẹ cũng là một cản trở với các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam thông qua các công ty mẹ có tên khác với tên doanh nghiệp tại Việt Nam. Ví dụ, tên doanh nghiệp ở Việt Nam là Coca Cola, những tên công ty mẹ ở nước ngoài là Fraser & Neaves. Đối với đăng ký tên doanh nghiệp, chỉ cần quy định ai đăng ký trước được ưu tiên đặt tên trước là đủ. Đây là một hạn chế cần được gỡ bỏ, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay.  Vốn điều lệ của doanh nghiệp: Theo quy định hiện hành, vốn điều lệ của doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) phải ghi bằng tiếng Việt, sau đó có thể ghi tương ứng bằng ngoại tệ. Việc ghi vốn bằng tiếng Việt hay bằng ngoại tệ không ảnh hưởng đến trách nhiệm và hoạt động của doanh nghiệp. Khi ký kết hợp đồng với doanh nghiệp bất kỳ, bạn quan tâm đến vốn điều lệ quả doanh nghiệp đó là bao nhiêu chứ không cần quan tâm đến đơn vị tiền tệ của số vốn đó. 16.000 đồng hay 1 USD đều không quan trong, chưa kể vào thời điểm góp vốn đồng ngoại tệ có tỷ giá khác so với tỷ giá quy định tại thời điểm nộp đơn. Quy định này không mang tính khả thi và không cần thiết. Con dấu của pháp nhân Quy định về con dấu của pháp nhân có sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. Đối với pháp luật nước ngoài, điều quan trọng không phải là con dấu cuả pháp nhân, mà là chữ ký đăng ký của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Ở nước ta, pháp luật quy định pháp nhân phải có con dấu riêng, do cơ quan công an độc quyền cấp. Đứng ở góc độ pháp lý và điều tra hình sự, tự dạng con người có tính ổn định và độ tin cậy cao hơn. Quy định văn bản tiếng nước ngoài phải được dịch có công chứng, chứng thực. Đây là vấn đề tốn nhiều công sức, thời gian và chi phí nhất của nhà đầu tư. Để có bản dịch có công chứng, chứng thực, doanh nghiệp phải xin con dấu của chính quyền, sau đó xin con dấu của Bộ ngoại giao, rồi của đại sứ quán, sau đó tới Sở ngoại vụ, cuối cùng mới đến văn phòng công chứng để dịch. Trong thời đại hội nhập ngày nay, số lượng công chức biết tiếng Anh ở các cơ quan ban ngành không phải là ít. Trong khi đó, việc quy định bản dịch có thể giao cho một văn phòng luật sư chứng nhận và chịu trách nhiệm là được. Điều này vừa thuận tiện, vừa dễ quy trách nhiệm khi có sai sót. Giả sử, sau khi có tất cả các con dấu nêu trên mà tài liệu vẫn còn sai sót, thì cả Sở ngoại vụ lẫn Lãnh sự quán nước ngoài tại Việt Nam cũng không thể chịu trách nhiệm, vì họ chỉ chứng nhận con dấu của người đóng dấu trước mà thôi.  Giải trình kinh tế kỹ thuật Dự án phải lập giải trình kinh tế kỹ thuật gồm những dự án có vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng hay thuộc ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Đối với lĩnh vực dịch vụ, do hạn chế những cam kết gia nhập WTO, đa phần phải làm giải trình kinh tế kỹ thuật. Tuy nhiên, không có một tiêu chí nào từ phía Chính phủ xác định các điều kiện để đồng ý hay từ chối cấp chứng nhận đầu tư. Ví dụ, dự án sản xuất phần mềm xưa nay vẫn dễ được cấp chứng nhận đầu tư nhất mà không phải lập giải trình kinh tế kỹ thuật. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vì sản xuất phần mềm bị coi là dịch vụ, dịch vụ này thuộc cam kết của Việt Nam tham gia WTO nên buộc phải lập giải trình kinh tế kỹ thuật. Những thông tin trong báo cáo giải trình không có ý nghĩa ràng buộc về pháp lý đối với nhà đầu tư. Giả sử trong báo cáo giải trình, nhà đầu tư xác định năng lực sản xuất của công ty là 5.000 máy/năm, lợi nhuận 100 tỷ đồng…những các thông số này hoàn toàn có thể khác đi trong thực tế mà không vi phạm pháp luật. Vậy có cần thiết không khi bắt buộc nhà đầu tư làm giải trình trong khi một dự án có giải trình và một dự án không có giải trình đều phải tuân thủ pháp luật như nhau về lao động, thuế hay bảo vệ môi trường. b. Hạn chế, vướng mắc trong quản lý Nhà nước tại Thừa Thiên-Huế Nhìn một cách tổng thể chính sách quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh Thừa Thiên-Huế có nhiều ưu điểm nổi trội hơn hẳn các quy định của nước ta. Tuy nhiên, nếu đi sâu hơn thì ta dễ dàng nhận thấy biện pháp quản lý chỉ mới dừng lại ở khu vực khuyến khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây, Lăng Cô và các địa bàn tập trung chủ yếu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đằng sau những đóng góp không thể phủ nhận của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại là một vấn đề bức bối, đang làm đau đầu các cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là cơ quan thuế, đó là tình trạng chuyển giá nhằm trốn tránh, ẩn lậu nghĩa vụ đóng góp ngân sách Nhà nước của khối doanh nghiệp FDI. Theo khẳng định của cơ quan thuế, trên địa bàn Thừa Thiên-Huế hiện nay chuyển giá và nghi vấn chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng ngày càng tăng. Việc chuyển giá giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với công ty nước ngoài là quan hệ liên kết. Một là, các doanh nghiệp nâng giá tài sản và công nghệ góp vốn (đối với doanh nghiệp liên doanh); Hai là, chuyển giá bằng cách tính giá nhập khẩu phụ kiện tăng, nguyên vật liệu đầu vào từ công ty mẹ vào Việt Nam với giá cao, trong khi giá gia công, giá bán sản phẩm và thành phẩm xuất khẩu cho công ty mẹ được tính với giá thấp; Ba là, hiện tượng chuyển giá xảy ra phổ biến đối với các sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn, công thức đòi hỏi phải nhập khẩu nguyên vật liệu và phụ tùng đầu vào do công ty mẹ độc quyền cung cấp. Nhưng cho dến nay văn bản pháp luậtcao nhất để chống chuyển giá là TT 117/2005/TT-BTC cũng chỉ đề cập đến phương pháp xác định giá thị trường trong quan hệ giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết, nên chưa đủ mạnh và không rõ ràng để cơ quan thuế triển khai chống chuyển giá. Chính sách ưu đãi của UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế về thuế cũng có nhiều điểm hạn chế. Theo quy định thì các doanh nghiệp Nhà nước (TW và địa phương) được tỉnh hỗ trợ lại 100% thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp (phần ngân sách tỉnh được hưởng); đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) được tỉnh thưởng lại 100% thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp (phần ngân sách tỉnh được hưởng). Hai thuật ngữ “hỗ trợ lại” và “thưởng lại” để áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, vậy sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này là gì? Có sự phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác hay không? Và được hỗ trợ dưới hình thức nào? Điều này làm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cảm thấy bị đối xử so với doanh nghiệp Nhà nước. Pháp luật hiện hành quy định tổ chức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005. Kể từ khi NĐ101/2006/NĐ-CP về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo các loại hình doanh nghiệp theo luật Doanh nghiệp 2005 với mong muốn cải thiện môi trường đầu tư và thực hiện các mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đa dạng hóa các hình thức đầu tư tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới hình thức các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo thêm nguồn hàng cho thị trường chứng khoán. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện cổ phần hóa sẽ là loại hình đuợc hưởng ưu đãi nhiều nhất theo Luật doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên cho đến nay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên-Huế các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức công ty cổ phần là rất ít, đồng thời tỉnh cũng như các ban ngành có liên quan chưa có động thái tích cực nào trong việc hướng dẫn hoặc khuyến khích việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó gây ra những khó khăn cản trở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Làm cho môi trường đầu tư của tỉnh Thừa Thiên-Huế kém hấp dẫn và chưa đáp ứng được mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra khi ban hành Nghị định này. Về thời gian giải phóng mặt bằng theo Quyết định 1546/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế tổ chức thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và giao cho nhà đầu tư trong vòng 60 ngày kể từ ngày chủ đầu tư ký hợp đồng thuê đất, tuy nhiên theo đánh giá của trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch tỉnh và các ban ngành liên quan thì với thời gian này khó có thể thực hiện được, về hỗ trợ một phần chi phí đền bù thì cũng theo Quyết định 1546/QĐ-UBND Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ xem xét ngân sách địa phương tham gia một phần hoặc toàn bộ chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng tùy thuộc vào tính chất và quy mô của dự án đầu tư. Tuy nhiên, củ thể là bao nhiêu và căn cứ vào các điều kiện như thế nào của dự án, đang là những thắc mắc của nhà đầu tư, cũng như gây lúng túng cho các ngành chức năng trong quá trình tham mưu xử lý. Về thủ tục quyết định cho thuê đất: theo quy định, thời gian tối đa là 10ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (10 ngày đối với Sở tài nguyên – môi trường; 03 ngày đối với Ủy ban nhân dân tỉnh). Qua thực tế thực hiện cho thấy thời hạn này hầu như chưa thể đảm bảo đúng được. Về thủ tục cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện, chi nhánh thương nhân nước ngoài tại tỉnh Thừa Thiên-Huế hiện nay, Sở Thương mại cũng chưa có quy định hướng dẫn củ thể thực hiện thủ tục này, gây trở ngại và mất thời gian cho thương nhân nước ngoài. Chính sách ưu đãi về đất đai của Thừa Thiên-Huế cũng tỏ ra thiếu hấp dẫn hơn so với Quảng Nam (một tỉnh được đánh giá là thiếu tiềm năng hơn Thừa Thiên-Huế). Củ thể là Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế sẽ hỗ trợ tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản, lắp đặt thiết bị và tùy theo các dự án đầu tư vào địa bàn mà nhà đầu tư nước ngoài được hỗ trợ thêm tiền thuê đất từ 5–10 năm. Đồng thời, được áp dụng giá tiền thuê đất tối thiểu là 0.03USD/m2/năm đối với các dự án đầu tư vào các KCN. Bên cạnh đó UBND tỉnh còn hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí đền bù giải phóng mặt bằng tùy theo tính chất và quy mô của dự án. Còn tỉnh Quảng Nam thì quy định, nhà đầu tư vào khu Chu Lai thì có sự ưu đãi cao hơn, điều này thể hiện ở chỗ: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật là 10năm (đối với dự án sản xuất kinh doanh) và 15năm (đối với dự án phát triển cơ Sở hạ tầng). Ngoài ra Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam còn hỗ trợ 100% chi phí đền bù thiệt hại, thiệt hại trước ngày 31/12/2005 (kể cả dự án ngoài khu Chu Lai). 2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc hạn chế Xuất phát từ sự yếu kém của nền kinh tế. Sự yếu kém này thể hiện: a. Các nguồn lực để sản xuất của ta tuy phong phú, song chủ yếu mới ở dạng tiềm năng. Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả, cần phải có lượng vốn lớn; kỹ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại; đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý có năng lực; đồng thời phải có trình độ tổ chức và quản lý thích hợp của Nhà nước cũng như của mỗi doanh nghiệp…mà trên thực tế những mặt này nước ta nói chung và Thừa Thiên-Huế nói riêng còn rất yếu kém. Sự thấp kém, lạc hậu trong kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là một lực cản hàng đầu đối với sự phát triển của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Trình độ kết cấu hạ tầng, dịch vụ ở nước ta chỉ ở mức trung bình so với các nước đang phát triển; Sự yếu kém của nền kinh tế chịu ảnh hưởng không nhỏ của việc tổ chức thực thi các chính sách kinh tế của Nhà nước. Nhiều chính sách chỉ dừng lại ở việc ban hành văn bản mà không có khả năng thực thi trong thực tế vì không đủ nguồn lực. Rõ ràng rằng để những chủ trương chính sách về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực thi có hiệu quả trên thực tế không phải là chuyện dễ, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Những nhận thức về đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta không theo kịp thực tiễn đang thay đổi từ khi thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế. Xuất phát từ ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, từ tư duy không đúng về mô hình CNXH trước đây. Tư duy về mô hình CNXH đã chi phối đường lối xây dựng nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong tư duy cũng như trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trước đây, chúng ta thường xem nhẹ quy luật kinh tế khách quan của thị trường, coi kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Từ đó dẫn đến kết quả là công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được coi trọng mà chỉ trọng tâm vào các doanh nghiệp Nhà nước, việc đổi mới hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước cũng được chú trọng hơn. Xuất phát từ sự chậm đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật, sự yếu kém về trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đã làm cho quá trình thực hiện pháp luậtvà các chính sách về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp nhiều trở ngại. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thực thi pháp luật và các chính sách còn nhiều yếu kém…đây cũng chính là lực cản rất lớn trong công cuộc đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua và trong cả thời gian tới. Nguyên nhân từ tỉnh Thừa Thiên-Huế Khả năng hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế tuy đã có bước cải thiện nhưng chưa tận dụng được thật tốt cơ hội để huy động và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng. Nguồn nhân lực phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế còn thiếu và yếu, nhiều cơ quan, đơn vị thiếu cán bộ giỏi về quản lý hành chính, quản lý kinh doanh, thiếu khả năng tham mưu chiến lược; tư duy và  phong cách, lề lối làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả một số cán bộ ở vị trí lãnh đạo còn chậm đổi mới…chưa đáp ứng được nhu cầu của quá trình phát triển và hội nhập. Quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong tỉnh còn nhỏ, toàn tỉnh có hơn 2.700 doanh nghiệp  trong đó có đến  95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ; tiềm lực tài chính, thị phần, uy tín, thương hiệu chưa đủ mạnh…năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm còn hạn chế. Với cơ chế cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, tiết kiệm thời gian cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉnh đã áp dụng cơ chế “một cửa”, nghĩa là mọi công đoạn thực hiện các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh…chỉ thông qua một cơ quan có thẩm quyền duy nhất nhận trách nhiệm giải quyết. Do đó, cơ chế “một cửa” đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ năng lực giỏi, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ trong tất cả các lĩnh vực cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là một vấn đề thách thức đối với tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vì mỗi thủ tục hành chính đều do một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết riêng và giữa các cơ quan này lại không có sự phối hợp nhịp nhàng trong quá trình làm việc thêm vào đó đội ngũ cán bộ chưa đủ trình độ giải quyết tốt một loạt các công đoạn, thủ tục đầu tư cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. Do đó đích thân các nhà đầu tư nước ngoài phải đi từ cơ quan này sang cơ quan khác để hoàn tất các thủ tục cần thiết. Ngoài ra, để được hưởng các chính sách ưu đãi về đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tư cũng phải đi nhiều vòng để tới mỗi cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm giải quyết riêng. Không những thế sự phối hợp trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đồng bộ và thiếu rành mạch, các sở, ngành thường ít quan tâm hoạt động của các doanh nghiệp sau khi cấp giấy phép đầu tư, giấy phép kinh doanh, lảng tránh nhiệm vụ quản lý của mình mà ủy thác cho các cơ quan tổng hợp. Vậy để quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao, các sở ban ngành nên chủ động phối hợp để có giải pháp khắc phục những hạn chế vướng mắc nêu trên. Có như thế mới nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2.3. Một số giải pháp kiến nghị, hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.3.1. Hoàn thiện pháp luật a. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo mội trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển Về Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư. Để thống nhất quản lý Nhà nước về doanh nghiệp và giúp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi thì cần trả lại thẩm quyền cho đăng ký kinh doanh cho Luật doanh nghiệp và ban hành một văn bản hướng dẫn thực hiện áp dụng thống nhất về đăng ký kinh doanh đối với tất cả các ngành nghề, không để tình trạng các luật khác “lấn sân” sang Luật doanh nghiệp, coi giấy phép đầu tư và các loại giấy phép hoạt động là những hoạt động độc lập với giấy phép đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp và phải có sự thống nhất giữa hai luật. Về thủ tục hành chính. Hiện nay,  về cơ bản hoạt động đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp dân doanh chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh được thành lập theo Luật doanh nghiệp; hoạt động đăng ký kinh doanh và cấp phép đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuỳ theo quy mô và tính chất được thực hiện qua UBND các tỉnh, Bộ kế hoạch đầu tư, và  ban quản lý các khu công nghiệp; hoạt động quản lý đầu tư trong nước được thực hiện qua “người có thẩm quyền quyết định đầu tư” quy định tại “quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” tại Nghị định 52/CP của Chính phủ. Theo chúng tôi, việc đưa ra loại giấy này là không khả thi vì không có các quy định cụ thể về việc xây dựng một hệ thống cơ quan “đăng ký kinh doanh, đầu tư” cùng với một thủ tục rõ ràng minh bạch. Cần quy định cụ thể là hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đầu tư. Ngoài ra cũng cần quy định rõ thủ tục cấp giấy chứng nhận này theo đúng tinh thần của Luật doanh nghiệp nhằm hạn chế việc các cơ quan cấp phép có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế “liên thông-một cửa” ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý nhà đối với các doanh nghiệp FIE của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giả quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan...nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư, công khai hoá quy trình thành lập doanh nghiệp cấp Giấy chứng nhận đầu tư trên mạng. Về môi trường pháp lý Rà soát, điều chỉnh các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ theo đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các bộ, ngành liên quan về điều kiện đầu tư hoặc ngành nghề của các doanh nghiệp nói chung để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết của nhà nước ta. Đồng thời UBND cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý đầu tư trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian, đầu mục hồ sơ...tạo môi trường pháp lý thông thoáng thúc đẩy các doanh nghiệp FIE phát triển. Đối với các chế tài xử lý vi phạm Cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, bộ, ngành và địa phương trong cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần quy định bổ sung đầy đủ các chế tài đủ mạnh đối với tất cả các khâu của quá trình đầu tư nhằm nâng cao trách nhiệm và xử lý kịp thời các sai phạm trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích, động viên các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt pháp luật về đầu tư, bảo đảm hoạt động đầu tư đúng pháp luật, có hiệu quả, ngăn chặn thất thoát, lãng phí trong hoạt động kinh doanh. Về thẩm tra, thẩm định: Đổi mới quy trình soạn thảo, cơ chế thẩm tra, thẩm định và thực thi pháp luật về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới quy trình soạn thảo, thẩm định trước khi trình ký ban hành văn bản pháp luật về đầu tư. Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó yếu tố tuân thủ quy trình từ việc hoạch định chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản cho đến việc soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, xem xét thông qua và ban hành, công bố văn bản…có vai trò rất quan trọng. Phải hình thành cơ chế nhằm tăng cường việc kiểm tra, thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất đồng bộ cũng như tính khả thi và ổn định lâu dài của văn bản trước khi trình ký ban hành. Ngay trong quá trình soạn thảo, xem xét thông qua văn bản pháp luật phải khẳng định và thể chế hoá nguyên tắc: một khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định có ý kiến chưa đồng tình thông qua dự thảo văn bản, thì phải làm rõ nguyên nhân tại sao “chưa đồng tình” trước khi ký ban hành hoặc trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký ban hành. Phải gắn kết trách nhiệm cụ thể của cơ quan có thẩm quyền thẩm định pháp lý văn bản với chất lượng và tính khả thi của văn bản khi được ban hành. Bảo đảm tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật ban hành. Bằng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và thường xuyên rà soát, hệ thống hoá, Nhà nước sẽ điều chỉnh nội dung các văn bản pháp luật về đầu tư cho sát hợp với yêu cầu đòi hỏi của quản lý, phù hợp với luật pháp quốc tế về đầu tư, làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang tiến tới hội nhập nền kinh tế quốc tế. b. Hoàn thiện các chính sách kinh tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Đối với chính sách thuế: Cần ban hành thống nhất mức thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Loại bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vì đây là quyền lợi của nhà đầu tư, họ đã phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhà đầu tư chỉ cần trình các tài liệu cần thiết chứng minh khoản lợi nhuận là thu nhập hợp pháp. Đồng thời cần ban hành hệ thống phí và lệ phí thống nhất giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Tiếp tục cải cách thuế theo hướng đơn giản hóa các loại thuế, tạo cho chính sách thuế trở nên công bằng hơn bằng cách xóa bỏ những đối xử đặc biệt, tiếp tục đơn giản hóa thuế VAT. Giảm bớt các quy định có liên quan và mở rộng diện tính thuế, giảm từ bốn mức giảm thuế còn một mức thuế đối với tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ không được miễn thuế. Thống nhất và hợp lý hóa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Tránh tình trạng điều chỉnh mức thuế liên tục theo xu hướng tăng thuế làm cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi đầu tư vào nước ta theo hình thức thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện chính sách thuế hải quan theo hướng đồng bộ, hợp lý, thống nhất, tránh trình trạng áp thuế khác nhau đối với các danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Giảm bớt các thủ tục phiền hà. Công khai hóa các danh mục thuế xuất nhập khẩu, các mẫu giấy tờ, hồ sơ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tự khai báo, áp mã, áp giá… Đối với chính sách đất đai: Quy định về đất đai của Việt Nam có những quy định khắt khe so với các nước khác, hiện nay Việt Nam cũng đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất tại Việt Nam và cho phép sử dụng đất để thế chấp vay vốn tại các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên cần phải giảm bớt các thủ tục rườm rà về thuê đất, giải phóng mặt bằng. Thẩm định và rà soát lại diện tích sử dụng mặt bằng sản xuất, đặc biệt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất không hiệu quả. Mở rộng xây dựng các KCN, cụm công nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê mặt bằng sản xuất với giá cả ưu đãi, thời gian lâu dài, cơ sở hạ tầng thuận lợi để các doanh nghiệp khi thuê mặt bằng nhanh chóng đi vào sản xuất. Đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giảm mức thu lệ phí và thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất tạo điều kiện khai thông các giao dịch chính thức trên thị trường bất động sản. Chính sách vốn, tín dụng, đầu tư: Cần sớm xúc tiến rà soát, xây dựng lại tất cả các chính sách ưu đãi trong các văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng kênh thông tin phù hợp nhằm phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý về ưu đãi đầu tư trong nước. Tăng cường các biện pháp lành mạnh hóa thị trường tài chính, áp dụng một hệ thống giám sát đối với thị trường tài chính theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thực hiện cơ chế giám sát từ xa (giám sát thông qua chế độ báo cáo trên cơ sở hình thành một số chỉ số giám sát). Bãi bỏ các quy định về lãi suất trần, Chính phủ nên để thị trường quyết định mức lãi suất, bởi vì các ngân hàng sẽ không cấp vốn cho các dự án có thời gian hoạt động dài nếu không được đền bù xứng đáng. 2.3.2. Kiến nghị a. Đối với Trung ương Để quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phát huy vai trò của mình thì bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của luật thì việc nâng cao hiệu quả phương thức quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng. Để làm được điều đó trước tiên ta phải: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN và các thỏa thuận trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với các quy định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; tăng cường sự quản lý điều hành thống nhất của Chính phủ, đồng thời phối hợp điều hành quản lý chặt chẽ giữa các bộ, ngành và các cấp trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phân cấp cho địa phương, cơ sở thông qua điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và trách nhiệm pháp lý giữa cơ quan Trung ương và địa phương theo hướng tích cực nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn cho nhà đầu tư. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kì của các bộ, ngành và các cấp liên quan nhằm phát hiện kịp thời vướng mắc, vi phạm chính sách pháp luật trong quá trình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ khâu cấp giấy phép, đăng ký kinh doanh, thẩm định dự án…cho đến khi đi vào sản xuất kinh doanh để kịp thời giải quyết, xử lý có hiệu quả nhất. Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ, đơn giản tránh gây phiền hà, tốn kém về thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư, đồng thời công khai hóa các thủ tục hành chính nhằm tránh các trưòng hợp sách nhiễu, cửa quyền, quan liêu, tham nhũng của đội ngũ cán bộ. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách giỏi về nghiệp vụ, kiến thức pháp luật. Mở các lớp tập huấn định kỳ, không chỉ đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ trong ngành mà nên mở rộng ra các ngành, sở liên quan ở các địa phương. Đặc biệt là các sở liên quan trực tiếp đến quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở địa phương. Song song với việc thu hút các dự án mới, trọng tâm của công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chính là việc tháo gỡ các vướng mắc hỗ trợ các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đi vào triển khai và giải ngân đã được quy định tại Quyết định 505/QĐ-BKH (25/04/2008), của Bộ kế hoạch và đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện, phối hợp triển khai tốt về xây dựng hệ thống quản lý thông tin trong các doanh nghiệp FIE. Ngoài ra, cần thiết phải duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương với khối doanh nghiệp FIE. Đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều lao động để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam tạo hiệu ứng lan toả và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. b. Đối với tỉnh Thừa Thiên - Huế Thứ nhất, tiếp tục đơn giản hoá các thủ thục hành chính trong việc thẩm định và cấp phép. Cải tiến mạnh mẽ thủ tục cấp giấy phép đầu tư, đơn giản hoá các thủ tục hành chính thực sự theo nguyên tắc liên thông "một cửa", "một đầu mối". UBND thành phố nên uỷ quyền cho Sở Kế hoạch - Đầu tư là cơ quan đầu mối phụ trách các vấn đề hợp tác và đầu tư của thành phố, đồng thời là cơ quan duy nhất tiếp cận hồ sơ giải quyết các công việc tiếp theo, thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng ký. Các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư. Cần sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung theo hướng giảm bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động tới môi trường và quy định cụ thể các dự án được miễn lập các loại báo cáo này. Với các dự án phải lập báo cáo, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và bảo đảm độ chính xác cao, để vừa rút ngắn thời gian đăng ký, vừa hạn chế được các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Thu thập các thông tin về công nghệ tiên tiến của thế giới phải trở thành việc làm thường xuyên của các cơ quan này. Thứ hai, tạo điều kiện cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài sau khi được cấp phép triển khai nhanh và sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc triển khai thực hiện dự án bao gồm các thủ tục về cấp đất, giải toả đền bù đất đai, xây dựng công trình, nhập khẩu vật tư thiết bị, đánh giá tác động môi trường...cần đơn giản theo hướng các cơ quan chức năng hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng những quy định của luật pháp có liên quan, theo dõi quá trình xây dựng doanh nghiệp; trong trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật thì trước hết hướng dẫn doanh nghiệp khắc phục tình trạng đó, chỉ áp dụng việc xử phạt đối với trường hợp nghiêm trọng hoặc ngoan cố không chịu sửa chữa theo hướng dẫn của cơ quan nhà nước Thứ ba, việc thực hiện hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bắt đầu bằng thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước để nộp thuế, hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy. Khi cần thiết các cơ quan này có thể tiến hành kiểm tra để đánh giá doanh nghiệp đã có đủ điều kiện, trang thiết bị phù hợp với quy định của pháp luật; hướng dẫn và yêu cầu bổ sung để bảo đảm đủ điều kiện kinh doanh. Cần áp dụng các phương thức tiến bộ về nghiệp vụ như doanh nghiệp tự tính và nộp thuế, cuối kỳ sẽ đối chiếu để nộp bổ sung hoặc được thoái thuế; đăng ký kế hoạch xuất nhập khẩu cả năm và áp dụng biện pháp trừ dần khi thực hiện. Bên cạnh đó, Thừa Thiên-Huế cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI và các địa phương khác trong cả nước, các bộ ngành hữu quan định kỳ gặp gỡ, đối thoại về luật pháp chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh, bổ sung các chính sách biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ tư, trong thời gian tới, Tỉnh cần nhanh chóng rà soát, phân loại và đánh giá tình hình thực hiện của tất cả dự án trên địa bàn để có biện pháp xử lý, hỗ trợ cho phù hợp. Tập trung chỉ đạo điều hành xử lý nghiêm hành vi vi phạm của các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như giải quyết nhanh các vấn đề khó khăn phát sinh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua. Thứ năm, ban hành quy chế về thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm được sự giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước và áp dụng các chế tài đối với những vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp là cần thiết, nhưng trước hết phải hướng vào mục đích làm cho các doanh nghiệp tự giác tôn trọng pháp luật, tránh tình trạng lợi dụng thanh tra, kiểm tra để gây khó khăn cho hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Việc xử lý các hành vi phạm pháp cần thực hiện đúng trình tự và hình phạt đã được quy định. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra và áp dụng các phương thức tiến bộ để vừa bảo đảm thực hiện nghiêm minh luật pháp, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ sáu: UBND tỉnh và các ban ngành chức năng cần quan tâm hơn nữa và kịp thời đưa ra các văn bản hướng dẫn, các chính sách ưu đãi cũng như khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Thứ bảy, tổ chức quản lý chặt chẽ các trung tâm đào tạo các ngành nghề lao động kỹ thuật, các tổ chức xuất khẩu lao động nước ngoài nhằm tránh tình trạng đào tạo tràn lan không đạt hiệu quả cao, đồng thời tạo điều kiện xúc tiến giữa đội ngũ lao động với doanh nghiệp nước ngoài. Trích một phần kinh phí hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu chính sách, pháp luật thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, củng cố niềm tin cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào trình độ quản lý kinh tế của nhà nước. Cố gắng tiến tới một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vấn đề này phải có chính sách quy định củ thể của pháp luật. Tuy nhiên, Thừa Thiên-Huế phải đi trước trong việc đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh, tạo tâm lý thoải mãi và một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tóm lại, có nhiều giải pháp nhằm quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả, trong đó theo chúng tôi cải cách thủ tục hành chính là giải pháp mang tính đột phá. Tuy nhiên, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư tưởng cũ sẽ là một vật cản lớn trong cải cách hành chính. Trên thực tế, có những vấn đề đã quy định cụ thể, thủ tục thông thoáng nhưng do nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin - cho” của một bộ phận cán bộ, công chức hành chính nên sự việc tuy dễ hoá khó khăn. Thủ tục hành chính dù hay đến mấy nhưng chỉ nằm trên giấy tờ văn bản, muốn đi vào cuộc sống phải thông qua con người áp dụng. Do đó, sự công tâm của cán bộ, công chức hành chính cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những yếu tố quan trọng Thừa Thiên-Huế quản lý tốt đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đáp ứng nhu cầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và thời gian tiếp theo, Nhà nước tiếp tục nghiên cứu và xây dựng những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung vào một số nhóm giải pháp chính. Trước hết là việc khẩn trương nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài nói riêng và pháp luật kinh tế nói chung, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở vừa mở rộng quyền của các cấp quản lý vừa đảm bảo sự quản lý thống nhất của Chính phủ, các bộ ngành và địa phương xây dựng qui hoạch và đưa ra danh mục gọi vốn đầu tư nước ngoài đối với một số ngành, sản phẩm chính như cơ khí, điện-điện tử, hoá chất, vật liệu xây dựng, may mặc, da giày, viễn thông, vận tải hành khách công cộng, xây dựng cảng...việc phối hợp giữa các cơ quan trung ương và địa phương để cải cách một bước thủ tục hành chính, đơn giản hoá thủ tục đầu tư cũng là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, Bộ kế hoạch và đầu tư đang rà soát tình hình thực hiện chủ trương phân cấp, uỷ quyền để có hướng dẫn thích hợp, đặc biệt là qui trình đăng ký, thẩm định dự án và phân công, phân nhiệm trong quản lý dự án đầu tư nước ngoài và chế độ báo cáo, thống kê phục vụ điều hành của Chính phủ và các cơ quan điều hành. Quản lý là thực hiện những công việc có tác dụng định hướng, điều tiết, phối hợp các hoạt động của cấp dưới, của những người dưới quyền. Biểu hiện cụ thể qua việc, lập kế hoạch hoạt động, đảm bảo tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm soát, hướng được sự chú ý của con người vào một hoạt động nào đó; điều tiết được nguồn nhân lực, phối hợp được các hoạt động bộ phận. PHẦN KẾT LUẬN Với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp rõ ràng là vấn đề quyết định đến sự hưng thịnh của đất nước. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam hình thành các loại hình doanh nghiệp với cách thức vận hành khác nhau. Điều đó đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp cần phải được xem xét lại trên tất cả các mặt. Đặc biệt trên phương diện các văn bản pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế bất cứ nước nào cũng hướng tới, đó là một sân chơi lớn, trước hết là thúc đẩy kinh tế trong nước sau đó là thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. Trên mặt trận kinh tế thực hiện ký kết các điều ước song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, cụ thể là tổ chức thương mại thương mại WTO (tháng 11 năm 2007). Việc chúng ta tham gia, gia nhập đó là một cơ hội lớn thúc đẩy nền kinh tế thoát khỏi yếu kém so với khu vực. Chính vì vậy để để làm được điều đó trước hết cần phải hoàn thiện các văn bản pháp lý trong nước tuân thủ các quy định WTO sự thống nhất trong việc đàm phán với các nước, cũng như nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm khác biệt cơ bản so với các đề tài trước đây là Khóa luận nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thừa Thiên-Huế trong trạng thái động, ở cả giai đoạn hình thành, phát triển và hoạt động của doanh nghiệp; tác động của quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này ở Thừa Thiên-Huế dưới cả hai góc độ là nhà nước Trung ương và nhà nước địa phương. Cách tiếp cận này đã cho phép nhìn nhận bao quát và sát thực hơn về quá trình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Khóa luận chỉ rõ những hạn chế tồn tại trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thừa Thiên-Huế như: pháp luật và chính sách của Nhà nước còn bất cập; môi trường đầu tư, kinh doanh còn chưa thuận lợi; cơ chế phối hợp quản lý Nhà nước cũng như việc thực hiện các công đoạn quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn ở cả giai đoạn trước cấp phép và sau cấp phép còn chồng chéo. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế tồn tại trên một mặt là do cơ chế, chính sách và những quy định pháp lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hoàn thiện; mặt khác cơ chế, chính sách và năng lực quản lý của Tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên với khả năng nhận thức, đánh giá vấn đề và thu thập tài liệu, số liệu cũng như thời gian thực hiện có hạn nên Khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do đó người viết rất mong được tiếp thu ý kiến từ phía các Thầy, các Cô và các bạn để khóa luận này hoàn thiện hơn. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 Luật Đầu tư, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 Luật Doanh nghiệp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 Luật Thương mại, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 Luật Đất đai, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987, 1990, 1992, 1996, 2000, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư 2005. Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 quy định đăng ký lại chuyển đổi doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp mới và chuyển đổi giấy chứng nhận đầu tư. Công văn số 2513/BKH-ĐTNN của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư ký ngày 13/04/2007 về tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong tình hình mới. Quyết định số 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 của thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại Việt Nam. Nghị định 149/2005/NĐ-CP ngày 06/12/2005 của Chính phủ về Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Nghị định 23/2007/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết về quản lý ngoại hối. Nghị định 505/QĐ-BKH ngày 25/04/2008 của Bộ kế hoặch và đầu tư quy định về việc giải ngân vốn. Thông tư 117/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về chống chuyển giá trong hoạt động thương mại. Quyết Định Số 1175/2007/ QĐ – UBND. Nghị định ban hành quy định cấp, điều chỉnh, đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư vào địa bàn Thừa Thiên Huế. Quyết Định Số 579/2006/ QĐ – UBND quy định giao nhiệm vụ xử lý các vướng mắc, kiến nghị của các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp về thủ tục hành chính. Quyết Định 1130/2008/QĐ-UBND quy định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế . Quyết Định Số 973/2006/QĐ - UBND ngày 10/04/2006 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ban quản lý khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô. Quyết định số 1546/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về tổ chức thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng. TS Trang Thị Tuyết, Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 Báo cáo tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thừa Thiên Huế giai đoạn 2005-2008. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thừa Thiên-Huế. Pháp luật và Doanh nghiệp, số 12/ 2008/ Báo Pháp lý. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN ĐĂNG KÝ CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP (01) Kính gửi: TRƯỞNG BAN QUẢN LÝ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH THỪA THIÊN HUẾ (02) Nhà đầu tư: Đang thực hiện dự án đầu tư … theo Giấy phép đầu tư (số, ngày, nơi cấp) Đăng ký lại doanh nghiệp và dự án đầu tư với nội dung sau: (Ghi nội dung liên quan quy định tại Giấy phép đầu tư, các Giấy phép điều chỉnh đã cấp hoặc các đề nghị điều chỉnh, bổ sung nếu có trong các mục dưới đây) I. Đăng ký chuyển đổi doanh nghiệp (03) 1. Tên Doanh nghiệp: (04) 2. Địa chỉ trụ sở chính: (05) Chi nhánh/ Văn phòng đại diện (nếu có) (06) 3. Loại hình doanh nghiệp đăng ký chuyển đổi: (07) 4. Người đại diện theo pháp luật của doanh ngiệp: (08) 5. Ngành, nghề kinh doanh: (09) 6. Vốn của doanh nghiệp: (10) 7. Vốn pháp định: II. Đăng ký lại dự án đầu tư: (11) 1. Tên dự án đầu tư: (12) 2. Địa điểm: Lô … , Khu công nghiệp .....; Diện tích đất dự kiến sử dụng: (13) 3. Mục tiêu, qui mô của dự án: (14) 4. Vốn đầu tư dự kiến để thực hiện dự án: (15) Trong đó: Vốn góp để thực hiện dự án: (16) 5. Thời hạn hoạt động: (17) 6. Tiến độ thực hiện dự án: (18) 7. Kiến nghị được hưởng ưu đãi đầu tư: III. Các nhà đầu tư cam kết: 1. Về tính chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; 2. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định của Giấy chứng nhận đầu tư. ... ngày ...tháng ...năm ... (19) NHÀ ĐẦU TƯ (20) Hồ sơ kèm theo: CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN ĐĂNG KÝ/ĐỀ NGHỊ ĐIỀU CHỈNH GIẤY PHÉP ĐẦU TƯ (01) Kính gửi: TRƯỞNG BAN QUẢN LÝ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH THỪA THIÊN HUẾ (02) Nhà đầu tư: Đăng ký/ đề nghị điều chỉnh Giấy phép đầu tư (số, ngày, nơi cấp) với nội dung sau: (Ghi nội dung liên quan quy định tại Giấy phép đầu tư, các Giấy phép điều chỉnh đã cấp hoặc các đề nghị điều chỉnh, bổ sung nếu có trong các mục dưới đây) I. Điều chỉnh nội dung đăng ký kinh doanh (03) 1. Tên Doanh nghiệp: (04) 2. Địa chỉ trụ sở chính: (05) Chi nhánh/ Văn phòng đại diện (nếu có) (06) 3. Loại hình doanh nghiệp: (07) 4. Người đại diện theo pháp luật của doanh ngiệp: (08) 5. Ngành, nghề kinh doanh: (09) 6. Vốn của doanh nghiệp: II. Điều chỉnh nội dung dự án đầu tư (11) 1. Tên dự án đầu tư: (12) 2. Địa điểm: Lô … , Khu công nghiệp .......; Diện tích đất dự kiến sử dụng: (13) 3. Mục tiêu, qui mô của dự án: (14) 4. Vốn đầu tư dự kiến để thực hiện dự án: (15) Trong đó: Vốn góp để thực hiện dự án: (16) 5. Thời hạn hoạt động: (17) 6. Tiến độ thực hiện dự án: (18) 7. Kiến nghị được hưởng ưu đãi đầu tư: III. Các nhà đầu tư cam kết: 1. Về tính chính xác của nội dung hồ sơ điều chỉnh Giấy phép đầu tư; 2. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định của Giấy chứng nhận đầu tư. ... ngày ...tháng ...năm ... (19) NHÀ ĐẦU TƯ (20) Hồ sơ kèm theo:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKHOA LUAN DOAN CAM VAN.doc
Tài liệu liên quan