Dịch vụ hạ tầng là dịch vụ đầu vào quan trọng nhất cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ và tổng thể nền kinh tế quốc dân, có tác dụng hỗ trợ cho tất cả các loại hình kinh doanh và phát triển được lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các ngành dịch vụ khác và nền kinh tế. Có nhiều dịch vụ cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông,.
- Dịch vụ giao thông vận tải: Đầu tư để duy trì, củng cố, nâng cấp và phát triển có trọng điểm cơ sở vật chất hạ tầng giao thông vận tải. Hình thành một số cảng biển theo mô hình cảng mở, từng bước gia tăng dịch vụ chuyển tải. Từng bước mở cửa thị trường, thu hút sự tham gia của các hãng hàng không quốc tế.
- Dịch vụ xây dựng: Tạo lập khuôn khổ pháp lý và động lực thúc đẩy phát triển các hoạt động đầu tư xây dựng, hình thành thị trường xây dựng với quy mô ngày càng rộng lớn, đa dạng, phong phú; tiếp tục mở rộng phân cấp, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng.
72 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển ngành dịch vụ - Kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẫn đang thuộc về Tổng công ty Bưu chính Viễn thôngViệt Nam trong lĩnh vực khai thác các dịch vụ viễn thông cơ bản như viễn thông đường trục và dịch vụ giá trị gia tăng, trừ Internet. Các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được tham gia vào thị trường viễn thông Việt Nam thông qua hình thức hợp tác kinh doanh, tức là không tạo ra đối thủ cạnh tranh mới. Chất lượng dịch vụ viễn thông thì không thấp song giá dịch vụ quá cao đã khiến khu vực nông thôn vẫn là thị trường bị bỏ ngỏ.
Đối với dịch vụ hàng không, các chính sách vẫn chưa thực sự thông thoáng. Cơ chế hiện tại chỉ cho phép bên nước ngoài tham gia liên doanh nộp không quá 40% vốn pháp định. Ngoài ra, chỉ có các hãng hàng không nước ngoài đang được phép khai thác đường bay đến Việt Nam mới được cung cấp dịch vụ hỗ trợ vận tải hàng không. Hiện trong cả nước chỉ có 4 hãng cung cấp dịch vụ vận tải hàng không. Cho đến nay, số lượng người trong nước đi lại bằng máy bay vẫn thấp bởi giá dịch vụ quá cao. Chính sự bảo hộ và đóng cửa của lĩnh vực dịch vụ sẽ dẫn đến hạn chế năng lực đáp ứng nhu cầu thị trường bởi một số lượng hạn chế các nhà cung cấp và khả năng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cụ thể. Thực vậy, khả năng cung cấp đa số các dịch vụ cơ bản như điện, nước sạch, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải hiện vẫn còn thấp xa so với nhu cầu của thị trường.
Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế cá thể có tỷ trọng cao nhất: 31.1% năm 1994, 29,6% năm 1999 (hình 2) chứng tỏ:
-Lĩnh vực kinh doanh dịch vụ chưa được đánh giá đúng vị trí và vai trò của nó, vẫn coi nó như hoạt động phụ, có tính chất làm thêm, kinh doanh nhỏ, lấy công làm lãi.
-Tư nhân- những người có vốn lớn vẫn chưa mạnh dạn tham gia, hình thành doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ hoặc chỉ trong những ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, khách sạn, nhà hàng.
Hình 2. Cơ cấu thành phần kinh tế trong GDP do khu vực dịch vụ tạo ra
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam số 140-141 (1/9/2004)
Trong một môi trường mà đa số các doanh nghiệp thuộc về chính phủ thì sẽ có ít những động lực thúc đẩy đạt năng suất và hiệu quả. Khi các doanh nghiệp được tư nhân hoá và phải chịu sự cạnh tranh của thị trường quốc tế, họ cần được sự trợ giúp từ các công ty dịch vụ chuyên sâu trong kiểm soát chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng còn thấp khoảng 2,3% trong năm 1999 và chỉ tập trung vào một số ngành dịch vụ như khách sạn, bảo hiểm,… Như vậy, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ chưa thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, hay nói cách khác, còn chưa mở cửa đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, chi phí đầu vào cho kinh doanh dịch vụ còn cao cản trở sự phát triển của một số ngành dịch vụ. Có những yếu tố làm cho giá cao một cách không bình thường: Đó là chi phí vận tải, thuê văn phòng, đóng góp an sinh xã hội và thiết bị sản xuất,...
Bảng 2 dưới đây so sánh ba loại chi phí kinh doanh tại Hà Nội và một số thành phố khác ở Châu á, qua đó cho thấy Việt Nam có chi phí cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực.
Bảng 2. So sánh chi phí đầu tư ở các nước trong khu vực
Hà Nội
Bankok
Manila
Jakarta
KualaLumpur
Thuê văn phòng
25
11
7
18
14
Chi phí giao thông(USD/ congtennơ 40feet tới Tp Yokohama-Nhật Bản
1.300
1.200
850
990
575
Chi phí đóng góp của chủ doanh nghiệp tính trên lương tháng(lương hưu bảo hiểm y tế bảo hiểm thất nghiệp…-%lương tháng)
17
4
6.21
7.24
12
Nguồn: So sánh chi phí đầu tư tại các thành phố châu á, tháng 3/2004
Hệ thống hành chính nặng nề cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Việc đăng ký kinh doanh, mặc dù đã có rất nhiều cải thiện kể từ khi có Luật Doanh nghiệp nhưng hiện nay để đăng ký kinh doanh ở Việt Nam, doanh nghiệp vẫn phải chờ 56 ngàyđể hoàn thành 11 thủ tục với tổng chi phí chiếm khoảng 29% thu nhập bình quân đầu người/năm. Cùng với công việc đó ở Singapore, doanh nghiệp chỉ cần đợi 8 ngày, hoàn thành 7 thủ tục với chi phí chiếm khoảng 1% thu nhập bình quân đầu người/năm.
Các doanh nghiệp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trông cậy vào đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, và nhu cầu về họ cũng cao ở Việt Nam. Nhưng do phải đóng thuế thu nhập cao nên các công ty kinh doanh dịch vụ gặp nhiều khó khăn và tốn kém để hấp dẫn và duy trì đửợc những nhân viên có trình độ ở lại. Thuế lợi nhuận của dịch vụ hỗ trợ kinh doanh còn cao ở mức 45% (so với 30% đối với ngành công nghiệp nặng và 40% đối với công nghiệp nhẹ) và tất nhiên thuế này sẽ phải chuyển sang nguời tiêu dùng duới dạng giá cao hơn. Không chỉ có thuế suất lợi nhuận cao mà còn có những hạn chế khác chất lên đầu vào dịch vụ, như chi phí được khấu trừ thuế, và chi phí vốn tăng do thiếu vốn vay qua ngân hàng… Một nét chung trong các nước đang phát triển là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bị hạn chế vì thiếu tài sản hữu hình để dùng làm thế chấp cho các nguồn cấp tài chính như thỏa thuận rút tiền quá số dư của Ngân hàng hoặc tín dụng xuất khẩu. Vì vậy cách duy nhất để bù cho những chi phí cao như nói ở trên và để đầu tư cho tăng trưởng là tăng giá đối với khách hàng.
Thứ năm, khung pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện và thiếu tính đồng bộ. Đối chiếu với các yêu cầu cụ thể của các cam kết quốc tế, các chuyên gia cho rằng, pháp luật Việt Nam còn những hạn chế, trong đó nổi bật là các quy định về ngành, phân ngành dịch vụ được khuyến khích, hạn chế hoặc cấm đầu tư trong lĩnh vực này còn thiếu minh bạch, không nhất quán; quy định về hình thức hiện diện thương mại của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài kém đa dạng, hình thức chi nhánh, liên danh chưa được áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (trừ một số lĩnh vực), mô hình công ty cổ phần có vốn ĐTNN chưa được hình thành.
Tính đến năm 2005, còn khoảng 2,5 tỷ USD giá trị các dự án trong lĩnh vụ dịch vụ hiện đang nằm trên bàn nghiên cứu của các cơ quan chức năng. Số vốn này tập trung chủ yếu vào các dự án lớn và rất lớn về xây dựng đô thị và tổ hợp vui chơi giải trí, trong đó có dự án lên tới hàng tỷ USD. Nếu được cấp giấy phép, chắc chắn mục tiêu thu hút đầu tư của cả năm sẽ sớm hoàn thành. Tuy nhiên, do gặp những vướng mắc khác nhau, như việc tìm mặt bằng, chủ trương chưa rõ ràng về đầu tư khu vui chơi có kèm sòng bạc, về kinh doanh khu đô thị..., nên các dự án này sẽ còn phải tiếp tục chờ đợi. Các dự án thành lập trường đại học hoặc các dự án giáo dục khác gần như không thể được cấp giấy phép vì chưa có thông tư hướng dẫn mặc dù Nghị định 06 của Chính phủ về ĐTNN trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã ban hành được hơn 4 năm. Tương tự như vậy, sự thiếu vắng những quy định cần thiết cũng khiến hoạt động ĐTNN vào lĩnh vực y tế tiến triển chậm.
Thứ sáu, tham nhũng nặng nề làm nản lòng doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ.
Các doanh nghiệp thường phải chi những khoảng phí không chính thức khi tiến hành một số hoạt động kinh doanh. Ví dụ như: phí xuất nhập khẩu hàng hoá không chính thức cho một số cán bộ biến chất bên Hải quan khi giao nhận hàng hoá tại cảng hay phí vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cho các một số cán bộ địa phương. Các khoản “phí không chính thức này” thường xuyên biến đổi và không thể đưa vào sổ sách kế toán để khấu trừ thuế. Điều này ảnh hưởng trực tiếp doanh nghiệp, làm giá thành tăng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và làm giảm tính cạnh tranh của nhà kinh doanh. Điều quan trọng hơn là gây ra nản lòng và mất lòng tin đối với công chúng và những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ . Đánh giá theo chỉ số tham nhũng (Corruption Perception Index) của tổ chức minh bạch quốc tế (Transprency International), mức độ tham nhũng ở Việt Nam trong những năm lại đây tương đối trầm trọng so với các nước khác trên thế giới.
Bảng 3. Chỉ số tham nhũng và xếp hạng về mức độ tham nhũng
của Việt Nam trong tổng số những nước được điều tra
Năm
Chỉ số tham nhũng
Xếp hạng
2001
2,6
75/91
2002
2,4
85/102
2003
2,4
100/133
2004
2,6
102/146
Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2004 – CIEM
Trong một nền kinh tế mà tỷ trọng dịch vụ chiếm 38,15% tổng GDP, tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 56,9% tổng số doanh nghiệp và tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ chiếm phần lớn trong tổng số vốn đầu tư của nền kinh tế (như doanh nghiệp tài chính – tín dụng có số vốn lớn nhất chiếm 25%, và mức tăng 12,0%/năm) thì nạn tham nhũng có ảnh hưởng sâu sắc đến tổng thể nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ.
Mức độ tham nhũng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực dịch vụ chính như : tài chính (bảo hiểm, ngân hàng), lĩnh vực dịch vụ công như y tế, văn hoá, xã hội, quản lý sử dụng đất, xây dựng cơ sở hạ tầng,… do những ưu đãi cho những doanh nghiệp nhà nước như trợ cấp, ưu đãi tín dụng, tỷ giá, thuê đất bảo lãnh, bù lỗ, khoanh và giãn nợ, chính sách phân biệt đối xử.
3.3.Những nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ
Vị trí của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 1956 -2004 có những đặc điểm sau:
Bảng 4. Cơ cấu kinh tế Việt Nam theo ngành giai đoạn 1956 – 2004
Giai đoạn
Vị trí số 1
Vị trí số 2
Vị trí số 3
1955 –1959
Nông nghiệp
Dịch vụ
Công nghiệp
1960 –1975
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
1976 –1991
Nông nghiệp
Dịch vụ
Công nghiệp
1992 –1993
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
1994 – 2001
Dịch vụ
Công nghiệp
Nông nghiệp
2002 – 2004
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Nguồn: Thời báo kinh tế – Kinh tế Việt Nam và thế giới 2003 - 2004
Giai đoạn 1960-1975, cơ cấu kinh tế ở Việt Nam là dịch vụ- nông nghiệp-công nghiệp. Dịch vụ đã có vị trí dẫn đầu nhưng thực ra đây không phải là những dịch vụ mang lại giá trị gia tăng mà là những dịch vụ củng cố tiềm lực quân sự trong cuộc chiến ở miền Nam và cuộc chiến chống trả chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc.
Giai đoạn 1976-2003, cơ cấu kinh tế nông nghiệp-dịch vụ-công nghiệp phản ánh rõ sau giai đoạn đất nước thống nhất, nông nghiệp bắt đầu khởi sắc, ngành dịch vụ từ đây ngày một mang lại tính chất của những dịch vụ giá trị gia tăng nhưng vai trò của ngành dịch vụ mới thực sự được chú ý phải kể đến giai đoạn sau đổi mới.
Trước thời kỳ đổi mới 1986, do hạn chế về nhận thức mà các nền kinh tế XHCN coi dịch vụ là hoạt động “phi sản xuất”, không tạo ra giá trị và dẫn đến kìm hãm sự tăng trưởng của dịch vụ. Chính sự thiếu quan tâm, chú ý phát triển lĩnh vực dịch vụ trong các chính sách phát triển kinh tế đã dẫn đến thiếu những quy chế thích hợp, cung cấp dịch vụ không hiệu quả, chậm trễ và không đáng tin cậy, nội dung và chất lượng dịch vụ nghèo nàn. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó trong thời gian trước đổi mới.
Trong thời kỳ vận hành kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động dịch vụ chỉ bó hẹp trong khâu phân phối lưu thông do nhà nước tổ chức quản lý. Các loại dịch vụ khác thì hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, ngành dịch vụ từng bước hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ nhanh chóng. Từ phân phối lưu thông chuyển sang kinh doanh là bước đột phá cho hình thành hệ thống dịch vụ “đầu vào- đầu ra” phục vụ quá trình sản xuất vật chất.
So với thời kỳ bao cấp, ngành dịch vụ Việt Nam hiện nay có sự phát triển vượt bậc. Điều đó càng khẳng định lĩnh vực dịch vụ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng từ khi có sự chuyển biến căn bản từ ngân hàng một cấp, chuyển sang ngân hàng hai cấp bắt đầu từ Nghị định 53/HĐBT, ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh ngân hàng tháng 5/1990, tạo ra sự phát triển sôi động của các hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ trung gian tài chính, các tổ chức tín dụng,…đã phục vụ cho nhu cầu to lớn về vốn và tiền tệ của các doanh nghiệp cùng mọi cấp, mọi thành phần kinh tế, và trở thành hệ thống dịch vụ cung cấp phục vụ cho toàn dân. Tính đến cuối năm 2003, cả nước có khoảng 885 Quỹ tín dụng nhân dân và 36 ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay, sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại và sự phát triển thị trường các dịch vụ ngân hàng hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp ngày càng diễn ra sôi động. Các ngân hàng thương mại đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng phạm vi phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm cả các loại thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, … Tính đến cuối năm 2004, có hơn 20 Ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, tổng số tài khoản cá nhân lên đến 1,3 triệu tài khoản, có 650.000 chủ thẻ ATM trên toàn quốc và 600 máy ATM của các ngân hàng thương mại. Dịch vụ chuyển kiều hối qua ngân hàng diễn ra nhanh chóng thuận tiện và rộng khắp trên cả nước như Ngân hàng thương mại cổ phần Đông á dẫn đầu toàn ngành ngân hàng về dịch vụ chuyển tiền kiều hối với tổng doanh số trong năm 2004 đạt khoảng 600 triệu USD,…
Sự bùng nổ sử dụng Intemet và điện thoại di động vào những năm cuối của thập kỷ 90, cùng với các chính sách khuyến khích lắp đặt điện thoại tới các hộ gia đình của ngành bưu chính viễn thông nước ta, đã tạo ra bước phát triển đáng kể cho ngành viễn thông trong giai đoạn này. Bên cạnh đó chính sách đầu tư phát triển hạ tầng giao thông có hiệu quả của Chính phủ đã hình thành mạng lưới giao thông thông suốt từ Bắc đến Nam, chính các yếu tố này tạo nên sự gia tăng tỷ trọng nhiều nhất của nhóm ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc từ 3,98% năm 1995 lên 4,01% năm 2001. Nhưng sau đó, vì cạnh tranh mạnh mẽ đã tạo ra sự giảm giá dịch vụ đáng kể trong khu vực này, khiến tỷ trọng của nhóm giảm xuống còn 3,73% năm 2003.
Sự gia tăng tỷ trọng còn được nhận thấy trong nhóm ngành thuộc về các hoạt động khoa học và công nghệ, từ 0,6l% năm l995 lên 0,65% năm 2001. Tuy nhiên nó lại bị giảm đáng kể trong năm 2002, xuống còn 0,56% và tăng trở lại ở mức 0,6l% năm 2003. Nhìn chung cho cả giai đoạn l995-2003, mặc dù sự biến động về tỷ trọng là không lớn lắm, nhưng về giá trị tuyệt đối đã tăng lên hơn 2,5 lần, từ l.405 tỷ đồng năm 1995 lên 3.696 tỷ đồng năm 2003. Đây là kết quả của chiến lược hoàn toàn đúng hướng và có tầm quan trọng bậc nhất. Nhận thức được khoa học công nghệ phải là nền tảng để tạo bước tiến về năng suất, hiệu quả và chất lượng của mọi ngành khác, Chính phủ đã áp dụng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển khoa học công nghệ như: tiến hành thành lập các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia cho các ngành công nghệ sinh học, vật 1iệu cao áp..., cấp học bổng cho các sinh viên xuất sắc theo học các ngành khoa học, kỹ thuật và công nghệ ở nước ngoài để bù đắp vào những lỗ hổng trong chương trình tài trợ phát triển nguồn nhân lực của nước ngoài cho Việt Nam.
Đảng và Chính phủ luôn chỉ đạo phải đặt nhiệm vụ đào tạo tri thức là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. ở cấp độ đại học và cao đẳng, chất lượng đào tạo cũng là một vấn đề nan giải. Mặc dù một số trường đại học thực sự đã đào tạo được rất nhiều nhân tài cho đất nước, nhưng vẫn chưa thể so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, xu hướng hiện tại là mọi học sinh và mọi phu huynh đều mong muốn bản thân hay con cái mình được đi du học tại các nước phát triển hay thậm chí cả các nước trong khu vực. Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục đào tạo có lẽ cũng đã giảm nhẹ bớt phần nào gánh nặng cho Nhà nước về lĩnh vực này.
Các loại hình dịch vụ mới ra đời như thông tin liên lạc, chuyển giao công nghệ, tư vấn đầu tư và các dịch vụ nghiên cứu, khai thác thị trường đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nước ta trong những năm qua. Các loại dịch vụ mang tính chất kinh doanh đặc thù như: thương mại, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính tín dụng, du lịch, khách sạn, nhà hàng... đã nhanh chóng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tạo nhiều việc làm và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Năm 2002, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ gồm khoảng 56,9% trong tổng số doanh nghiệp, đóng góp cho nền kinh tế 24,7 % tổng số lao động, 55,4% tổng số nguồn vốn đầu tư, 54% tổng doanh thu và nộp NSNN 42,6%.
Bảng 5. Đóng góp của khu vực doanh nghiệp dịch vụ vào GDP năm 2002
(đơn vị tính: %)
Số DN
Lao động
Nguồn vốn
Doanh thu
Nộp NSNN
Tổng số
-Thương nghiệp
-Khách sạn, nhà hàng
-Vận tải, bưu chính viễn thông
-Các ngành dịch vụ khác
56,9
39.4
4,5
5,2
7,8
24,7
9,9
1,7
8,2
4,9
55,4
17,5
1,9
6,0
30,0
54,0
42,5
0,8
5,5
5,2
42,6
25,9
0,7
5,9
10,1
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2003- 2004 Việt Nam và Thế giới
Ngành dịch vụ vẫn có sự tăng trưởng đều đặn trong thời gian qua. Trải qua một thời kỳ áp dụng các chính sách khuyến khích công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì tỷ trọng của ngành nông nghiệp đã giảm trong khi đó dịch vụ hầu như vẫn giữ nguyên tỷ trọng của mình. Tuy nhiên, nếu như tính theo tiêu chuẩn thống kê của Liên hợp quốc, tức là phải gộp cả ngành xây dựng vào trong khối dịch vụ thì chắc chắn tỷ trọng của khối dịch vụ không chỉ dừng lại ở đó. Vì chúng ta ai cũng chứng kiến sự bùng nổ xây dựng tại Việt Nam trong thập kỷ 1990 - 2004.
Có sự gia tăng đáng kể lao động tham gia vào khu vực dịch vụ trong thời gian qua. Mức gia tăng liên tục của lao động trong khối dịch vụ từ 4.630.500 người năm l990 lên 7,2 triệu người năm 2000.
Về bản chất, sự gia tăng lao động trong khối dịch vụ ở Việt Nam hiện nay không thể hiện xu thế phát triển của các nước phát triển khiến cho chuyển dịch cơ cấu lao động từ công nghiệp sang dịch vụ. Mặt khác, các ngành dịch vụ hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là cấp thấp sử dụng lao động trình độ phổ thông nhiều. Tuy vậy, khối dịch vụ là một khối ngành thu hút nhiều lao động mới tham gia vào thị trường lao động nhất so với các ngành khác. Xét về giá trị tuyệt đối, mức biến đổi lực lượng lao động vào khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp đều không đáng kể so với khu vực dịch vụ.
*Đáng chú ý là trong giai đoạn 1995 - 2004, ngành dịch vụ có tỷ trọng giảm trong cơ cấu kinh tế.
Bảng 6. Giá trị và tỉ trọng của ngành dịch vụ trong GDP
Năm
Giá trị (tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
16.190
27.397
42.884
57.828
78.026
100.853
115.646
132.202
150.645
160.260
171.070
186.790
206.182
231.460
272.063
38,59
35,72
38,80
41,23
43,70
44,06
42,51
42,15
41,73
40,08
38,74
38,63
38,46
38,23
38,15
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế Việt Nam và thế giới 2004-2005
Sau khi lên đến đỉnh cao năm 1995 và đạt tỷ trọng 44,06% trong tổng GDP, tỷ trọng dịch vụ đã liên tục giảm xuống trong các năm sau đó và đến năm 2004 chỉ còn 38,15%. Đây là một điều không bình thường trong xu thế phát triển củâ nền kinh tế thế giới ngày nay. Trong tổng số 159 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh về chỉ tiêu này, Việt Nam đứng thứ 131. Tỷ trọng dịch vụ giảm đi do nhiều nguyên nhân như:
-Tổ chức quản lý dịch vụ trong nước chưa mang lại tính hiệu quả cao, tính tự phát còn rõ. Ví dụ như việc xây dựng một số khách sạn, nhà hàng tỏ ra không hiệu quả nhưng vấn tiếp tục xây cất.
-Trong thống kê làm cho khối ngành dịch vụ nhỏ đi khi so sánh với các con số thống kê theo thông lệ quốc tế của WTO. Vì theo WTO thì trong khối dịch vụ bao gồm cả xây dựng (như đề tài đã trình bày ở trên).
-Tốc độ tăng của nhóm ngành này thấp hơn tốc tộ tăng chung của ngành công nghiệp và nông nghiệp. Theo bảng 7, tốc độ tăng của ngành dịch vụ thấp hơn đến 0,69% vào năm 2003 và 0,22% vào năm 2004 so với tốc độ tăng trưởng chung. Chính tốc độ tăng chậm của khu vực dịch vụ đã khiến khu vực dịch vụ trở nên “tụt lùi” so với khu vực khác.
Bảng 7.So sánh tốc độ tăng của dịch vụ so với tốc độ tăng chung qua các năm
(đơn vị: %)
Năm
1996
1997
1998
2002
2003
2004
Tốc độ của ngành dịch vụ
8,8
7,14
5,08
6,54
6,57
7,47
Tốc độ tăng chung
9,34
8,15
5,76
7,08
7,26
7,69
Nguồn:Kinh tế Việt Nam và thế giới 2004 - 2005
-Một số ngành dịch vụ hạ tầng cơ sở quan trọng trong cơ chế thị trường như tài chính tiền tệ, khoa học công nghệ… còn rất nhỏ bé, tăng chậm. Tài chính ngân hàng năm 1995 chiếm 2,01% thì đến năm 2003 lại chỉ còn 1,79%, khoa học công nghệ năm 1995 chiếm 0,61% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 0,56%, đến năm 2004 mới đạt 0,61% - bằng mức cách đây 10 năm. Các tổ chức tài chính tín dụng Việt Nam nắm giữ 90% thị phần tiền gửi và 85% ngoại tệ, thị phần nhỏ bé còn lại là ngân hàng nước ngoài. Thị trường chứng khoán mới được hình thành trong khoảng 5 năm nay, với hơn 20 công ty đăng ký bán cổ phiếu. Đây là một sàn “thử nghiệm” cho giao dịch trao đổi tài chính giữa các ngân hàng. Nhưng những ngân hàng lớn đều là quốc doanh hoạt động theo chỉ thị chưa thật sự có quyền chủ động. Nhận tài trợ nước ngoài, không phân biệt số lượng kể cả những con số nhỏ, đều phải được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt sau khi được các Bộ ngành liên quan xem xét và đệ trình. Hiện nay nền kinh tế tuy còn non yếu về thể chế và lĩnh vực tài chính nhưng với tiềm năng to lớn cần thay đổi để đương đầu với những cam go thử thách của một thế giới thị trường canh tranh khốc liệt.
-Tỷ trọng dịch vụ của các trung tâm lớn như Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh bị giảm sút nhiều. ở Hà Nội, tỷ trọng dịch vụ trong GDP sút giảm từ 66% năm 1985 xuốn còn 62% năm 1990, 1995, và 58% năm 2003. Tỷ trọng GDP của Tp Hồ Chí Minh cũng giảm xuốngđến năm 2003 chỉ còn 50,5%, của Đà Nẵng còn 48,3%, Hải Phòng 45,3%, Cần Thơ còn 42,2%…
-Nhiều dịch vụ vẫn do các cơ quan, đơn vị “ôm” nên hiệu quả hoạt động thấp. Các loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y tế, hội trường, đội xe,… hiện còn đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm chưa được tách ra để các đơn vị chuyên nghiệp khác kinh doanh tập trung nên một mặt đã hạn chế đến việc tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chính, mặt khác hiệu quả hoạt động của các dịch vụ kiêm nhiệm này vẫn còn thấp.
Tóm lại, nhìn về tương lai, cả hai mục tiêu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới sẽ đạt nhanh, hiệu quả hơn nếu ta có một hệ thống các ngành dịch vụ chất lượng cao và hiệu quả, có hàm lượng trí tuệ cao, tăng cường tính cạnh tranh trong nền kinh tế dịch vụ thời đạt kinh tế tri thức. Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta.
Chương 4
Một số giải pháp phát triển dịch vụ ở Việt Nam
Những thay đổi trong nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ thể hiện trước hết ở Chiến lược phát triển kinh tế do Đại hội đảng các cấp đề ra. Những biến động và thay đổi trong chiến lược là nội dung quan trọng định hướng sự phát triển và chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực dịch vụ.
*Trong nội dung Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng IX đề ra cho giai đoạn 2001 - 2010, khái niệm và phân loại dịch vụ vẫn chưa chuẩn xác, ví dụ “dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ phục vụ đời sống”. Tuy nhiên, Chiến lược đã nhấn mạnh tới dịch vụ thương mại (thương nghiệp), vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính. Dịch vụ du lịch được xây dựng phải phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội 2001 - 2010 đã đề ra chỉ tiêu về lĩnh vực dịch vụ như sau:
-Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm khoảng 7%, của lĩnh vực dịch vụ là 7 - 8%
-Tỷ trọng dịch vụ vào năm 2010 là 42 - 43%
-Lao động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 26 - 27%
*Trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 -2005, khái niệm và phân loại dịch vụ chưa được chuẩn xác, ví dụ như “ dịch vụ trí tuệ”. Nhưng nhìn chung nội dung có cụ thể hơn so với năm 2001 - 2010.
Chỉ tiêu như sau:
-GDP tăng 7,5%, dịch vụ tăng 7,5%
-Tỷ trọng dịch vụ trong GDP khoảng 41 – 42%
*Ngày 24/12/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Trong đó nêu rõ: “Trong kế hoạch năm 2005 và các năm 2006-2010, cần đặt cao vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước.”
Mục tiêu đặt ra là:
-Tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, kho bãi, chuyển tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bưu chính viễn thông, xây dựng, xuất khẩu lao động... khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức cạnh tranh cao; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 2006-2010 cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành và nội ngành dịch vụ, tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP của cả nước, tiến tới đạt khoảng 45% vào năm 2010.
-Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển. Thực hiện việc khảo sát, đánh giá sức cạnh tranh của từng lĩnh vực dịch vụ hiện tại và trong tương lai, phân loại các dịch vụ cần được bảo hộ, các lĩnh vực loại trừ tạm thời, loại trừ hoàn toàn cho việc mở cửa các ngành dịch vụ và dành đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Như vậy cùng với quá trình nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ, chiến lược phát triển dịch vụ cũng đã được định hướng chiến lược phát triển cụ thể, rõ ràng hơn.
Phát triển lĩnh vực dịch vụ là một nhiệm vụ lớn và khó khăn không chỉ của các Bộ, ngành, các cấp mà đó còn là trọng trách của cả dân tộc trong xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới và hội nhập. Để đẩy nhanh quá trình phát triển dịch vụ cần chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch và Chương trình hành động phát triển, cũng như các giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện trên cơ sở các định hướng chung và chiến lược phát triển các ngành dịch vụ.
4.1.Xây dựng và phát triển ngành dịch vụ theo hướng thị trường
Đại hội Đảng IX chỉ ra “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không đơn giản chỉ là phương thức chuyển kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là chuyển sang nền kinh tế hiện đại văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên CNXH.
Một trong những điều kiện đóng vai trò quyết định sự phát triển của thị trường dịch vụ Việt Nam là việc hình thành một cơ chế thị trường có hiệu quả mà nhà nước đóng vai trò chủ đạo theo định hướng XHCN. Cụ thể hơn, ta có thể thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh thị trường trong nước, các trung tâm thương mại ở thành thị, mở rộng mạng lưới thương nghiệp trong tất cả mọi thành phần kinh tế ở cả vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo; tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước, tăng tỷ trọng thương mại trong nước, chú trọng kích cầu trong nước để bù đắp lại thị trường bên ngoài bị thu hẹp. Khuyến khích thực hiện các mô hình liên kết giữa nông dân - người sản xuất ra nguyên liệu - với các cơ sở chế biến và khâu lưu thông hàng hoá theo các hình thức hợp đồng kinh tế dài hạn cùng phân chia hợp lý lợi nhuận.
Thứ hai, tăng cường cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ.
Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, là một động lực vận động và thúc đẩy phát triển kinh tế, song phải là cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh một cách bình đẳng. Cần phải sớm ban hành luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền để làm công cụ bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, chống lại những trường hợp cạnh tranh không lành mạnh, không bình đẳng. Thực tiễn cạnh tranh trên trên thị trường hiện nay cũng như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chỉ ra sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền để góp phần cùng các luật có liên quan khác đảm bảo môi trường cùng các luật liên quan khác đảm bảo môi trường kinh doanh, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động thương mại hàng hoá cũng như cho hoạt động thương mại dịch vụ. Đồng thời, luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền được ban hành không chỉ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất, người tiêu dùng mà còn phù hợp với yêu cầu của WTO về bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, rõ ràng trong những trường hợp duy trì độc quyền (đối với thương mại dịch vụ) và thúc đẩy tự do hoá thương mại.
Tham gia AFTA và WTO giúp Việt Nam phát triển thương mại dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và từng bước được tự do hoá. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh của các chủ thể thực hiện các dịch vụ quốc tế còn đang còn nhiều tranh cãi. Từ đó, khi những rào cản thương mại được dỡ bỏ thì một số doanh nghiệp nước ngoài có thể thực hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh nhằm thao túng thị trường ở nước chưa có luật cạnh tranh. Vì thế, luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền cần thiết phải được ban hành ở Việt Nam để đảm bảo cho việc thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ theo quy định của GATS khi Việt Nam gia nhập WTO và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho thương mại dịch vụ phát triển.
4.2.Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước tạo nên nền tảng vững chắc phát triển dịch vụ
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá là một tất yếu lịch sử mà Việt Nam phải trải qua. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, đi đôi với đổi mới công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, làm cơ sở cho sự tăng trưởng vững chắc và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Quá trình phát triển dịch vụ không đứng ngoài sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà nó lại là hai quá trình song song và bổ sung cho nhau. Do vẫn còn trong những bước đi đầu tiên của tiến trình CNH, HĐH, lĩnh vực đầu tiên cần phải được ưu tiên là hiện đại hoá kết cấu hạ tầng. Hệ thống năng lượng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc được xây dựng tốt thì ở đó các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh và có hiệu quả. Chính sự lạc hậu của cơ sở hạ tầng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. Sau ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng là cho các ngành tham gia xuất khẩu gồm cả sản xuất, chế biến, dịch vụ xuất khẩu. Trong đó cần luy ý tới các ngành dầu khí, khoáng sản, cây công nghiệp, gạo, hải sản, hiện đang chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Thứ nữa là các ngành gia công chế biến như may mặc, dệt, lắp ráp, và sản xuất hàng điện tử, thiết bị thông tin, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, lắp ráp động cơ xe máy, sản xuất máy động lực,… Việc lựa chọn giải pháp ưu tiên về cơ cấu “công nghiệp mềm”, “công nghiệp nhiều tầng” sẽ tận dụng được những lợi thế so sánh hiện có của Việt Nam, trong đó có lợi thế lớn nhất là nguồn lao động dồi dào, trẻ, có giáo dục và giá rẻ….
4.3.Giảm tối đa tình trạng tham nhũng
Đạo luật chống tham nhũng quốc tế (Foreign Corrupt Pratices Act – FDPA) ra đời từ năm 1977 nhưng vấn đề chống tham nhũng không chỉ còn là vấn đề của riêng Việt Nam mà là vấn đề tất cả các nền kinh tế phải đối mặt. Khi trở thành một thành viên chính thức của WTO, tham gia vào thị trường thế giới, Việt Nam buộc phải tuân thủ những hoạt động kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế và một trong những vấn đề đó là phải đụng đến vấn đề chống tham nhũng. Cần phải có các chính sách cải cách để phát triển dịch vụ theo những quy định chung của tổ chức quốc tế, và tập dượt vận hành các thiết kế theo những quy chuẩn chung của cộng đồng quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại dịch vụ.
Ngoài ra, một số biện pháp khác là:
-Cần tích cực thực hiện kiểm tra giám sát trong các lĩnh vực dịch vụ công ích còn được nhiều bao cấp và hỗ trợ từ phía nhà nước.
-Giảm tối thiểu những ưu đãi, xoá bỏ cơ chế xin - cho trong doanh nghiệp nhà nước kinh doanh dịch vụ.
-Tăng cường tính hiệu quả của hệ thống tư pháp và tính tự chủ của các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao đạo đức, chuẩn mực công chức, nâng cao trình độ ý thức chính trị của người dân đối với vấn đề tham nhũng.
-Hình thành một cơ quan chuyên trách chống tham nhũng hoạt động độc lập, có thẩm quyền tư pháp lớn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong dân chúng…
4.4.Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ
Trong đàm phán song phương và đa phương để gia nhập WTO, vấn đề hạ mặt bằng thuế quan không phải là vấn đề khó khăn đối với Việt Nam. Mức thuế quan trung bình Việt Nam đưa ra đối với thương mại hàng hoá trong vòng đàm phán thứ sáu là 28%, vòng đàm phán thứ bảy là 22%, và có thể được chấp nhận ở mức20%. Như vậy, mức thuế trung bình cũng không xa lắm so với mức biểu thuế quan trung bình của các nước trong WTO là 15% đối với hàng công nghiệp và 20% đối với hàng nông nghiệp.
Tuy vậy, trong thương mại dịch vụ, Việt Nam còn ở khoảng cách khá xa só với mục tiêu GATT đề ra theo hướng tự do hoá nhất là dịch vụ như phân phối, giao thông vận tải, xây dựng, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục,… Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã đạt được một bước tiến tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ nhưng so với yêu cầu của WTO thì vẫn chưa đáp ứng được.
Lĩnh vực dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao sẽ tạo tiền đề phát triển kinh tế. Năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam còn thấp. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực này cần có những điều chỉnh có tính chất chiến lược để tốc độ tăng của lĩnh vực dịch vụ lớn hơn tốc độ tăng GDP và tỷ trọng của dịch vụ trong GDP tăng.
Giữa các ngành và phân ngành dịch vụ có sự phụ thuộc nhau rất cao. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngành hoặc phân ngành dịch vụ cần có chính sách và giải pháp đồng bộ đối với chính ngành hoặc phân ngành đó cũng như ngành và phân ngành dịch vụ đầu vào hỗ trợ. Chính phủ phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho nhà cung cấp dịch vụ trong nước, đồng thời chủ động tiến hành tự do hoá các giao dịch dịch vụ quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh các dịch vụ hạ tầng bao gồm dịch vụ vận tải, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực dịch vụ cũng như của nền kinh tế. Các dịch vụ hạ tầng này là dịch vụ đầu vào của mọi nhóm dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của mọi nhóm dịch vụ chỉ có thể được nâng lên nếu các nhóm đó có thể tiếp cận tới các dịch vụ đầu vào chất lượng cao và chi phí thấp.
Khi thực hiện mở cửa, đối mặt với các vấn đề cạnh tranh, giảm thu ngân sách, tự do hoá thương mại dịch vụ thì khá nhiều người trong đó có bộ phận lớn những cán bộ trong cơ quan Đảng và Nhà nước “chùn bước”. Ngoài ra, những lĩnh vực dịch vụ yếu và độc quyền, còn được bao cấp làm hạn chế sự mở cửa dịch vụ, biến lĩnh vực dịch vụ từ chỗ là công cụ thúc đẩy kiến tạo thành nhân tố cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Vì vâỵ, mở cửa thị trường dịch vụ, tích cực tham gia vào WTO là việc cần phải được gấp rút triển khai.
4.5.Hoàn chỉnh khung pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ
Thứ nhất, xây dựng, ban hành văn bản luật điều chỉnh những hoạt động dịch vụ còn thiếu luật.
Một số dịch vụ quan trọng hiện nay chưa có luật do Quốc hội ban hành để điều chỉnh, mà mới có văn kiện dưới luật, cho nên cần phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng và ban hành luật về các dịch vụ này. Chẳng hạn, như dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kiểm toán, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ tư vấn, môi giới tài chính, thuế, v.v… Việc xây dựng và ban hành các luật về dịch vụ này nhằm đảm bảo tính ổn định và tính minh bạch của pháp luật về thương mại dịch vụ.
Các luật mới về dịch vụ phải được xây dựng một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, mang tính nhất quán phù hợp với lộ trình cam kết để gia nhập WTO. Chẳng hạn, khi xây dựng Luật Bưu chính viễn thông cần đảm bảo tính hoàn chỉnh đầy đủ, không chồng chéo, mâu thuẫn với các luật có liên quan, phù hợp với lộ trình cam kết mở cửa cho dịch vụ này. Ví dụ, từ năm 2005 cho phép các nhà đầu tư nước ngoài khai thác dịch vụ viễn thông.
Song song với việc ban hành mới các luật về thương mại dịch vụ, cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành các luật này, tránh trường hợp luật đã có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên không thể triển khai thực hiện trong cuộc sống được, mà phải chờ đợi lâu dài.
Thứ hai, hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành về thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ trên thế giới ngày càng phát triển, nhiều loại dịch vụ mới phát sinh, cũng như nội dung của mỗi dịch vụ cũng đa dạng và mở rộng. Một số văn bản pháp luật về thương mại dịch vụ được ban hành trước năm 1995 (khi WTO chưa ra đời), hoặc ban hành sau năm 1995 nhưng chưa lường hết được những điểm mới phát sinh, do đó có những quy định của pháp luật tỏ ra cứng nhắc, còn mang tính thủ tục, chồng chéo, chưa đảm bảo mở cửa cho hoạt động thương mại dịch vụ. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật này theo hướng tương thích với quy định của WTO nhưng phù hợp với lộ trình cam kết của Việt Nam. Chẳng hạn, về dịch vụ ngân hàng cần sửa đổi, bổ sung Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng cùng với các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành hai luật này theo hướng đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể khai thác dịch vụ ngân hàng, tính minh bạch rõ ràng của pháp luật, thể hiện được các hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng (mở cửa thị trường) theo một lộ trình dự kiến sẽ cam kết khi gia nhập WTO. Ví dụ, đến năm 2010 thì ngân hàng 100% vốn nước ngoài được khai thác dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, đến năm 2015 thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được huy động tiến gửi bằng đồng Việt Nam cũng như ngoại tệ từ dân cư. Các điều kiện đặt ra cho việc cấp phép đặt chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như mức vốn pháp định, thời hạn đã hoạt động kinh doanh cho đến thời điểm xin phép, yêu cầu phát triển kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam, v.v… cần phải được loại bỏ dần và đến năm 2015 thì loại bỏ hoàn toàn. Trước mắt, cần loại bỏ sự khác biệt về mức lệ phí cấp phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng liên doanh, của tổ chức tín dụng phi ngân hàng (theo Nghị định số 13/1999/NĐ-CP) để không còn phân biệt đối xử quốc gia về mức phí này.
4.6. Cải cách DNNN đặc biệt là các DNNN kinh doanh dịch vụ
Việc đổi mới và sắp xếp các DNNN nhằm tăng cường và đẩy mạnh doanh nghiệp nhà nước bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Trong hơn 10 năm qua, cả nước đã cổ phần hóa được 2210 DNNN. Riêng năm 2004, cổ phần hoá được 715 DNNN. Sau khi cổ phần hoá, 90% DNNN hoạt động có hiệu quả với vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 40%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập người lao động tăng 11,84%, cổ tức bình quân tăng 17,11%, số lao động tăng 7%. Cổ phần hoá không những xoá được bao cấp ,bù lỗ của nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần hoá mà còn huy động vốn xã hội để mở rộng đầu tư gần 10.000 tỷ đồng.
Ngày 9/8/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 153 để thể chế hoá luật DNNN sửa đổi. Đã có 47 Tổng công ty và công ty được chính phủ cho phép xây dựng đề án nhưng đến ngày 31/12/2004 mới có 36 đề án được phê duyệt.
Hiện tại, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông đang trong lộ trình để trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông theo Quyết định 58 CP ban hành ngày 22/3/2005. Một số tổng công ty thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ khác nhiều tiềm năng như: Hàng không, Xây dựng, Thương mại, Văn hoá… liệu có thành Tập đoàn kinh tế hay không còn cần đến sự nỗ lực và phấn đấu rất nhiều của các Tổng công ty này chứ không phải ở ý chí chủ quan.
Nếu thực hiện thành công các dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì đến cuối năm nay, cả nước chỉ còn khoảng 1900 DNNN. (Chiếm phần lớn trong số đó vẫn là những DNNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công ích và những lĩnh vực then chốt khác). Mặc dù số lượng giảm nhưng quy mô DNNN lớn hơn nhiều. Bình quân vốn một doanh nghiệp năm 2001 là 25 tỷ đồng thì đến năm 2004 là 60 tỷ đồng. Số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 60% năm 2001 thì nay chỉ còn khoảng 40%. Hầu hết vốn nhà nước tập trung vào tay tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà nước nhằm tăng cường lực lượng kinh tế nòng cốt và công cụ vật chất để nhà nước thực hiện điều tiết thị trường, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo hiệu quả xã hội, sức cạnh tranh và hội nhập.
Lộ trình cải cách DNNN trong giai đoạn tới là hình thành khoảng 5 đến 6 Tập đoàn kinh tế mạnh như Bưu chính viễn thông, Xi măng, Hàng không, Điện lực, Dầu khí, Xây dựng, củng cố 40 đến 50 Tổng công ty nhà nước đúng tầm đủ lực, số còn lại thực hiện cổ phần hoá trong đó nhà nước giữ cổ phần chi phối bằng cơ chế chủ quản để đảm bảo sức cạnh tranh trong hội nhập.
Để hoàn thành lộ trình sắp xếp DNNN vào cuối năm 2005 như theo kế hoạch đã đề ra, cần thực hiện những giải pháp sau:
-Sắp xếp cổ phần hoá DNNN
-Việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế phải sử dụng biện pháp thị trường chứ không phải biện pháp hành chính. Việc hình thành các Tập đoàn kinh tế cần sự hỗ trợ của Chính phủ nhưng chính phủ phải áp dụng các quy tắc thị trường và hỗ trợ bằng các chính sách thuế và tài khoá. Việc quản lý các Tập đoàn kinh tế đi đôi với quá trình mở rộng quy mô của Tập đoàn kinh tế.
-DNNN thuộc các Tổng Công ty cần sự tập trung chỉ đạo của Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ liên quan đến Tổng công ty, chuyển những DNNN còn lại thuộc diện nhà nước cần nắm giữ 100% vốn sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên theo yêu cầu luật DNNN sửa đổi hiệu lực này 1/7/2004.
-Hoàn thành thí điểm Tổng Công ty, Công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, đánh giá và mở rộng, tạo điều kiện Công ty khắc phục những nhược điểm và khó khăn. Tránh việc chuyển đổi tràn lan, hình thức, hoặc các Công ty con núp bóng trốn cổ phần hoá. Khắc phục cơ chế quản lý điều lệ không rõ ràng gây ách tắc sản xuất kinh doanh.
-Kiên quyết phá sản giải thể DNNN làm ăn thua lỗ, trốn trách nhiệm tài chính
4.7.Phát triển những lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng then chốt
Dịch vụ hạ tầng là dịch vụ đầu vào quan trọng nhất cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ và tổng thể nền kinh tế quốc dân, có tác dụng hỗ trợ cho tất cả các loại hình kinh doanh và phát triển được lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các ngành dịch vụ khác và nền kinh tế. Có nhiều dịch vụ cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông,...
- Dịch vụ giao thông vận tải: Đầu tư để duy trì, củng cố, nâng cấp và phát triển có trọng điểm cơ sở vật chất hạ tầng giao thông vận tải. Hình thành một số cảng biển theo mô hình cảng mở, từng bước gia tăng dịch vụ chuyển tải. Từng bước mở cửa thị trường, thu hút sự tham gia của các hãng hàng không quốc tế.
- Dịch vụ xây dựng: Tạo lập khuôn khổ pháp lý và động lực thúc đẩy phát triển các hoạt động đầu tư xây dựng, hình thành thị trường xây dựng với quy mô ngày càng rộng lớn, đa dạng, phong phú; tiếp tục mở rộng phân cấp, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng.
- Dịch vụ bưu chính, viễn thông: Xây dựng, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin rộng khắp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin theo những mục tiêu của Chiến lược phát triển Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Dịch vụ khoa học công nghệ: Tập trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các hoạt động liên quan tới bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, trình diễn công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn khoa học công nghệ, môi giới, xúc tiến công nghệ; các loại hình tổ chức hỗ trợ ươm tạo công nghệ, khởi lập doanh nghiệp; từng bước xây dựng thị trường chuyển giao công nghệ. Các hoạt động đào tạo, huấn luyện cán bộ kỹ thuật, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức quản lý kinh doanh.
Trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng thì dịch vụ tài chính ngân hàng được coi là dịch vụ nền tảng tạo nên sức mạnh thực sự của nền kinh tế:
-Dịch vụ ngân hàng: Đẩy mạnh việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán qua ngân hàng, tăng cường các tiện ích ngân hàng nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả cá nhân người tiêu dùng, sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong quan hệ thương mại, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút kiều hối. Nâng cao khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời đơn giản hóa các quy trình, thủ tục nhằm tiếp tục mở rộng các hoạt động cấp tín dụng theo hướng an toàn, hiệu quả phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước, chuẩn bị cho quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, nhất là khi thực hiện các cam kết theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các cam kết sau khi gia nhập WTO.
- Dịch vụ tài chính: Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; điều chỉnh cơ chế, chính sách để thị trường tài chính và thị trường dịch vụ tài chính hoạt động phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và thực hiện các cam kết quốc tế về tài chính và dịch vụ tài chính. Vì vậy cầntập trung hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, đặc biệt là chính sách tài chính doanh nghiệp, phát triển thị trường dịch vụ tài chính, hỗ trợ kinh doanh sẽ được đẩy mạnh nhằm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, bao gồm dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán - kế toán, tư vấn thuế. Thị trường vốn cũng sẽ được nghiên cứu phát triển để tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu, thực hiện chế độ công khai và minh bạch chính sách, tạo lòng tin với các nhà đầu tư.
Kết luận
Một trong những quy định khi trở thành thành viên chính thức của WTO là Việt Nam phải thực hiện mở cửa thị trường nội địa, khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền, hiện đại hoá trong nhiều lĩnh vực dịch vụ. Xây dựng được một thị trường dịch vụ hiện đại chất lượng cao là bước chuyển biến cơ bản tạo nên sự khác biệt giữa nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế phát triển.
Trong quá trình củng cố, tăng cường và phát triển thị trường dịch vụ, Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều thách thức về chính trị, tư tưởng do hạn chế về khả năng điều tiết, thiếu cọ xát với cạnh tranh quốc tế, nền kinh tế thị trường của Việt Nam ở trình độ thấp và đang trong quá trình hình thành… Thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước, phát huy nội lực của cả dân tộc cũng như tăng cường thể chế thị trường, giảm độc quyền, tăng cường tính cạnh tranh,... sẽ tạo ra những chuyển biến trong ngành dịch vụ đồng thời tăng cường sức sống, tạo đà cho kinh tế Việt Nam đạt được những thành tựu mới trong phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Tài liệu tham khảo chính
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện kinh tế thế giới, TS Phạm Thái Quốc: Trung Quốc- Quá trình CNH trong 20 năm cuối thế kỷ XX, NXB Khoa học xã hội, 2001
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, TS Nguyễn Kim Bảo: Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc giai đoạn năm 1992 - 2010, NXB KHXH, 2004
Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, PGS TS Nguyễn Văn Hồng: Trung Quốc - Cải cách mở cửa những bài học kinh nghiệm, NXB Thế giới 2003
Việt Nam trong thế kỷ XX - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ CNH, HĐH
Christine Hope, Alan Muhle: Doanh nghiệp dịch vụ - Nguyên lý điều hành, NXB thống kê, 2001.
Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS.TS Phạm Văn Dũng: Kinh tế Chính trị tập 1 và tập 2, NXB ĐHQGHN, 2002
Viện nghiên cứu hành chính, TS Lê Chi Mai: Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước. Vấn đề và giải pháp, NXB Lao Động - Xã hội, 2002
Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung Ương, TS Đinh Văn Ân: Việt Nam tích cực gia nhập WTO trong một số lĩnh vực dịch vụ: Bưu chính Viễn thông, Du lịch, Bảo hiểm, Y tế, NXB CIEM, 2003
Tư liệu thống kê Kinh tế - Xã hội 64 tỉnh và thành phố Việt Nam, NXB Thống kê, 2005
Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2004 -2005
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1. tổng Quan ngành dịch vụ và sự phát Triển của ngành dịch vụ 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ 4
1.2. Các loại hình dịch vụ 6
1.3.Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
ngành dịch vụ 8
1.4.Vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại 11
Chương 2: phát triển ngành dịch vụ ở trung quốc – bài học kinh nghiệm đối vơi Việt Nam 18
2.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH - tiền đề phát triển
ngành dịch vụ hiện đại ở Trung Quốc 18
2.2.Chính sách và biện pháp phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc 21
2.3.Những thành tựu và những tồn tại trong phát triển lĩnh vực dịch vụ
ở TrungQuốc 25
2.4.Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ ở Trung Quốc 31
Chương 3: phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam 35
3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ ở Việt Nam 35
3.2.Thời cơ và thách thức khi phát triển ngành dịch vụ trong nền kinh tế
hiện đại 39
3.3. Những nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành và
mở cửa lĩnh vực dịch vụ 49
Chương 4.Một số giải pháp phát triển lĩnh vực dịch vụ
ở Việt Nam 57
4.1. Xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 58
4.2. Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước 60
4.3. Giảm tối đa tình trạng tham nhũng 61
4.4. Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh
của lĩnh vực dịch vụ 61
4.5.Hoàn chỉnh khung pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ 63
4.6. Cải cách DNNN đặc biệt là các DNNN kinh doanh dịch vụ 64
4.7. Phát triển những lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng then chốt 66
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24793.doc