Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững, đưa tỷ lệ che phủ của rừng năm 2000 đạt 33% và năm 2010 đạt 43%.
Với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sáng suốt của Nhà nước, chúng ta tin rằng kinh tế trang trại nước ta sẽ có được những thành công rực rỡ vào năm tới, góp phần to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
45 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự hình thành và các quá trình phát triển của kinh tế trang trại trong nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê gần 1,5 lao động.
Trong số 3044 trang trại điều tra có 1184 trang trại thuê lao động thường xuyên (chiếm 38,90%) trong đó các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở Đắc Lắc là 76,51%.
Phân tổ các trang trại thuê lao động thường xuyên từ 1-2 lao động chiếm 69,01%, trong đó tỷ lệ này ở các trang trại Nghệ An là 90%, Gia Lai chiếm 72,79%. Số lao động thuê từ 3-4 lao động thường xuyên chiếm 18,92%, riêng các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%.
Số trang trại thuê thường xuyên từ 5 lao động trở lên chiếm 12,08%, trong đó các trang trại ở Hà Nội chiếm 21,88%, Bình Dương 21,10%. Có 2403 trang trại thuê lao động theo thời vụ, chiếm 78,95% tổng số trang trại điều tra, trong đó có 80,32% các trang trại thuê hàng năm dưới 500 ngày công.
Số trang trại từ 1000 ngày công trở lên rất ít, chỉ có 139 trang trại.
3-/ Tổ chức hoạt động sản xuất của trang trại.
Trên cơ sở đất được giao, vốn tự có và vốn vay kết hợp với sức lao động của gia đình hoặc có thể thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã tiến hành sản xuất kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận, tạo được việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập ổn định.
3.1. Các loại hình sản xuất kinh doanh.
Các chủ trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh sản xuất hàng hoá chính kết hợp với phát triển tổng hợp theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tổng hợp các tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế, sớm đưa các trang trại vào định hình sản xuất.
Trong 3044 trang trại được điều tra, hướng hoạt động chủ yếu được tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Nhìn vào biểu 4 ta thấy có 2619 trang trại kinh doanh nông nghiệp là chính, riêng trồng trọt có 2353 trang trại với các hướng kinh doanh chính: cây hàng năm (lúa, mía) có 421 trang trại, cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, điều,...) có 1588 trang trại, cây ăn quả (vải, nhãn, cam, xoài,...) có 344 trang trại. Trong số 1588 trang trại có hướng sản xuất kinh doanh chính là cây công nghiệp lâu năm được phân bố tương đối đều về số lượng giữa ba vùng lớn, song đáng chú ý vùng Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung, số trang trại này chiếm tỷ trọng lớn: 86,95% tổng số trang trại của vùng. Trong đó cây cà phê được trồng nhiều ở các trang trại Đắc Lắc với 1314,6ha, ở Gia Lai 1137,5ha, ở Lâm Đồng 1098,6ha. Cây cao su tập trung chủ yếu ở các trang trại của Bình Dương với 1711,9ha, Gia Lai 128,3ha. Các trang trại kinh doanh chè ở Lâm Đồng với 114,3ha, Yên Bái 178,3ha và Nghệ An 103,6ha.
Biểu 4: Số lượng trang trại phân theo hướng sản xuất kinh doanh chính ở 3 vùng lớn của nước ta.
Đơn vị: Trang trại
Nhóm trang trại theo các hướng kinh doanh
Tổng số
Trong đó phân theo 3 vùng lớn
Các tỉnh miền Bắc
Tây Nguyên và Duyên Hải miền Trung
Nam Bộ
1. Cây hàng năm
421
218
1
202
2. Cây CN lâu năm
1.588
452
593
543
3. Cây ăn quả
344
238
29
77
4. Chăn nuôi đại GS
50
16
0
34
5. Chăn nuôi lợn
145
14
0
131
6. Chăn nuôi gia cầm
71
25
6
40
7. Lâm nghiệp
121
109
0
12
8. Thuỷ sản
280
173
46
61
9. Hướng kinh doanh khác
24
7
7
10
Tổng
3.044
1.252
682
1.110
Biểu 4 cũng cho chúng ta thấy rằng số lượng các trang trại kinh doanh chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng thấp, chỉ mới có 266 trang trại. Trong đó 50 trang trại chăn nuôi đại gia súc, 145 trang trại chăn nuôi lợn và 71 chăn nuôi gia cầm. Số trang trại này lại tập trung phần nhiều tại Bắc và Nam Bộ.
3.2. Đầu tư chi phí sản xuất của trang trại.
Đầu tư chi phí sản xuất bình quân chung 1 trang trại khá lớn là 69,722 triệu đồng, trong đó chi phí vật chất chiếm 71,64%, chi phí lao động chiếm 24,94% và chi phí khác chiếm 3,43%. Mức chi phí này lại không đều giữa các tỉnh. Giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất chênh lệch tới 11 lần. Quan hệ giữa đầu tư chi phí vật chất và chi phí lao động của trang trại giữa các vùng cũng khác nhau, nhìn chung các trang trại ở các tỉnh phía Nam tỷ trọng chi phí vật chất cao, trên 80% tổng chi phí sản xuất. Ngược lại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ lại chi nhiều cho lao động và tỷ trọng này lên tới 37%. Đầu tư chi phí trong các trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm rất cao ở chi phí vật chất (trên 90%) chi phí lao động chỉ chiếm từ 6-8,5%. Đầu tư chi phí vật chất lao động bình quân 1 trang trại là 17,387 triệu đồng, trong đó tiền công thuê là 9,376 triệu, chiếm 58,88%. Các trang trại trồng cây lâu năm chiếm 75,3% tổng số tiền công thuê của ngành trồng trọt và chiếm 60,44% chi phí lao động của nhóm trang trại này. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm tỷ trọng tiền công thuê chiếm hơn 16% chi phí lao động.
3.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại.
Cơ cấu sản xuất của trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về lượng của các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. ở đây, ta tập trung xem xét cơ cấu sản xuất của trang trại trên hai chỉ tiêu chính đó là: cơ cấu giá trị sản xuất (tổng thu) và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các ngành, các bộ phận sản xuất trong trang trại.
Biểu 5: Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại theo hướng kinh doanh khác nhau
Đơn vị: %
Nhóm trang trại theo hướng kinh doanh
Tổng số
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Bình quân chung
100
58,01
26,68
15,31
Trong đó:
1. Cây hàng năm
100
91,03
6,33
2,64
2. Cây lâu năm
100
94,86
4,64
0,50
3. Cây ăn quả
100
77,33
16,51
6,11
4. Chăn nuôi đại GS
100
16,72
79,13
4,15
5. Chăn nuôi lợn
100
0,75
99,01
0,25
6. Chăn nuôi gia cầm
100
1,54
97,70
2,76
7. Lâm nghiệp
100
48,09
38,08
13,83
8. Thuỷ sản
100
3,64
3,82
92,54
9. Hướng KD khác
100
78,47
18,99
2,54
Các trang trại nước ta hầu hết tập trung vào sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và thuỷ sản, vì thế cơ cấu sản xuất của trang trại rất đa dạng, tuỳ thuộc vào hướng kinh doanh được lựa chọn và kết hợp với phát triển tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài, giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 57,75% tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 27,30%, thuỷ sản chiếm 13,78% và lâm nghiệp chiếm 1,18%. Cơ cấu sản xuất của trang trại ở các vùng cũng có đặc trưng riêng, khác biệt, vùng miền núi phía Bắc giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 66,23% (trong đó chủ yếu là cây công nghiệp và cây ăn quả) chăn nuôi chiếm 19,99%, thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm 17,09%. ở Duyên hải miền Trung tỷ trọng giá trị sản xuất thuỷ sản chiếm 77,27%, tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm 21,8% (chủ yếu là cây ăn quả). Các trang trại thuộc nhóm có hướng kinh doanh cây ăn quả, cây hàng năm, cây lâu năm, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm từ 73 đến 97%. Nhóm trang trại chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi lợn tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm từ 78-98%. Nhìn vào biểu 4 ta cũng thấy rằng cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá các trang trại cũng phản ánh xu thế chung tương tự như cơ cấu giá trị sản xuất.
Nhìn chung các trang trại có tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành, sản phẩm cao hoặc thấp thì tương tự cũng có tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của các ngành, sản phẩm tương ứng cao hoặc thấp. Giữa hai chỉ tiêu có sự chênh lệch nhưng đều phản ánh xu hướng chung đó.
4-/ Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại.
Kinh tế trang trại nước ta mới phát triển và đã phát triển tương đối mạnh trong những năm gần đây, nhưng phần lớn trang trại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản đối với các vườn cây lâu năm, rừng trồng nguyên liệu, nhất là các trang trại bước đầu đã đem lại kết quả rõ rệt. Điều này thể hiện trên nhiều mặt, tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét trên một số mặt chủ yếu sau đây:
4.1. Tổng doanh thu của trang trại.
Biểu 6: Tổng thu bình quân một trang trại năm 1998
Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Tổng thu
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Lâm nghiệp
Bình quân chung
105,426
60,880
28,776
14,526
1,246
Trong đó:
Sơn La
46,05
41,07
4,21
0,48
0,29
Yên Bái
33,25
16,10
10,02
2,28
4,85
Quảng Ninh
24,48
12,00
4,73
6,86
0,89
Hà Nội
129,74
18,48
52,05
58,64
0,57
Thanh Hoá
101,94
51,03
6,23
43,23
1,45
Nghệ An
38,58
20,65
8,96
5,81
3,16
Gia Lai
104,33
98,57
5,72
0,03
0,0
Đắc Lắc
162,92
160,97
1,76
0,20
0,0
Lâm Đồng
150,83
130,23
20,45
0,154
0,0
Khánh Hoà
164,67
35,91
1,52
127,24
0,0
Ninh Thuận
148,25
35,66
20,33
91,99
0,28
Bình Dương
57,79
41,85
13,11
2,79
0,04
Đồng Nai
224,94
23,60
198,63
0,27
2,41
Long An
110,86
95,65
11,15
2,34
1,75
Cà Mau
70,98
30,19
1,17
38,99
0,03
Nghiên cứu biểu 6 ta thấy rằng mức tổng thu trung bình một trang trại là 105,426 triệu đồng. Trong đó trồng trọt 60,880 triệu, chăn nuôi 28,776 triệu, thuỷ sản 14,526 triệu và lâm nghiệp 1,246 triệu. Mức tổng thu giữa các tỉnh có sự chênh lệch rất lớn, tới 9 lần, cụ thể Đồng Nai đạt 224,94 triệu, trong khi đó Quảng Ninh chỉ đạt 24,48 triệu. Nhìn chung mức tổng thu của các trang trại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ thấp do có vốn đầu tư thấp, chủ yếu dựa vào trồng trọt và đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Ngược lại các trang trại ở Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ đạt mức doanh thu khá cao.
Các trang trại có hướng kinh doanh chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản có quy mô doanh thu lớn, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung. Chủ trang trại nông dân và chủ trang trại khác có mức tổng thu cao hơn mức trung bình chung, đạt 110 đến 139 triệu đồng.
4.2. Giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại.
Sản xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản và bản chất của kinh tế trang trại, để đánh giá trình độ phát triển kinh tế hàng hoá có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá và tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hoá.
Giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại điều tra là 91,449 triệu đồng, trong đó các trang trại ở các tỉnh có quy mô nhỏ đạt từ 18-27 triệu đồng như Quảng Ninh, Yên Bái, Nghệ An. Ngược lại các tỉnh như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà, Ninh Thuận đạt quy mô từ 132 triệu đồng trở lên. Các sản phẩm hàng hoá của trang trại điều tra, chủ yếu là nông sản và thuỷ sản. Chưa có lâm sản vì đại đa số rừng trồng đang trong thời gian chăm sóc và tu bổ. Tất cả những điều này được thể hiện rất rõ ở biểu 7.
Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại giữa các vùng có sự chênh lệch khá lớn. Trong khi các trang trại vùng núi phía Bắc quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá còn nhỏ, phần lớn đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản thì ở vùng Duyên Hải miền Trung chủ yếu kinh doanh thuỷ sản có quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá lớn. Nhóm trang trại lâm nghiệp quy mô giá trị sản phẩm mới đạt 19,322 triệu đồng, trong đó ngành chính là lâm nghiệp chưa có sản phẩm hàng hoá, giá trị sản phẩm hàng hoá trên là kết quả của mô hình lâm nông kết hợp, lấy ngắn nuôi dài.
Biểu 7: Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại
Đơn vị: triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Giá trị hàng hoá
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Bình quân chung
91,449
53,048
24,403
13,998
Trong đó:
Sơn La
40,816
36,407
3,981
0,428
Yên Bái
21,916
12,882
7,037
1,997
Quảng Ninh
18,056
7,396
4,128
6,533
Hà Nội
117,551
15,132
15,479
56,941
Thanh Hoá
90,766
45,322
6,946
38,498
Nghệ An
28,103
16,613
6,358
5,231
Gia Lai
82,892
78,321
4,540
0,030
Đắc Lắc
141,867
140,355
1,383
0,129
Lâm Đồng
132,744
114,165
18,472
0,107
Khánh Hoà
163,126
34,988
1,384
126,754
Ninh Thuận
139,766
33,298
14,481
91,988
Bình Dương
57,187
41,335
11,793
4,059
Đồng Nai
189,192
20,816
168,128
0,248
Long An
103,177
91,403
9,478
2,296
Cà Mau
67,159
28,334
1,407
37,418
4.3. Thu nhập và đời sống của trang trại.
Thu nhập trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ đi phần chi phí vật chất, tiền công thuê lao động và chi phí khác.
Biểu 8: Quy mô thu nhập của các trang trại
Đơn vị: Triệu đồng
Trang trại ở các tỉnh
Tổng thu nhập
Trong đó
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thuỷ sản
Lâm nghiệp
Bình quân chung
46,112
29,359
8,726
7,493
0,534
Trong đó:
Sơn La
29,512
26,707
2,226
0,333
0,206
Yên Bái
21,425
10,384
6,332
1,494
3,244
Quảng Ninh
13,310
7,791
2,073
3,275
0,474
Hà Nội
43,231
5,667
11,517
26,883
-0,836
Thanh Hoá
54,260
27,618
2,626
23,237
0,778
Nghệ An
18,076
9,061
5,376
2,985
0,653
Gia Lai
43,109
40,651
2,435
0,018
0,005
Đắc Lắc
79,262
78,455
0,836
0,127
-0,156
Lâm Đồng
71,303
66,416
4,797
0,097
-0,007
Khánh Hoà
93,380
25,745
0,927
66,709
0,0
Ninh Thuận
78,986
19,740
11,953
47,652
0,0
Bình Dương
18,927
13,981
4,373
0,716
-0,14
Đồng Nai
62,932
8,304
53,092
0,149
1,416
Long An
46,128
41,248
2,792
1,613
0,415
Cà Mau
45,726
22,590
0,975
22,472
-0,310
Các kết quả tính toán cho thấy thu nhập trang trại bình quân là 43,47% tổng thu. Một số tỉnh có mức thu nhập thấp như Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ninh từ 13-20 triệu đồng, ở các tỉnh như Đắc Lắc, Ninh Thuận, Khánh Hoà có mức thu nhập rất cao từ 75-91 triệu đồng. Nhóm chủ trang trại là nông dân có mức thu nhập 48,463 triệu đồng. Nhóm trang trại có hướng kinh doanh gia cầm, chăn nuôi lợn, thuỷ sản có mức thu nhập rất cao từ 49-88 triệu đồng/năm.
Biểu 9: Mức thu nhập bình quân lao động trong độ tuổi và nhân khẩu của các trang trại điều tra
Đơn vị: 1.000.000đ
Chỉ tiêu
Trang trại ở các tỉnh
Thu nhập của 1 lao động
TN của một nhân khẩu
BQ 1 năm
BQ 1 tháng
BQ 1 năm
BQ 1 tháng
Bình quân chung
16,120
1,343
7,920
0,660
Trong đó:
Sơn La
9,772
0,814
4,611
0,384
Yên Bái
7,762
0,640
4,012
0,334
Quảng Ninh
4,452
0,371
2,874
0,239
Hà Nội
14,315
1,193
7,817
0,651
Thanh Hoá
21,113
1,759
9,974
0,831
Nghệ An
7,230
0,602
3,347
0,279
Gia Lai
15,233
1,269
7,185
0,599
Đắc Lắc
26,073
2,173
11,055
0,921
Lâm Đồng
25,285
2,107
11,211
0,934
Khánh Hoà
30,220
2,518
15,434
1,286
Ninh Thuận
22,632
1,886
11,220
0,935
Bình Dương
7,113
0,593
4,009
0,334
Đồng Nai
22,004
1,834
11,099
0,925
Long An
13,978
1,165
7,818
0,652
Cà Mau
12,737
1,061
7,672
0,639
Nếu ta tính thu nhập trang trại tính bình quân cho 1 lao động thì mức đó là 16,120 triệu đồng/năm tức 1,343 triệu đồng/tháng. ở chỉ tiêu này mức độ chênh lệch giữa các tỉnh cũng rất lớn, như ở Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà các trang trại đạt từ 24 đến 29 triệu đồng/năm tức 2,033 đến 2,643 triệu đồng/tháng. Trong khi đó một số tỉnh như Quảng Ninh, Nghệ An mức này chỉ có 4,340 đến 6,971 triệu đồng/năm, tức là 0,362 đến 0,573 triệu đồng/tháng. Nếu ta tính cho nhân khẩu thì mức thu nhập là 7,513 triệu đồng/năm tức 0,626 triệu đồng/tháng.
Do mức thu nhập của các trang trại tương đối cao cho nên mức chi tiêu cho đời sống cũng lớn, bao gồm cả đời sống vật chất và tinh thần.
Mức chi tiêu về ăn uống bình quân năm 1998 của trang trại là 13,294 triệu đồng. Trong đó một số tỉnh có thu nhập cao như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà có mức chi từ 18 đến 22 triệu đồng cho việc ăn uống.
Các trang trại ở vùng núi phía Bắc, khu 4 cũ, mức chi tiêu ăn uống thấp, chỉ bằng khoảng 1/2 mức chi tiêu ở các trang trại Tây Nguyên. Không những chỉ có đời sống vật chất được nâng cao mà đời sống tinh thần của các trang trại cũng ngày càng được đầy đủ hơn. Từ tài liệu điều tra cho chúng ta thấy giá trị tài sản sinh hoạt bình quân một trang trại là 83,938 triệu đồng. Trong đó Đắc Lắc đạt bình quân 160,76 triệu đồng, Yên Bái chỉ đạt 33,62 triệu. Diện tích nhà ở cũng ngày một khang trang và kiên cố, bình quân chung mỗi trang trại có 84,38m2 nhà ở, trong đó tỷ lệ nhà mái bằng chiếm 24,4%, nhà mái ngói tường xây chiếm 63,54%. Các phương tiện phục vụ đời sống cũng ngày một nâng cao, xe gắn máy bình quân một trang trại có 0,886 cái, ti vi màu 0,778 cái, điện thoại 0,186 cái...
- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Sự phát triển kinh tế trang trại hiện nay trong nông nghiệp nước ta đòi hỏi một lượng lao động khá lớn. Ngoài số lao động của bản thân trang trại, hàng năm các trang trại còn thuê thêm lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Trong tổng số 3044 trang trại được điều tra đã tạo thêm việc làm cho 6079 lao động, trong đó có 2983 lao động được thuê thường xuyên và 3096 lao động làm thuê theo thời vụ quy đổi. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tính chung cho cả nước, kinh tế trang trại đã tạo ra việc làm cho hơn 60 vạn lao động với mức tiền công thoả đáng. Bình quân mức tiền công hàng tháng đạt 434,29 ngàn đồng, trong đó Đắc Lắc và Bình Dương có mức tiền công từ 521 đến 527 ngàn đồng, thấp nhất như các trang trại ở phía Bắc cũng đạt 272 đến 296 ngàn đồng/tháng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt mức tiền công 538 ngàn đồng. Tiền công thuê lao động thời vụ được chủ trang trại trả 18 ngàn đồng/ngày công.
Từ kết quả phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta như đã nêu ở trên, em nhận thấy rằng, trong thời gian qua kinh tế trang trại trong nông nghiệp đã đạt được những thành công bước đầu khả quan, mở ra một hướng phát triển mới cho nền nông nghiệp nước nhà. Thực tế cho thấy phát triển kinh tế trang trại là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Kinh tế trang trại đã tỏ ra được ưu thế và tương lai phát triển của mình so với các hình thức sản xuất khác. Kinh tế trang trại tỏ ra vượt trội về khả năng sản xuất hàng hoá, khả năng tận dụng những ưu thế của vùng và cả khả năng cho thu nhập cao.
Tuy nhiên, từ thực tế phân tích thực trạng như trên cũng mở ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Cụ thể chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và đánh giá về sự phát triển của kinh tế trang trại trong nông nghiệp thời gian vừa qua như sau:
Một là, những ưu điểm đã làm tốt, cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới:
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là trung du, miền núi và ven biển. Mặc dù còn nhiều mới mẻ và đang trong quá trình phát triển, nhưng trang trại đã thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn, một mặt đã tạo ra lượng giá trị lớn về nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá mà quy mô đã vượt trội so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính, sản phẩm sản xuất ra là để bến trên thị trường.
- Kinh tế trang trại đóng vai trò là nhân tố mới trong nông thôn, là động lực mới, nối tiếp và phát huy động lực kinh tế hộ nông dân, là khâu đột phá trong quá trình chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Các trang trại đã tạo ra khối lượng lớn về nông sản hàng hoá đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là quá trình tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn.
- Chủ trang trại với cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó chủ yếu có nguồn gốc từ hộ làm ăn kinh tế giỏi ở khắp các vùng trong cả nước, là lực lượng chủ yếu phát triển kinh tế trang trại, với tỷ trọng 71,19% là nông dân, nói lên rằng để phát triển kinh tế trang trại ở nước ta trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng nông dân làm kinh tế giỏi. Điều này thật đúng với mong muốn của Đảng và Nhà nước là làm sao để nông dân có thể giàu lên một cách chính đáng.
- Phát triển kinh tế trang trại đã huy động được một số vốn lớn nhàn dỗi trong dân đầu tư sản xuất có hiệu quả.
- Một số đáng kể các trang trại đã chọn hướng kinh doanh phù hợp với vùng chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá theo quy hoạch của Nhà nước và của các địa phương. Góp phần sớm định hình các vùng sản xuất chuyên môn hoá gắn với các trang trại chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển cùng với sự phát triển của toàn vùng.
- ở nước ta, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người rất thấp, nhưng đất có khả năng trồng trọt và diện tích có khả năng chăn nuôi còn rất lớn chưa được khai thác và sử dụng.
Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng tốt hơn quỹ đất, đưa đất đang hoang hoá vào sản xuất nhất là ở các vùng trung du và miền núi, ven biển.
- Nước ta có trên 70% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, đó là một tỷ lệ quá cao đối với bất kỳ một quốc gia nào, điều đó dẫn đến vấn đề là làm thế nào để giải quyết nạn thất nghiệp, lao động không có việc làm thường xuyên. Phát triển kinh tế trang trại đã tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể dân cư sống ở nông thôn.
- Mặt khác với sự hình thành và phát triển của mình, trang trại, nhất là các trang trại trồng cây lâu năm và trồng rừng đã cải thiện đáng kể môi trường sinh thái - một lợi ích không thể tính được bằng tiền.
- Trang trại còn là cầu nối truyền tải khoa học kỹ thuật và công nghệ về nông thôn, là tấm gương làm ăn giỏi cho mọi người cùng noi theo.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn như vậy và tác dụng và ưu điểm của việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp là không thể chối cãi nhưng bên cạnh những ưu điểm đó kinh tế trang trại nước ta cũng có nhiều tồn tại đang đặt ra một loạt các vấn đề còn tiếpt ục nghiên cứu và giải quyết trong thời gian tới, đó là:
- Chúng ta chưa có một hệ thống chính sách thật sự đồng bộ, cụ thể nhằm khuyến khích, phát triển kinh tế trang trại mặc dù đã có rất nhiều chính sách được đưa ra. Điều này gây không ít khó khăn cho các hộ nông dân, cho các trang trại và cho cả những người quản lý.
Sở dĩ có tình trạng này là do có sự chưa thống nhất thực sự về nhiều vấn đề trong các cơ quan lãnh đạo như: phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại có nên hay không? có làm chệch hướng XHCN mà chúng ta đã xác định hay không? có nên để cán bộ đương chức, đảng viên thành lập, làm chủ trang trại hay không?.... kinh tế trang trại mới phát triển ở nước ta nên chưa có thật nhiều kinh nghiệm giải quyết vấn đề này.
Mặc dù Nghị quyết số 03/2000 của Chính phủ đã được ban hành, đã phần nào giải quyết được những thắc mắc nêu trên nhưng về lâu dài thì việc hoàn thiện hệ thống chính sách vẫn là việc hết sức cần thiết.
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại phát triển khá mạnh, song chủ yếu là tự phát và phân tán, chưa thật gắn với quy hoạch các vùng sản xuất chuyên môn hoá và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Tình trạng này diễn ra là do chưa có sự chỉ đạo, phối hợp sát sao của các cơ quan, các đơn vị làm công tác thu gom chế biến, quy hoạch chưa tốt, trình độ của người nông dân còn thấp và thói quen tiểu nông vẫn còn tồn tại.
- Quỹ đất của trang trại có nguồn gốc rất đa dạng bao gồm cả phần đất đã được giao sử dụng lâu dài và phần đất chưa được giao, trong đó phần đất chưa được giao chiếm tỷ trọng đáng kể. Nguồn gốc và phương thức quản lý quỹ đất đai chưa được giao rất khác nhau giữa các vùng. Đất nhận thầu của HTX, của nông, lâm trường và chủ dự án nhiều khi không dứt khoát rõ ràng mang đến cho chủ trang trại nhiều băn khoăn, chưa thật yên tâm bỏ thêm vốn đầu tư sản xuất kinh doanh.
Tình trạng trên diễn ra cũng có một phần nguyên nhân từ việc hệ thống chính sách chưa thật đồng bộ, các cấp các ngành ở các địa phương thực hiện chưa nghiêm túc các chính sách đã đề ra.
- Giá trị và khối lượng sản phẩm hàng hoá của trang trại sản xuất ra tương đối lớn nhưng một số vấn đề về chế biến, bảo quản, thị trường tiêu thụ, giá cả chưa thật hoàn hảo, tuy đã được đặt ra nhưng còn mang tính cục bộ.
Trong một số năm tới, hầu hết các trang trại đưa diện tích cây lâu năm, rừng nguyên liệu vào khai thác và thị trường càng phải đặt nên trước hết. Nếu không giải quyết được vấn đề này ngay từ đầu sẽ gây tổn thất lớn cho các trang trại và cho nền kinh tế của chúng ta.
- Trình độ quản lý cũng như chuyên môn của chủ trang trại ở nước ta khá thấp chủ yếu chỉ học hết cấp hai, số người có trình độ chuyên môn chỉ chiếm 31,8%.
Sở dĩ có tình trạng này cũng là do mặt bằng dân trí của nước ta thấp, số chủ trang trại là nông dân hầu hết chưa được đào tạo một cách bài bản trình độ văn hoá và chuyên môn chiếm tỷ trọng lớn.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng chưa đảm bảo, như hệ thống thuỷ lợi, điện giao thông, cơ sở chế biến,... đều vượt quá khả năng đầu tư của các hộ nông dân và trang trại, cần có sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước.
- Khoa học, kỹ thuật, công nghệ chưa thực sự phát huy hết vai trò đối với kinh tế trang trại một phần là do sự hạn chế về học vấn của chủ trang trại và người lao động và một phần là các trung tâm và tổ chức khuyến nông chưa thực sự phát triển.
- Chính sách thuế và trình độ lao động thuê mướn cũng cần nhiều điều đáng bàn.
- Một thực tế rất đáng buồn ở hầu hết các vùng trong cả nước hiện nay là vấn đề cho các trang trại vay vốn. Các trang trại mới chỉ chủ yếu sản xuất kinh doanh bằng vốn tự có của mình (91,03%), phần còn lại là do vay từ bên ngoài, phần vốn vay của các tổ chức tín dụng vô cùng khiêm tốn so với nhu cầu vay vốn của các trang trại. Nguyên nhân của tình trạng này là do mạng lưới tín dụng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, thủ tục vay vốn còn nhiều dườm dà, tiêu cực trong ngành ngân hàng vẫn còn tồn tại, các khoản thu và đóng góp khi được vay vốn quá nhiều,...
Giải quyết tốt những vướng mắc trên là điều không dễ, tuy nhiên để kinh tế trang trại hình thành và phát triển thuận lợi, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để khắc phục những mặt còn tồn tại trên.
Phần III
Xu hướng hình thành và những quan điểm phát triển kinh tế trang trại
Theo em, muốn có những giải pháp tốt cho việc hình thành và phát triển của kinh tế trang trại chúng ta không thể không xem xét đến xu hướng hình thành và phát triển của nó. Xu hướng hình thành và phát triển sẽ cho chúng ta những thông tin định hình về những trang trại mới sẽ được hình thành và sự phát triển của những trang trại hiện có, kết hợp với những điều chúng ta đã phân tích ở trên sẽ giúp chúng ta có được những thông tin cần thiết.
Hiện nay và trong thời gian tới, các trang trại nước ta đã được hình thành và sẽ tiếp tục hình thành từ các hướng chủ yếu sau đây:
- Các hộ nông dân đi xây dựng vùng kinh tế mới hoặc các hộ tại địa phương được giao đất nông, lâm, thuỷ sản với quy mô đủ lớn lập trang trại trồng cây ăn quả, trồng rừng, chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thuỷ sản.
- Các hộ nông dân lập trang trại trên cơ sở tập trung ruộng đất thông qua nhận chuyển nhượng và chuyển đổi ruộng đất cho nhau có quy mô ruộng đất đủ lớn. Một số hộ nông dân khác lại thuê đất của hợp tác xã hay chính quyền địa phương dưới hình thức nhận thầu.
- Một số công nhân, viên chức bộ đội, công an về hưu hay phục viên trở về địa phương có vấn và khả năng sản xuất hàng hoá trên quy mô ruộng đất. Một số khác chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản hình thành nên các trang trại.
- Một số ít người ở thành thị về nông thôn lập trang trại.
Hướng hình thành ở các vùng cũng sẽ có sự khác nhau.
- ở đồng bằng sông Hồng, diện tích ruộng đất ít, việc hình thành các trang trại ở đây sẽ diễn ra chậm chạp và sẽ có diện tích nhỏ. Hướng chủ yếu sẽ là đầu tư vốn để thâm canh.
- Đồng bằng sông Cửu Long: diện tích canh tác lớn, điều kiện chuyển nhượng thuận lợi nên đã và sẽ hình thành những trang trại với quy mô khá lớn, trồng cây lương thực, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, thuỷ sản.
- ở Trung Du và miền núi: Diện tích đất canh tác lớn, thuận lợi cho việc trồng và khai thác cây ăn quả và cây công nghiệp nên sẽ hình thành những trang trại lâm nghiệp và trang trại trồng cây ăn quả, cây công nghiệp là chủ yếu.
- ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ: có quỹ đất rộng, có điều kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày. ở đây đã và sẽ tiếp tục hình thành các trang trại trồng cây dài ngày như cà phê, cao su, hồ tiêu và trồng rừng.
Các trang trại đã hình thành, trong thời gian tới sẽ phát triển theo những xu hướng sau đây:
- Tích tụ và tập trung sản xuất.
- Chuyên môn hoá sản xuất.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất.
- Hợp tác và cạnh tranh.
Tất cả những điều trên cho chúng ta thấy một bức tranh toàn cảnh về kinh tế trang trại trong những năm tới. Tuy nhiên để phát triển kinh tế trang trại đi đúng hướng và thuận lợi cũng như thống nhất về nhận thức, chúng ta phải thống nhất một số quan điểm cơ bản sau đây:
- Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu của nông nghiệp sản xuất hàng hoá ở nước ta trong tương lai.
Điều này là tất yếu, trong những năm vừa qua nó đã thể hiện được ưu thế và khẳng định được tương lai của mình.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, thực hiện đa dạng hoá các loại hình trang trại, nhưng ở nước ta trong những năm tới đặc biệt chú trọng phát triển của trang trại gia đình.
Nền kinh tế nước ta đang đổi mới với tất cả mọi thành phần kinh tế cùng tham gia và kinh tế trang trại cũng không ra ngoài xu thế này, tuy nhiên trang trại gia đình vẫn sẽ là lực lượng chủ đạo và quan trọng trong việc phát triển của nông nghiệp nước nhà.
- Phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh của trang trại theo hướng tập trung hoá, chuyên môn hoá phát huy lợi thế so sánh ở mỗi vùng trong cả nước. Điều này thực sự cần thiết, mong đạt được hiệu quả cao nhất có thể.
- Phát triển kinh tế trang trại trên mọi vùng đất nước để khai thác mọi tiềm năng kinh tế cho sản xuất nông nghiệp, nhưng trong những năm trước mắt tập trung phát triển ở các vùng trung du, miền núi và những vùng có quỹ đất nông, lâm nghiệp bình quân trên nhân khẩu cao.
- Phát huy nội lực trong nông nghiệp, nông thôn tạo bước phát triển mới của kinh tế trang trại, nhằm tạo sức thu hút các nguồn lực từ bên ngoài cho sự phát triển của kinh tế trang trại ở nước ta những năm tới.
- Phát triển kinh tế trang trại phải có sự quản lý của Nhà nước.
Lợi ích của kinh tế trang trại đã thấy rõ, những ưu điểm của nó là không thể phủ nhận, đòi hỏi trong thời gian tới và cả về lâu dài chúng ta phải ngày càng hoàn thiện các điều kiện cho việc hình thành và phát triển của loại hình sản xuất, kinh doanh này.
phần IV
Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta
Để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển hơn nữa, trong thời gian tới, theo em một số giải pháp sau đây sẽ đáp ứng được phần nào yêu cầu vừa nêu và trước mắt cũng như lâu dài hạn chế, tiến tới xóa bỏ hẳn những tồn tại và vướng mắc trong việc phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta hiện nay.
Một là, giải pháp về đất đai:
Đất đai là vấn đề đang nổi cộm đối với sự phát triển của các trang trại không phải chỉ vì vai trò và tầm quan trọng của nó đối với quá trình hình thành và phát triển của các trang trại mà còn vì hiện nay xử lý vấn đề đất đai trong nông nghiệp nói chung và đất đai cho trang trại nói riêng ở các địa phương còn nhiều điều bất cập.
Trong thời gian tới cần triệt để giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, cần hoàn chỉnh quy hoạch đất đai theo các vùng cơ bản của cả nước, của các địa phương của các vùng để làm cơ sở cho chính quyền các cấp giao đất cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và cá nhân lâu dài và ổn định.
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì có nhận được sự giao đất lâu dài và ổn định thì các trang trại mới yên tâm sản xuất và kinh doanh.
Thứ hai, tập trung đất đai và quy định mức hạn điền cần được thực hiện nhất là ở các vùng trung du, đồi núi trọc, vùng có nhiều đất hoang hoá. Các hộ nông dân cần được tập trung, tích tụ đất đến một mức nhất định mới có thể phát triển kinh tế trang trại vì vậy việc tập trung tích tụ đất là cần thiết cho cả quá trình sử dụng đất hợp lý và hiệu quả.
Tuy nhiên việc tập trung đất cũng cần phải tiến hành thận trọng, nhất là ở các vùng đồng bằng nơi đất chật, người đông, việc tập trung đất cần được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, tránh tình trạng tự phát.
Việc tập trung, tích tụ ruộng đất này cũng sẽ giúp giảm bớt và khắc phục dần tình trạng manh mún trong sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư sản xuất.
Thứ 3, cần tiếp tục giao đất, thực hiện 5 quyền của người sử dụng đất và khẩn trương hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho các trang trại.
Thực hiện tốt điều này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập trung, tích tụ đất ở trên.
Mặc dù, Chính phủ đã có những quan điểm chỉ đạo rõ ràng về vấn đề này qua Nghị quyết số 03/2000 nhưng tình trạng chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao đất lâu dài cho trang trại sử dụng cản trở việc chuyển nhượng, thừa kế, mua bán,... ở một số địa phương vẫn còn diễn ra do thói quen hành chính và triển khai chậm chạp ở các địa phương gây nên tình trạng người dân chưa thật yên tâm đầu tư vào sản xuất. Đề nghị trong thời gian tới các địa phương cần thực hiện nghiêm chỉnh những quyết định của Chính phủ đã đề ra.
Thứ 4, hiện nay quỹ đất chưa được giao ở các địa phương còn rất lớn, bình quân chung 30%, cá biệt có những tỉnh tỷ lệ này là trên 50%, nên trong thời gian tới chúng ta cần phải phân loại và phân hạng đất để có cách sử lý thoả đáng. Diện tích đất nhận thầu, nhận của nông, lâm trường, nhận theo chủ dự án cần có cách xử lý giải quyết khác nhau.
Thời gian nhận thầu khoán cũng cần phải có thời gian khá dài để các trang trại yên tâm đầu tư vốn, kỹ thuật vào sản xuất, chế độ hợp đồng, bảo hộ cũng cần phải được thực hiện đúng theo quy định pháp lý hiện hành.
Hai là, giải pháp về vốn:
Vốn là nguồn lực đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế trang trại, muốn có đủ lượng vốn sản xuất, các trang trại cần phải huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên hiện nay phần lớn các trang trại dựa vào vốn tự có, lượng vốn vay còn nhỏ, trong đó lượng vốn vay từ các tổ chức tín dụng của Nhà nước còn nhỏ hơn nhiều. Trong khi đó nhu cầu về vốn của trang trại lại rất lớn. Đó là thực tế đáng buồn xảy ra ở các địa phương nước ta hiện nay.
Trong thời gian tới, chúng ta cần giải quyết tốt những vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về phía Nhà nước mà đại diện là các Ngân hàng và tổ chức tín dụng có nhiệm vụ và khả năng cho các trang trại vay vốn.
- Nhà nước cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển kinh tế trang trại, nguồn vốn này tập trung vào việc xây dựng các công trình như thuỷ lợi, giao thông, điện, cơ sở chế biến,... để khuyến khích việc sản xuất phát triển, kết hợp Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Điều này Chính phủ đã có ý định, tuy nhiên chưa thể thực hiện hoàn toàn ngay được vì nhiều lý do khác nhau.
- Vấn đề cho vay và thời hạn vay cũng cần phải quan tâm nhiều.
Như chúng ta đã biết, trong nông nghiệp, chu kỳ sản xuất và kinh doanh kéo dài, nhất là ở các trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và trồng rừng. Cho nên thời hạn cho vay mà các ngân hàng cần đề ra cũng phải dài, phù hợp với chu kỳ thu hoạch của các trang trại, có thể cho vay trước khi trang trại bắt tay vào sản xuất để họ có thể mua tư liệu sản xuất, cây, con giống,... Thời hạn cho vay cần được đặc biệt quan tâm đối với những trang trại đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại thực hiện theo tiến độ của việc đầu tư.
Vấn đề thủ tục cho vay vốn cũng cần được điều chỉnh trong thời gian tới, hiện nay thủ tục để có được một lượng vốn vay ở các địa phương rất phức tạp, qua quá nhiều cơ quan, ban ngành, chi phí cho công việc này quá cao, đấy là chưa kể đến tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ, nhân viên ở các Ngân hàng, gây không ít phiền hà cho nhân dân.
Nên chăng, Nhà nước cần giảm bớt thủ tục cho vay vốn ở các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng nông nghiệp và các tổ chức tín dụng khác, đấu tranh, loại bỏ tình trạng lạnh nhạt, hạch sách của một số cán bộ, nhân viên ngân hàng,... giảm bớt số thu lệ phí, các loại phí ở các địa phương tạo cảm giác hứng khởi và mong muốn được vay vốn của Nhà nước.
- Vấn đề lãi suất.
Lãi suất ở các ngân hàng cho vay hiện nay còn khá cao mặc dù đã có nhiều cải thiện trong thời gian vừa qua, nên trong thời gian tới cần điều chỉnh lãi suất một cách hợp lý cho phù hợp với đặc điểm và tình hình của sản xuất nông nghiệp tuỳ theo khả năng của từng ngân hàng.
Việc thực hiện lãi suất theo quy định ở một số địa phương vẫn còn nhiều điều chưa đúng, nhất là ở cấp xã và thôn, cần nhanh chóng xóa bỏ tình trạng này.
Ngoài ra thì việc Nhà nước ta quy định lãi suất trần cũng tạo ra phần nào sự không linh hoạt của các Ngân hàng thương mại, cần xem xét và điều chỉnh.
- Vấn đề thế chấp.
Vấn đề này đã được quy định rất rõ tại Nghị định số 178/1999/ND-CP ngày 29/12/1999 về việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp và Quyết định số 67/1999/QĐ-UB ngày 30/3/1999 về việc vay vốn không cần thế chấp, thể hiện rõ sự ưu ái của Nhà nước trong thời gian qua.
Tuy nhiên thời gian tới, Nhà nước cần nới lỏng hơn nữa những quy định này, đáp ứng rộng rãi nhu cầu vay vốn của dân cư.
Thứ hai, về phía chủ trang trại.
Cần đào tạo kiến thức về hạch toán kinh doanh để các trang trại sử dụng có hiệu quả hơn nữa lượng vốn hiện có và vốn vay. Đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết, mang lại hiệu quả cao.
Ngoài ra, cần khuyến khích sự đầu tư vào kinh tế trang trại trong nông nghiệp của mọi thành phần kinh tế nhất là các nhà đầu tư ở thành phố, tỉnh khác - những nơi có điều kiện về vốn, khoa học công nghệ và các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trang trại ở những vùng có nhiều tiềm năng mở rộng quỹ đất như trung du, miền núi và ven biển, góp phần phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực này.
Bà là, giải pháp về thị trường
Làm tốt vấn đề thị trường cho cả đầu vào và đầu ra của trang trại là vấn đề thực sự cần thiết, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện nay thị trường đã và đang là vấn đề gây nhiều ách tắc, gây khó khăn cho các trang trại.
Để giải quyết triệt để tình trạng này, trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt các công việc sau đây:
Thứ nhất, cung ứng thị trường các yếu tố sản xuất, đầu vào đầy đủ, với giá cả hợp lý và hệ thống thông tin thông suốt.
Nhà nước cần thông qua hệ thống ngân hàng, hệ thống các doanh nghiệp thương mại để định hướng cung ứng tiền vốn, vật tư đầu vào theo hướng có lợi hợp lý cho kinh tế trang trại khi mà hiện nay các nguồn cung ứng đầu vào đã được phát triển rộng khắp nhưng còn tự phát và lộn xộn về cả giá cả và chất lượng. Trong thời gian tới Nhà nước cần phải thực hiện và thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong cung ứng vật tư đầu vào cho sản xuất. Các cơ quan kiểm định, quản lý thị trường ở Trung ương và địa phương cần hoạt động tốt, tránh những hậu quả mà trang trại có thể phải nhận khi Nhà nước thả nổi thị trường này.
Hệ thống thông tin về thị trường cũng cần được cung cấp đầy đủ thông qua các tổ chức, hiệp hội, các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương giúp trang trại nắm rõ nhất những thông tin cần thiết về việc sản xuất kinh doanh của mình.
Thứ hai, về thị trường sản phẩm đầu ra.
Trong thời gian tới Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện công tác quy hoạch và phát triển các vùng chuyên môn hoá sản xuất với khối lượng hàng hoá nông sản lớn được sản xuất ra.
ở các vùng này, Nhà nước cần đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư xây dựng mới, mở rộng, nâng cấp các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản để thu hút sản phẩm nguyên liệu của kinh tế trang trại.
Củng cố, mở rộng các kênh lưu thông, không ngừng phát triển các kênh lưu thông này, các doanh nghiệp, thương nghiệp Nhà nước cần tồn tại cần liên kết với các thành phần kinh tế khác để làm tốt công tác và nhiệm vụ của mình. Bám sát thị trường, giải quyết đầu ra, đầu vào cho kinh tế trang trại và nông dân có lực lượng dữ trữ về nông sản để can thiệp vào trang trại khi cần thiết.
Cần thúc đẩy và hình thành quá trình kinh doanh hợp tác. Việc vận dụng hình thức hợp tác nào là tuỳ thuộc vào lợi ích và sự tự nguyện của nông dân, thông qua kinh tế hợp tác nhằm thực hiện tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư cho trang trại.
Khuyến khích những người có vốn, có kinh nghiệm và khả năng kinh doanh đầu tư hoặc hợp tác liên doanh phát triển hoạt động đầu ra của trang trại.
Quan tâm đến vấn đề thị trường đầu ra của kinh tế trang trại, trong thời gian qua Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm giúp trang trại có lợi nhất khi bán sản phẩm của mình, gần đây nhất là Nghị quyết của Chính phủ số 03/2000-NQ-CP trong đó quy định rõ:
Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh; hướng dẫn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm nông sản, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiêu thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên địa bàn.
Nhà nước khuyến khích phát triển chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác, hội trợ triển lãm trong và ngoài nước.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình và sản phẩm mua gom của các trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
Tuy vậy, theo em trong thời gian tới Nhà nước cũng cần làm các chính sách bảo hộ, bảo hiểm đối với nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng, nhằm giảm bớt những mất mát cho các trang trại khi không may gặp rủi ro thiên tai hoặc biến động bất thường trên thị trường trong nước và quốc tế. Tránh tình trạng như hiện nay đó là giá cà phê nguyên liệu xuống mức thấp kỷ lục gây thiệt hại cực lớn cho người sản xuất ở nước ta.
Việc khuyến khích phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhất là công nghệ sinh học, chế biến, bảo quản cũng góp phần quan trọng và việc hoàn thiện thị trường sản phẩm đầu ra của trang trại.
Bốn là, giải pháp về khoa học và công nghệ
Giải quyết tốt vấn đề khoa học và công nghệ cho các trang trại là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Theo em, trong thời gian tới chúng ta cần giải quyết các vấn đề sau đây:
Đầu tư thoả đáng từ ngân sách cho việc phát triển công nghệ sinh học nhằm tạo ra bộ giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng trong cả nước.
Khuyến khích các hình thức liên kết trong cả nước về khoa học công nghệ, ứng dụng khoa học - công nghệ nông nghiệp, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng cho các trang trại ứng dụng và phát triển.
Có chính sách thoả đáng nhằm khuyến khích các nhà khoa học đi sâu vào nghiên cứu, chọn lọc, lai tạo giống cây con thích hợp, thực hiện tốt chuyển giao khoa học và công nghệ.
Chính quyền địa phương cần có sự hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, khuyến khích các trang trại phát triển sản xuất gắn với bảo vệ môi trường.
Năm là, giải pháp về thuế:
Thuế hiện nay cũng là một loại công cụ nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, Nhà nước cần có sự ưu đãi về thuế cho loại hình sản xuất kinh doanh mới mẻ này. Một mặt bảo đảm sự công bằng xã hội, mặt khác vẫn bảo đảm khuyến khích các trang trại phát triển sản xuất.
Thứ nhất, về thuế suất thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Hiện nay, mức thuế suất chuyển quyền sử dụng đất là 10% còn cao khiến cho các hoạt động phi pháp trong việc này vẫn diễn ra, gây thất thu lớn. Nên chăng trong những năm tới Nhà nước cần giảm thuế suất này và quản lý việc chuyển nhượng đất chặt chẽ hơn nữa.
Thứ hai, mức thuế quy định đối với phần vượt mức hạn điền.
Chúng ta cần quy định rõ về các mức thuế này và nếu có thể thì giảm hơn nữa, có chế độ ưu tiên với những vùng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá.
Thứ ba, về thuế giá trị gia tăng qua chế biến nông sản với các trang trại hiện nay là 10% là cao đối với loại hình sản xuất kinh doanh này.
Thứ tư, thuế thu nhập của trang trại.
Phần thuế thu nhập của trang trại có nhiều điều cần suy nghĩ. Trong thời gian vừa qua Chính phủ đã có nhiều quy định về vấn đề này đó là thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại ở các vùng đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi, đàm phá ven biển tối đa theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 và luật khuyến khích đầu tư trong nước số 03/1998/QH10.
Theo quy định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hoá lớn, có thu nhập cao thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng đã được quy định lại là chỉ những trang trại đã sản xuất kinh doanh ổn định, có giá trị hàng hoá lớn và lãi lớn mới phải nộp thuế thu nhập đã được giảm thấp.
Mặc dù vậy việc thực hiện cũng cần phải hoàn thiện và triệt để hơn nữa.
Sáu là, giải pháp về nhân lực cho trang trại.
Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, thu hút thêm nhiều lao động ở nông thôn, đặc biệt ưu tiên những trang trại sử dụng lao động của những hộ nông dân ít và không đất, hộ nghèo thiếu việc làm, điều này phải có cơ chế pháp lý linh hoạt hơn. ở các địa bàn có điều kiện đặc biệt khó khăn, chủ trang trại được ưu tiên vay vốn thuộc chương trình đào tạo giải quyết việc làm xoá đói giảm nghèo để tạo việc làm cho lao động tại chỗ, thu hút lao động ở các vùng khác đến sản xuất.
Vấn đề đào tạo cho nhân lực của trang trại đòi hỏi bức bách cả hiện nay và sau này.
- Đào tạo cho chủ trang trại.
Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ thuật của chủ trang trại thông qua việc mở lớp tại địa phương, tham quan, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật,...
- Đào tạo cho nguồn lao động trực tiếp của trang trại.
Đào tạo về khoa học kỹ thuật và công nghệ cho lao động trực tiếp, đào tạo nghề phù hợp cho một bộ phận lao động làm thuê, nhất là bộ phận lao động kỹ thuật thông qua cả hiệp hội, tổ chức, thực tế,...
- Đào tạo cho cán bộ quản lý, khuyến nống,... ở nông thôn.
Bảy là, giải pháp về cơ sở hạ tầng
- Ưu tiên các chương trình dự án có tác động trực tiếp đến sự phát triển các trang trại.
- Động viên các trang trại đóng góp cao hơn cho quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Tăng hơn nữa tỷ lệ hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn cơ chế hoạt động của hệ thống quỹ đầu tư phát triển nông thôn từ Trung ương tới các xã, phường.
- Công khai chi phí xây dựng khi xây dựng những công trình có vốn góp của nhân dân.
Tám là, tăng cường hệ thống khuyến nông từ Trung ương tới địa phương.
Chúng ta cần hiểu rằng khuyến nông là tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện cho nông dân phát triển nông nghiệp. Khuyến nông sẽ giúp các trang trại hiểu rõ các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, khuyến các kịp thời những tiến bộ về khoa học kỹ thuật nông nghiệp và hướng dẫn bà con ứng dụng thực hành,...
Khuyến nông còn giúp các trang trại về tổ chức sản xuất đời sống, hạch toán kinh doanh sao cho có hiệu quả giúp bà con tiếp cận với cơ chế thị trường.
Vì vậy việc thiết lập hệ thống khuyến nông từ TW đến các địa phương là điều cần thiết.
Tập hợp nhiều ngành chuyên môn, nhiều cán bộ quản lý, kỹ thuật, kinh tế,... và những nông dân sản xuất giỏi, có kinh nghiệm làm giàu.
Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trường đại học Nông nghiệp với các Viện nghiên cứu và cơ quan chỉ đạo sản xuất nông nghiệp trong công tác đào tạo, nghiên cứu về khuyến nông. Tăng cường hơn nữa cả về nhân lực và vật lực cho công tác khuyến nống.
Chín là, Tăng cường hơn nữa quản lý của Nhà nước
Nhà nước thừa nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại và sớm tạo khung pháp lý hoàn chỉnh, thuận lợi và rõ ràng để người có vốn, có ý chí làm giàu từ nông nghiệp, có khả năng quản lý yên tâm đầu tư phát triển kinh tế trang trại.
Hoàn thiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể phát triển kinh tế, xã hội của các vùng trong cả nước, từng địa phương để tạo định hướng cho các trang trại lựa chọn phương hướng kinh doanh cho phù hợp.
Nhà nước cần từng bước đổi mới và hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách về kinh tế trang trại của mình. Tránh tình trạng ra quá nhiều văn bản như hiện nay dẫn đến việc các cơ quan, ban ngành thích áp dụng văn bản nào thì áp dụng, thực hiện theo văn bản đó như đất đai, thuế, ngân hàng,...
Và một điều cuối cùng cần nói đến đó là Nhà nước cần phải có chế độ kiểm tra, giám sát và sử lý cho tốt việc thực thi chính sách ở các địa phương, tránh tình trạng làm sai, gây khó khăn cho các trang trại trong việc phát triển của mình.
Hy vọng rằng, trong những năm tới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, trang trại trong nông nghiệp nước ta sẽ thể hiện được những ưu thế vượt trội của mình, góp phần to lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra cho nông nghiệp đó là:
- Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia với dân số lên tới 80 triệu người vào năm 2000 và 91-94 triệu người vào năm 2010 với cơ cấu và chất lượng bữa ăn được cải thiện.
- Tăng nhanh sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá tăng kim ngạch xuất khẩu, năm 2000 đạt 5 tỷ USD và 2010 đạt 11-11,5 tỷ USD.
- Nâng cao đời sống của nhân dân.
Tới năm 2010 so với hiện nay thu nhập của nông dân tăng gấp 2 lần, giải quyết việc làm; xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%, nâng cấp cơ sở hạ tầng.
- Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững, đưa tỷ lệ che phủ của rừng năm 2000 đạt 33% và năm 2010 đạt 43%.
Với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sáng suốt của Nhà nước, chúng ta tin rằng kinh tế trang trại nước ta sẽ có được những thành công rực rỡ vào năm tới, góp phần to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII.
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
3. Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị.
4. Nghị định số 51/1999/ND-CP của Chính phủ.
5. Nghị định số 30/1998/ND-CP sửa đổi.
6. Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ.
7. Báo cáo về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện bảo đảm ổn định xã hội, phát triển kinh tế bền vững, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Ban cán sự Chính phủ ngày 7/10/1998.
8. Giáo trình kinh tế nông nghiệp và quản trị doanh nghiệp nông nghiệp của Trường ĐH KTQD.
9. Tạp chí kinh tế nông nghiệp số 4/2000.
10. Xu thế phát triển nông nghiệp thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
11. Kinh tế trang trại gia đình Việt Nam và thế giới của Trần Đức.
12. Nghiên cứu kinh tế số 248. Tháng 1/1999
13. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH - HĐH ở Việt Nam - GS.TS Nguyễn Đình Hưng chủ biên.
14. Tạp chí nông thôn mới - Số 1, 2 năm 2000
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0074.doc