Trái phiếu là một trong những công cụ thu hút tiền từ lưu thông hiệu quả, là kênh huy động vốn giá rẻ, an toàn, dài hạn với khối lượng lớn và là công cụ hữu hiệu trong chính sách tiền tệ . Mặc dù giữ một vị thế đặc biệt quan trọng trên thị trường vốn bên cạnh chứng khoán vốn và ngân hàng nhưng hiện tại hoạt động của thị trường trái phiếu vẫn còn rời rạc và chưa xứng tầm.
Vì vậy tìm hiểu và phân tích thị trường trái phiếu Việt Nam chúng ta mới đưa ra được các giải pháp phù hợp để làm cho thị trường này phát triển hơn nữa và tiếp cận được đến đông đảo nhà đầu tư.Từ đó kích thích nó mở rộng hơn về số lượng cũng như quy mô, đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường ngày nay.
Với việc ra đời của hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) trong thời gian vừa rồi sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu phát triển, trở thành kênh huy động vốn hiệu quả, đáp ứng phần nào nhu cầu đầu tư đa dạng của nhiều loại hình nhà đầu tư khác nhau trong và ngoài nước. Sự phát triển của thị trường trái phiếu đã đang và sẽ góp phần vào việc phát triển và đa dạng hóa thị trường tài chính, ổn định nền kinh tế chung.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 7551 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan đối với mọi quốc gia trên thế giới. Làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra rất khẩn trương và mạnh mẽ. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu một bước tiến rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%/năm tương đối ổn định so với các nước trong khu vực. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì phải chuẩn bị nguồn lực thật tốt và một trong những nguồn lực không thể thiếu là vốn. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay nhu cầu vốn tăng cao và tăng dần qua các năm.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả hết sức khả quan. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường trái phiếu, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước.
Với tính cấp thiết của việc phát triển thị trường trái phiếu, tôi chọn đề tài “Thị trường trái phiếu Việt Nam” nhằm đưa ra cái nhìn rõ hơn về thị trường này, từ đó có những giải pháp mang tính chất định hướng để phát triển thị trường trái phiếu hoạt động hiệu quả trong ngắn hạn và dài hạn ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1. 1. Khái quát chung về trái phiếu
1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu (TP) là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.1.2. Đặc trưng của TP
Trái phiếu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành (người đi vay) hoàn trả cho người cho vay (người đầu tư) khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một thời gian nhất định.
1.1.2.1. Người phát hành
Bản chất của người phát hành là một đặc trưng quan trọng của TP.Có hai loại người phát hành chính là chính phủ (Chính phủ và địa phương) và công ty.Chính phủ là người phát hành đáng tin cậy nhất do có được những điều kiện đảm bảo cao nhất cho việc hoàn trả gốc và lãi.Còn công ty thì phát hành nhiều loại, mỗi loại có khả năng khác nhau trong việc đáp ứng các nghĩa vụ đã thoả thuận với người cho vay.Hay có thể coi rủi ro thanh toán của TP chính phủ bằng 0, còn TP công ty khác nhau có mức độ rủi ro thanh toán khác nhau.
Ngoài rủi ro thanh toán, TP chính phủ vẫn phải chịu các loại rủi ro khác nhau như bất cứ TP công ty nào như rủi ro lãi suất, rủi ro lạm phát....
1.1.2.2. Thời hạn
Thời hạn của trái phiếu là số năm theo đó người phát hành hứa hẹn đáp ứng những điều kiện của nghĩa vụ.Thời hạn của một TP là ngày chấm dứt sự tồn tại của khoản nợ, người phát hành sẽ thu hồi TP bằng cách hoàn trả khoản vay gốc.Thời hạn này cũng được gọi là thời gian đáo hạn của TP.
1.1.2.3. Mệnh giá
Là giá trị danh nghĩa, hay giá trị bề mặt của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại diện cho số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo hạn.
Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
Công thức tính:
MG = VHĐ/SPH Trong đó MG: mệnh giá trái phiếu
VHĐ: số vốn huy động
SPH: số trái phiếu phát hành
1.1.2.4. Lãi suất cuống phiếu
Lãi suất cuống phiếu là lãi suất danh nghĩa của TP quy định mức lãi mà nhà đầu tư hưởng hàng năm.
Lãi cuống phiếu là khối lượng lãi hàng năm trả cho người sở hữu TP trong suốt thời hạn của TP.
Lãi cuống phiếu = Lãi suất cuống phiếu x Mệnh giá TP
Thông thường TP được trả lãi cuống phiếu theo định kỳ, mỗi năm 1 lần hoặc 2 lần/năm, trừ TP không trả lãi định kỳ (zero- coupon bond).Người nắm giữ TP này sẽ nhận được tiền lãi do mua TP với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Khi TP đáo hạn, lãi sẽ được trả, chính bằng khoản chênh lệch giữa mệnh giá TP và giá đã trả để mua TP đó.
Có cả TP thả nổi với lãi suất cuống phiếu được định kì ấn định lại theo một chuẩn nào đó được định trước.
1.1.2.5. Quyền mua lại:
Đối với loại trái phiếu có điều khoản mua lại cho phép tổ chức phát hành trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc với mức giá dự kiến trước thời hạn thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao hơn đối với số tiền mà họ vay.Tổ chức phát hành thu hồi TP khi tỷ lệ lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất của TP của tổ chức phát hành đã phát hành trước đó và có thể phát hành TP mới với tỷ lệ lãi suất thấp hơn.
1.1.2.6. Những rủi ro chủ yếu trong đầu tư TP
- Rủi ro thanh toán: là rủi ro khi phía người phát hành TP mất khả năng thanh toán( tạm thời hoặc do phá sản).
- Rủi ro lãi suất: là rủi ro TP thay đổi khi lãi suất thị trường dao động.Nếu TP được nắm giữ tới khi đáo hạn thì không có rủi ro này.
- Rủi ro tái đầu tư: là rủi ro bắt nguồn từ biến động của lãi suất thị trường nhưng tác động tới lợi tức của các khoản tái đầu tư tiền lãi nhận được từ TP.
- Rủi ro lạm phát: xảy ra khi các khoản thnah toán cố định của TP bị giảm sức mua do tình trạng lam phát trong nền kinh tế.
1.1.2.7. Hệ số tín nhiệm của TP
Hệ số thể hiện sự đánh giá về năng lực thanh toán tiền lãi và tiền gốc theo kỳ hạn đã cam kết của nhà phát hành.
Bảng xếp hạng hệ số tín nhiệm
S & P
Moody
Khả năng hoàn trả gốc và lãi
AAA
Aaa
Cực mạnh
AA
Aa
Rất mạnh
A
A
Mạnh, nhạy cảm với bất lợi
BBB
Baa
Vừa đủ mạnh, nhạy cảm hơn
BB
Ba
Đầu cơ, ít vỡ nợ,TC bấp bênh
B
B
Dễ rủi ro hơn, hiện tại vẫn có KNTT
CCC
Caa
Rủi ro lớn, phụ thuộc vào nhà phát hành
CC
Ca
Thường bị vỡ nợ,nhiều khiếm khuyết
C
C
Rủi ro lớn, không trả được lợi tức TP
D
Nguy cơ vỡ nợ cực lớn
1.1.3. Phân loại trái phiếu
1.1.3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
1.1.3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những TP do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Trái phiếu công trình: là loại TP được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các TP do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn.Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
TP công ty có các loại : TP có đảm bảo; TP không đảm bảo; TP có lãi suất thả nổi; TP có thể mua lại; TP có thể bán lại; TP có thể chuyển đổi.
1.1.3.3. Theo thời gian đáo hạn:
+ TP ngắn hạn: thời hạn 1 đến 5 năm
+ TP trung hạn: thời hạn 5 đến 15 năm
+ TP dài hạn: trên 15 năm.
+ TP vô hạn: không ghi ngày đáo hạn
1.1.4. Điều kiện phát hành
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện sau:
- Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi, và không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, sử dụng và trả vốn thu được từ đợt phát hành trái phiếu.
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
1.2. Thị trường trái phiếu
1.2.1. Khái niệm
Thị trường TP là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
1.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu
1.2.2.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,...
- Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất định, trong thời gian hạn định.
1.2.2.2 Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu trái phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành.
Đặc điểm thị trường thứ cấp
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành trái phiếu mà vận chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu, quy luật giá trị,... quyết định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
1.2.2.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp là một lọai thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn chưa có một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu đa dạng, phong phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái phiếu.
Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp, vì một khi TP đã được phát hành ra trên thị trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho TP thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua TP.Chính việc mua bán giao dịch TP trên thị trường thứ cấp làm cho lưu động hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của TTCK, là một kênh huy động vốn tiềm năng cho các dự án của chính phủ và cho các dự án tư nhân. Thị trường Trái phiếu ở Việt Nam hiện nay bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (Bao gồm cả trái phiếu ngân hàng thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các khoản nợ có giá trị khác. Đương nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường vốn. Thị trường vốn Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về quy mô, và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài. Quy mô của TTTP Việt Nam hiện chỉ ở mức 17% GDP.Tính đến 30/6/2009, có khoảng 600 loại trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng mệnh giá 155.367.623 tỷ đồng, chiếm khoảng 72% giá trị toàn thị trường. Trong 3 loại TP hiện đã được phát hành và mua bán tại Việt Nam, bao gồm TP chính phủ và tín phiếu kho bạc, TP chính quyền địa phương và TP doanh nghiệp trong đó TP chính phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó TP địa phương là 10%, TP doanh nghiệp là 9%.
Trong 5 năm giai đoạn 2006-2010, GDP kỳ vọng tăng trưởng ở mức 8 - 8,5%, tổng vốn đầu tư cần thiết được ước tính là 2.675.000 tỉ đồng, tương đương 39.9% GDP. Do đó, nhu cầu vốn qua phát hành trái phiếu được ước tính là 187.250 tỉ đồng. Trong đó TP chính phủ sẽ chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về khối lượng và giá trị. Năm 2008 TTTP đã hình thành thị trường chuyên biệt tại HASTC. Cụ thể từ 2/6/2008 phần lớn TP niêm yết tại HOSE đã được chuyển niêm yết và giao dịch tại HASTC và tập trung thực hiện trên HASTC.
2.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
2.1.1.1 Đấu thầu và bảo lãnh phát hành
Hoạt động phát hành TPCP qua hệ thống KBNN đã được thực hiện từ năm 1991. Hiện nay phát hành TPCP thông qua 2 phương thức: phương thức đấu thầu qua TTCK và bảo lãnh phát hành. TPCP được Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng năm với khối lượng chủ yếu thông qua các kênh bảo lãnh phát hành và đấu thầu qua TTCK. TPCP niêm yết tại các TTGDCK chiếm khoảng 82% thị trường trái phiếu Việt Nam.
Giá trị TPCP đấu thầu thành công qua các năm
(Nguồn SGDCK TPHCM và TTGDCK HN)
Cùng với việc triển khai phương thức đấu thầu TPCP qua TTGDCK, BTC đã thực hiện việc phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành kể từ tháng 09/2000.
2.1.1.2. Giao dịch Trái phiếu chính phủ
Dưới đây là số liệu thống kê về giá trị giao dịch trái phiếu qua các năm.
Có thể thấy trong giai đoạn đầu từ năm 2000-2002 hoạt động giao dịch của trái phiếu nói chung và TPCP nói riêng diễn ra rất thưa thớt. Từ năm 2003 đến nay, giá trị giao dịch TPCP tăng mạnh. Do số lượng TPCP được niêm yết tăng lên đáng kể. Mặt khác, do áp dụng các quy định như không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nhằm thúc đẩy giao dịch trái phiếu.Từ ngày 02/06/2008 toàn bộ TPCP niêm yết tại SGDCK.TpHCM chuyển về giao dịch tại trung tâm GDCKHN.
2.1.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Phát hành TPCQĐP nhằm mục đích huy động vốn đầu tư cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng của Trung ương cũng như địa phương. Hiện nay mới chỉ có Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành TPCQĐP (trái phiếu đô thị) để huy động vốn. Các tỉnh thành được phép phát hành đến 30% tổng nhu cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành trái phiếu. Số trái phiếu này phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.
Hình 2.2: Giá trị TPCQĐP phát hành từ 2003-2007
Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCKTP.HCM và TT GDCKHN
2.1.3. Trái phiếu doanh nghiệp
Cho tới năm 2008 mới chỉ có 21 doanh nghiệp phát hành trái phiếu gồm có: Petro VietNam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim,… Tất cả các công ty này đều là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa. Thực tế nhu cầu vốn của họ là nguồn vốn lớn, dài hạn và ổn định để đáp ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn này khó có thể vay được từ một ngân hàng. Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề nghị với ngân hàng bất kỳ khoản vay nào, tuy nhiên các ngân hàng cũng có những giới hạn trong việc cho vay như các khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do vậy thị trường trái phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
2.1.4. Trái phiếu chuyển đổi ở Việt Nam
Các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi hầu như chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính như: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng cổ phần Gia Định, Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI)…
2.2. Đánh giá thị trường trái phiếu Việt Nam
Quy mô của TTTP Việt Nam: Quy mô thị trường còn nhỏ, lượng trái phiếu phát hành chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng. TTTP Việt Nam ngày càng phát hành đa dạng hơn về loại hình trái phiếu và thời hạn của trái phiếu. Tuy nhiên TPCP vẫn chiếm đa số, TPDN chỉ chiếm 10%. Việc tham gia thị trường trái phiếu của DN mới chỉ là những bước đi đầu tiên, quy mô còn nhỏ nên mới chỉ phát hành ra thị trường nội địa và phương thức phát hành riêng lẻ. Một phần nữa là vì điều kiện để DN phát hành riêng lẻ cũng đơn giản hơn phát hành ra công chúng.
Hoạt động đấu thầu TPCP: Từ năm 2007 đến nay xảy ra một nghịch lý là số lượng thành viên tham gia đấu thầu ngày một tăng, khối lượng đăng ký đấu thầu cũng vượt quá khối lượng gọi thầu, bình quân gấp 3,65 lần khối lượng gọi thầu, điều này cho thấy nhu cầu đầu tư vào TTTP ngày một tăng nhưng khối lượng trúng thầu ngày một giảm.
Đối tượng đầu tư TP: Trước năm 2002, chủ yếu là các NHTM và CTCK. Đến nay, các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các đối tượng khác đã tham gia giao dịch TPCP tích cực hơn. Đặc biệt là các tổ chức đầu tư trái phiếu nước ngoài. Từ năm 2005-2007, thị trường trái phiếu Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm của các quỹ đầu tư trái phiếu quốc tế, giá trị giao dịch TPCP ngày càng tăng đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
Trái phiếu doanh nghiệp phát hành: Chất lượng trái phiếu phát hành chưa cao, thiếu chuẩn mực do vậy tín thanh khoản kém do có lãi suất cố định, giá trái phiếu ít biến động nên các nhà đầu tư không thấy hấp dẫn khi nắm giữ trái phiếu, các nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức như ngân hàng, các công ty bảo hiểm hay các doanh nghiệp lớn nắm giữ trái phiếu nhằm mục đích quản lý tính thanh khoản chứ không phải nhằm mục đích lợi nhuận, vì vậy, họ ưa thích nắm giữ TP chính phủ hơn là các TP doanh nghiệp.
Lãi suất chưa được xác định theo cơ chế thị trường: Chúng ta đang từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất, nhưng thực tế là đang trong quá trình xây dựng và điều hành lãi suất cơ bản, còn bộ tài chính lại điều hành lãi suất TPCP do vậy còn nhiều điểm không đồng bộ trong quá trình hoạch định lãi suất.
Thiếu vắng các nhà tạo lập thị trường: Các nhà tạo lập thị trường trái phiếu đóng 2 vai trò: người môi giới và tự doanh trái phiếu, và họ thu lợi nhuận từ các hoạt động này. Thứ nhất, với tư cách là người môi giới trái phiếu, các nhà tạo lập thị trường có thể thu lợi từ phí môi giới. Thứ hai, với tư cách là người kinh doanh trái phiếu, họ thu tiền nhờ hưởng chênh lệch giá. Các nhà tạo lập thị trường có tiềm lực nhất vẫn là NHTM và CTCK. Họ có thể là những nhà tạo lập thị trường cũng như người môi giới hay bảo lãnh. Tính cho đến thời điểm này ở Việt Nam mới chỉ có Vietcombank (VCB) và IncomBank (ICB) hoạt động như những công ty môi giới và bảo lãnh trái phiếu chuyên nghiệp. Hai NHTM thuộc sở hữu nhà nước khác là VBARD và BIDV, một số NHCP và NH nước ngoài như CitiBank, HSBC, Deutsch Bank, Standard Chartered Banks cũng đang bước đầu thực hiện hoạt động này.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VN HIỆN NAY
3.1. Mở rộng quy mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản cho TTTP
3.1.1. Đối với trái phiếu Chính phủ
Đa dạng hóa hình thức TPCP, đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi TPCP. Bên cạnh những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần triển khai thêm một số một số loại trái phiếu như:
- Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu
- Trái phiếu đa thời hạn
- Trái phiếu thanh toán từng phần
- Trái phiếu option
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Phương thức phát hành:hoàn thiện phương thức phát hành TPCP.Đẩy mạnh phương thức phát hành qua đấu thầu và đấu giá qua trung tâm giao dịch chứng khoán vì đây là phương thức tiên tiến và tạo khả năng tạo thị trường giao dịch sôi động và phát triển các nhà tạo lập thị trường TPCP, đồng thời đây cũng là phương thức phát hành mà lãi suất trái phiếu được xác định theo cơ chế thị trường.
Lãi suất TPCP: nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP. Để tăng tính hấp dẫn của TPCP nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ…để nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng cơ chế lãi suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm phát hay thiểu phát nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của CP.
3.1.2. Đối với trái phiếu chính quyền địa phương
Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc huy động vốn. Có thể nghiên cứu phát hành trái phiếu đô thị dưới các hình thức: trái phiếu chiết khấu, trái phiếu đa kỳ hạn, trái phiếu thanh toán từng phần, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu option…
3.1.3. Đối với trái phiếu doanh nghiệp
Thực tế cho thấy việc tham gia thị trường trái phiếu của các doanh nghiệp trong nước mới chỉ là những bước đi đầu tiên với quy mô nhỏ lẻ, nên bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ phát hành trái phiếu ra thị trường nội địa và chủ yếu là chọn hình thức phát hành riêng lẻ, tức là doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với người cung cấp vốn. Các quy định về điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng đơn giản hơn việc doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng. Để phát triển thị trường TPDN cần có những cải cách từ phía Chính phủ và cả doanh nghiệp.
3.1.4. Phát triển công cụ phát sinh liên quan đến trái phiếu
Đầu tư chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng luôn chứa đựng rủi ro, việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro trong quá trình đầu tư là điều cần thiết. Mặt khác, khi thị trường trái phiếu phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình thành các sản phẩm phái sinh liên quan đến trái phiếu nhằm đa dạng hoá và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay, thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam khá đơn điệu, dừng lại ở nghiệp vụ mua bán trái phiếu giao ngay, làm hạn chế mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Cần phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh liên quan đến trái phiếu như: quyền chọn mua, bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm từ chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ...
3.2. Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm (ĐMTN)
Tính minh bạch về thông tin là một trong những điều kiện để phát triển thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, dịch vụ đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho các cơ quan giám sát thị trường chứng khoán và các cơ quan quản lý tài chính công cụ để quản lý và giám sát; cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh; đồng thời đối với nhà phát hành nó được dùng như một chiến lược huy động vốn. Do đó, việc xây dựng hệ thống ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết.
3.3. Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường
Ở các thị trường chứng khoán phát triển, các nhà tạo lập thị trường là các trung gian tài chính. Họ niêm yết giá mua, giá bán và sẵn sàng thực hiện giao dịch với các mức giá đã niêm yết. Các hoạt động của họ tạo tính linh hoạt cho thị trường trái phiếu; tăng khả năng thực hiện giao dịch trái phiếu làm cho thị trường giao dịch trái phiếu sôi động hơn thông qua cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau…
Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia.
3.4. Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt
Trái phiếu với những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có cơ chế phát hành và giao dịch riêng. Giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp cần tách khỏi thị trường cổ phiếu, xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường. Cần tìm ra một mô hình giao dịch phù hợp cho thị trường trái phiếu chuyên biệt. Việc lựa chọn hệ thống giao dịch phù hợp cho thị trường thứ cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ phát triển của thị trường trái phiếu là quan trọng nhất, đặc biệt là thị trường TPCP đóng vai trò chủ đạo. Trong điều kiện thị trường trái phiếu còn non trẻ, số lượng nhà đầu tư có tổ chức còn hạn chế và mức giao dịch trái phiếu thấp thì hệ thống giao dịch thỏa thuận là phù hợp để tăng tính thanh khoản..
Hiện nay SGDCKHN đã đưa vào sử dụng hệ thống giao dịch TP mới nhằm hướng tới 1 thị trường trái phiếu chuyên biệt: giao dịch dựa trên lợi suất thực TP ,trong đó hệ thống yết giá theo giá sạch(chưa có lãi coupon tính gộp),có chức năng cơ bản cho định giá TP như: lịch hệ thống giao dịch TP(theo ngày thanh toán) bao gồm giá chưa bao gồm lãi coupon(giá yết) và lãi coupon tính gộp (đến ngày thanh toán TP).Tách biệt 2 loại giao dịch TP là :mua đứt bán đoạn( gd outright) và mua bán lại(repos) với chu kì thanh tóa đều là T+1.Phương thức gd outright là tiền đề để chuẩn hóa lãi suất,làm cơ sở để xây dựng đường cong lãi suất.Cho phép NHTM được giao dịch qua hệ thống này.Hệ thống giao dịch gắn với hệ thống thông tin.
3.5. Thực hiện công khai hóa thông tin
Việc công khai và minh bạch hoá thông tin là một yếu tố quan trọng để thị trường trái phiếu hoạt động lành mạnh. Do đó, Chính phủ và doanh nghiệp cần tích cực thực hiện công khai hóa thông tin, khắc phục tình trạng bưng bít thông tin hoặc công khai mang tính hình thức. Công bố thông tin một cách tùy tiện, không có hệ thống và chuẩn mực sẽ tạo tâm lý e ngại đối với nhà tư là nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém phát triển. Độ tin cậy của thông tin là cơ sở để nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
3.6. Phát triển thị trường phi tập trung (OTC)
Trên thế giới, thị trường trái phiếu thường được tổ chức theo hình thức thị trường OTC, đây vốn là thị trường giao dịch của những chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ kiện niêm yết trên thị trường. Trái phiếu có độ rủi ro thấp nên chủ yếu được các tổ chức tài chính trung gian nắm giữ, đặc biệt là các ngân hàng phát triển, các NHTM và các tổ chức bảo hiểm. Các tổ chức tài chính này không muốn giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán do chi phí quá cao so với thu nhập của trái phiếu. Việc giao dịch thẳng giữa các tổ chức tài chính trung gian không chỉ giúp họ tiết kiệm chi phí mà còn tạo được phương thức giao dịch, thanh toán linh hoạt và phù hợp.
3.7. Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý
Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực.
Hiện nay, hoạt động của thị trường trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán) và một số các văn bản pháp quy khác có liên quan.
3.8. Nâng cao nhận thức về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng cho các doanh nghiệp và công chúng đầu tư
Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu.Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet để tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu.
KẾT LUẬN
Trái phiếu là một trong những công cụ thu hút tiền từ lưu thông hiệu quả, là kênh huy động vốn giá rẻ, an toàn, dài hạn với khối lượng lớn và là công cụ hữu hiệu trong chính sách tiền tệ . Mặc dù giữ một vị thế đặc biệt quan trọng trên thị trường vốn bên cạnh chứng khoán vốn và ngân hàng nhưng hiện tại hoạt động của thị trường trái phiếu vẫn còn rời rạc và chưa xứng tầm.
Vì vậy tìm hiểu và phân tích thị trường trái phiếu Việt Nam chúng ta mới đưa ra được các giải pháp phù hợp để làm cho thị trường này phát triển hơn nữa và tiếp cận được đến đông đảo nhà đầu tư.Từ đó kích thích nó mở rộng hơn về số lượng cũng như quy mô, đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường ngày nay.
Với việc ra đời của hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) trong thời gian vừa rồi sẽ thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu phát triển, trở thành kênh huy động vốn hiệu quả, đáp ứng phần nào nhu cầu đầu tư đa dạng của nhiều loại hình nhà đầu tư khác nhau trong và ngoài nước. Sự phát triển của thị trường trái phiếu đã đang và sẽ góp phần vào việc phát triển và đa dạng hóa thị trường tài chính, ổn định nền kinh tế chung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán( NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội)
2. mof.gov.vn
3.tinnhanhchungkhoan.vn
4.vneconomy.vn
5. webside khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1587.doc