Lời mở đầu
Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có lao động - vốn nhân tạo; thiết bị, nguyên liệu - đầu vào sản xuất; đất đai và các nguồn tài nguyên khác - nguồn lực tự nhiên. Trong đó nguồn lực lao động có vai trò rất quan trọng nhiều khi là quyết định sự phát triển của tồn tại của doanh nghiệp.
Theo kinh tế chính trị Mác - Lênin: lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất.
Lao động là yếu tố quan trọng trong lực lượng sản xuất. Thực tế đất nước ta bước vào nền kinh tế thị trường trong một thời gian chưa dài. Đất nước cũng đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá vì thế việc cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển doanh nghiệp là điều cần thiết và bức xúc trong điều kiện hiện nay.
Tuy nhiên lao động là một vấn đề lớn nó bao gồm: kỹ năng lao động, trình độ đào tạo, kinh nghiệm nghề nghiệp. Đây là những yếu tố quan trọng trong lao động mà người ta còn có hể gọi theo cách khác là vốn nhân lực. Nhân lực là tên gọi đặc trưng khái quát của lao động nó không chỉ bao gồm lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc.
Với giới hạn cho phép của đề tài. Đề tài sẽ khái quát chung về thực trạng lao động thông qua cơ cấu lao động, thất nghiệp, viêc làm tiền lương, trình độ lao động, thất nghiệp, việc làm tiền lương trình độ lao động, nguồn vốn nhân lực hiện tại, tương lai và thị trường lao động trong thời gian qua để từ đó đưa ra những giải pháp để quản lý và nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay góp phần thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các doanh nghiệp.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nguồn lao động ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có lao động - vốn nhân tạo; thiết bị, nguyên liệu - đầu vào sản xuất; đất đai và các nguồn tài nguyên khác - nguồn lực tự nhiên. Trong đó nguồn lực lao động có vai trò rất quan trọng nhiều khi là quyết định sự phát triển của tồn tại của doanh nghiệp.
Theo kinh tế chính trị Mác - Lênin: lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất.
Lao động là yếu tố quan trọng trong lực lượng sản xuất. Thực tế đất nước ta bước vào nền kinh tế thị trường trong một thời gian chưa dài. Đất nước cũng đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá vì thế việc cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển doanh nghiệp là điều cần thiết và bức xúc trong điều kiện hiện nay.
Tuy nhiên lao động là một vấn đề lớn nó bao gồm: kỹ năng lao động, trình độ đào tạo, kinh nghiệm nghề nghiệp. Đây là những yếu tố quan trọng trong lao động mà người ta còn có hể gọi theo cách khác là vốn nhân lực. Nhân lực là tên gọi đặc trưng khái quát của lao động nó không chỉ bao gồm lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc.
Với giới hạn cho phép của đề tài. Đề tài sẽ khái quát chung về thực trạng lao động thông qua cơ cấu lao động, thất nghiệp, viêc làm tiền lương, trình độ lao động, thất nghiệp, việc làm tiền lương trình độ lao động, nguồn vốn nhân lực hiện tại, tương lai và thị trường lao động trong thời gian qua để từ đó đưa ra những giải pháp để quản lý và nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay góp phần thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các doanh nghiệp.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LAO ĐỘNG
1.1. Tổng quan về nguồn lao động của nước ta
Nước ta xuất phát từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước đây trứơc thờikỳ cách mạng tháng 8 dân số chủ yếu của nước ta làm nông nghiệp tới 95% cơ cấu dân số. Mà nền nông nghiệp ở nước ta thời kỳ đó rất lạc hậu họ chỉ làm theo kinh nghiệm và những dụng cụ thô sơ vì thế lao động không được đào tạo và không có máy móc hỗ trợ. Và thực tế lúc đó cũng chiếm tới 95% dân số mù chữ. Như vậy do điều kiện xã hội và lịch sử đã để lại cho lực lượng lao động của nước ta một trình độ thấp kém và một tác phong làm việc không có tổ chức, không được đào tạo.
Từ sau những năm giải phóng đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới đến nay Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từng bước xây dựng đội ngũ lao động có trình độ tác phong làm việc tập trung công nghiệp cao.
1.2. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng đội ngũ lao động và quản lý có trình độ
Do yêu cầu thực tế của quá trình phát triển đất nước đi trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chúng ta đang cần một đội ngũ lao động đông đảo có trình độ tay nghề cao. Nhưng để phát huy khả năng của đội ngũ đó chúng ta cần phải ngày càng đẩy mạnh công tác đào tạo và quản lý đội ngũ đó. Việc làm này đang là yếu tố cần thiết và bức xúc trong điều kiện hiện nay.
1.3. Các nhân tố tác động đến khả năng quản lý và nâng cao chất lượng lao động
Tuy nhiên để xây dựng đội ngũ lao động và quản lý nó là một quá trình phức tạp nó phụ thuộc vào tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nó phụ thuộc vào khả năng nhận thức của người lao động, khả năng đào tạo của các trung tâm giáo dục và đào tạo. Và khả năng chuyên môn của những con người được đào tạo
Nhưng cũng cần phải nói đến điều kiện môi trường như cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện làm việc trong các doanh nghiệp. Và chế độ chinh sách của Nhà nước thông thoáng phù hợp tạo điều kiện thuận lợi để cho đội ngũ đó phát triển.
Đặc biệt chúng ta cũng cần quan tâm đến tình hình thế giới khi đất nước ta đang trên con đường bước vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nên phải đào tạo đội ngũ lao động và quản lý phù hợp với điều kiện hiện tại.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGUỒN LAO ĐỘNG NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng
2.1.1. Cơ cấu lao động và chất lượng lao động
Theo kết quả điều tra lao động việc làm ở nước ta năm 2004 và 2005 có các kết quả so sánh sau:
Bảng 1: Đây là kết quả điều tra; tỷ lệ dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia
Dân số từ đủ 15 tuổi trở lên
(1000 người)
Lực lượng lao động (1000 người)
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (%)
Tổng số
60554,5
43255,3
71,4
Đồng Bằng Sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
DH Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐB Sông Cửu Long
13 583,9
6 712,8
1 739,8
7 412,9
5 016,7
3 026,8
9 996,5
13 065,1
9 718,3
5 129,2
1 373,7
5 214,6
3 582,4
2 415,7
6 536,9
9 284,5
71,5
76,4
79,0
70,3
71,4
79,8
65,4
71,1
Từ kết quả trên ta thấy vào thời điểm 1-7-2004 cả nước có 43.255.300 người đã tăng gần 2,7% so với thời điểm 1-7-2003 về lực lượng lao động với quy mô tăng thêm là 1.130,6 nghìn người. Tuy nhiên vào thời điểm 1-7-2005 kết quả điều tra cho ta thấy số người đủ 15 tuổi trở lên là 62.443 ngàn người tăng 3,12% so với năm 2004 và lực lượng lao động trong cả nước có 44.385 ngàn người tăng 1.143 ngàn người, với tốc độ tăng 2,64% so với năm 2004. Nhìn chung bình quân hàng năm (2000-2005) lực lượng lao động (LLLĐ) tăng 1.026,4 ngàn người, tốc độ tăng bình quân là 2,5%. Xét tương quan với tốc độ tăng dân số (khoảng 1,3%) thì tốc độ tăng LLLĐ thời gian qua là cao.
Chia theo thành thị, nông thôn ta có:
Năm 2004: thành thị có 10.549,3 ngàn người chiếm 24,4%; nông thôn có 32.706 ngàn người chiếm 75,6%.
Năm 2005: thànhthị có 11.071,1 ngàn người chiếm 24,9%; nông thôn có 33.313,9 ngàn người chiếm 71,1% tổng LLLĐ cả nước.
Như vậy tốc độ tăng của LLLĐ khu vực thành thị là 4,8%, khu vực nông thôn là 1,9% so với năm 2004. Bình quân hàng năm (2000-2005) tốc độ tăng LLLĐ ở 2 khu vực này là 4,52% và 1,86%. Có sự chênh lệch về tốc độ tăng giữa LLLĐ giữa 2 khu vục thành thị và nông thôn, trực tiếp do tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh, dẫn đến tốc độ tăng dân số khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Tuy tỷ trọng LLLĐ ở thành thị tăng lên và ở nông thôn giảm đi nhưng bức tranh chung về phân bố lực lượng lao động ở nước ta là LLLĐ nông thôn vẫn chiếm tỷ trọng lớn (71,1% năm 2005).
Chia theo vùng lãnh thổ:
Năm 2004: đồng bằng sông Hồng chiếm 22,5%; Đông Bắc chiếm 11,9%; Tây Bắc chiếm 3,2%; Bắc Trung Bộ chiếm 12,1%; Duyên hải Nam Trung Bộ chiếm 8,3%; Tây Nguyên chiếm 5,6%; Đông Nam Bộ chiếm 15,1%; Đồng Bằng sông Cửu Long 21,5%. So với thời điểm 1/7/2003 tỷ lệ LLLĐ chiếm trong tổng LLLĐ cả nước của vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm 0,1% và tăng ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên (1%); các vùng khác hầu như là không đổi.
Năm 2005: vùng Đông nam Bộ và Tây Nguyên có tốc độ tăng LLLĐ so với 2004 cao hơn so với các vùng khác trong cả nước (Đông Nam Bộ là 3,8%; Tây Nguyên là 2,9%). Sự tăng nhanh LLLĐ ở các vùng này chủ yếu là do biến động cơ học.
Chia theo giới tính:
Vào năm 2004 tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân số nữ từ đủ 15 tuổi trở lên của cả nước là 67,2%; ở khu vực thành thị là 57,9%; Khu vực nông thôn là 71,3%. Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân số từ đủ 15 tuổi trở lên cao nhất là Tây Nguyên (79,8%); tiếp đến là Tây Bắc (79%); thấp nhất là Đông Nam Bộ (65,4%); các vùng khác tỷ lệ này phổ biến ở mức 70-72% như ở bảng 1.
Vào năm 2005: cơ cấu LLLĐ nữ chiếm tỷ trọng thấp hơn nam (48,73% so với 51,27%). Tỷ lệ tham gia LLLĐ của số người từ đủ 15 tuổi trở lên là 71%. Tỷ lệ này của LLLĐ khu vực thành thị tăng0,55%, khu vực nông thô giảm 0,7%; chung lại tỷ lệ tham gia LLLĐ năm 2005 giảm 0,32% so với năm 2004. Tỷ lệ tham gia LLLĐ nữ (66,0%) thấp hơn nhiều tỷ lệ chung.
* Ưu và nhược điểm của cơ cấu lao động:
- Ưu điểm: Trong 2 năm ta xét ở trên thì nhìn chung tổng số người trong độ tuổi lao động ở nước ta tương đối cao. Năm 2004 chiếm khoảng 74% dân số. Năm 2005 chiếm khoảng 75% dân số. Như vây đã thể hiện một tiềm năng lực lượng lao động ở nước ta là rất dồi dào. Và số người chính thức tham gia lao động năm 2004 chiếm 71,4% lực lượng lao động. Năm 2005 chiếm 71% như vậy số lao động đã và đang lao động trên cả nước là khá đông. Đây là một ưu thế về số lượng lao động ở nước ta. Chúng ta vừa có một lực lượng lao động hùng hậu, vừa là một độingũ lao động trẻ đem lại nhiều cống hiến cho đất nước.
- Nhược điểm: Lực lượng lao động của chúng ta là đông trong khu đó các ngành công nghiệp, dịch vụ của chúng ta chưa phát triển đến mức cao, chưa đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của người lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp dẫn đến các tệ nạn xã hội. Và một điều quan trọng hàng đầu nữa đó chính là chất lượng của lao động. Nhìn chung lịch sử để lại cho đất nước chúng ta một lực lượng lao động với chất lượng kém chủ yếu là do nền sản xuất nông nghiệp lâu đời đã hạn chế sự phát triển của lực lượng lao động. Vì thế việc giải quyết triệt để lực lượng lao động thất nghiệp là việc làm tương đối khó khăn.
* Thực trạng chất lượng của LLLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập hiện nay. Chúng ta xét thấy chất lượng LLLĐ trên 2 tiêu chí là trình độ học vấn phổ thông và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động. Hai tiêu chí này được hình thành trực tiếp thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ tiếp tục được nâng cao. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ học vấn ở trình độ thấp giảm đồng thời trình độ ở bậc trung bình trở lên trong hệ thống giáo dục phổ thông tăng lên. Đó là: năm 205, tỷ lệ mù chữ là 4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là 13,09% và tốt nghiệp tiểu học là 29,09%. So với năm 2004, các tỷ lệ này giảm tương ứng là: 0,4%; 0,8% và 0,6%. Trong khi đó, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 32,58% (tăng 0,2%), đặc biệt tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học là 21,21% (tăng 1,61%) ta có kết quả ở bảng 2.
Bảng 2: Cơ cấu trình độ văn hoá phổ thông của LLLĐ
2004
2005
Tăng/Giảm
Tổng số
100,0
100,0
1. Mù chữ
4,44
4,04
-0,40
2. Chưa tốt nghiệp tiểu học
13,87
13,09
-0,78
3. Tốt nghiệp tiểu học
29,73
29,09
-0,64
4. Tốt nghiệp PTCS
32,36
32,58
+0,22
5. Tốt nghiệp PTTH
19,6
21,21
+1,61
Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Lao động đã qua đào tạo tăng lên liên tục qua các năm, từ 6088,2 ngàn người vào năm 2000, đến năm 2005 số lượng này lên tới 11.003 ngàn người (gấp 1,8 lần so với năm 2000). Bình quân hàng năm (giai đoạn 2000-2005), số lao động đã qua đào tạo tăng 938 ngàn người, với tốc độ tăng bình quân là 12,9%/năm. Có thể thấy tằng, với tỷ lệ lao động đó qua đào tạo năm 2005 là 24,8% (tăng 2,3% so với năm 2004). Tuy vậy vẫn chưa đạt được mục tiêu do Đại hội của Đảng đề ra là 30% về mặt số lượng.
Tuy nhiên hiện tại lực lượng lao động đã qua đào tạo còn một số vấn đề cần được quan tâm.
Thứ nhất, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động nước ta đang trong quá trình phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu đô thị tập trung nhiều ngành, nghề còn thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có kỹ năng và tay nghề đáp ứng yêu cầu sản xuất - kinh doanh. Tỷ lệ thất nghiệp của các vùng kinh tế trọng điểm đều cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đều cao hơn tỷ lệ chung (vùng Bắc Bộ 36,4%, vùng phía Nam 36,1% và vùng miền Trung 31%).
Thứ hai, chất lượng LLLĐ khu vực thành thị cao hơn nhiều khu vực nông thôn, trong khi tỷ trọng LLLĐ nông thôn chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ ba, có sự chênh lệch lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật trong cả nước, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ LLLĐ đã qua đào tạo cao nhất là 37,4%; đồng bằng sông Hồng là 34,4% và thấp nhất là Tây Bắc 13,5%. Mặc dù so với năm 2004, tỷ lệ LLLĐ đã qua đào tạo đều tăng ở các vùng nhưng mức tăng thêm ở các vùng có tỷ lệ này lớn hơn các vùng có tỷ lệ thấp dẫn đến sự cách biệt về chất lượng LLLĐ giữa các vùng có chiều hướng gia tăng.
Theo kết quả điều tra sơ bộ năm 2005 có số liệu sau: LLLĐ đã qua đào tạo nghề và tương đương là 15,22% (tăng 1,84%); trung học chuyên nghiệp là 4,3% (giảm 9,07% so với năm 2004) và cao đẳng đại học trở lên là 5,27% (tăng 0,45% so với năm 2004).
Qua kết quả điều tra cơ cấu lao động trong cả nước gắn với thực tại ở trong nước thì các doanh nghiệp trong nước đang gặp phải một số khó khăn về chất lượng lao động phổ biến hiện nay là chưa cao. Trình độ công nhân kỹ thuật phổ thông cũng chưa đáp ứng được tối đa vì thế việc phải đào tạo lại và đào tạo thêm là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên một thực tế nữa vẫn còn đang tiếp tục tồn tại hiện nay là tình trạng nhân viên kỹ thuật có tay nghề trình độ thì thiếu. Trong khi đó nhân viên kỹ thuật có tay nghề trìnhđộ thì thiếu. Trong khi đó nhân viên quản lý thì lại được đào tạo khá ồ ạt dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Vì vậyviệc quan tâm vừa nâng cao chất lượng lao động, vừa nâng cao công tác quản lý là việc làm cần thiết, một yêu cầu bức xúc trong giai đoạn đất nước ta đang trong tiến trình bước vào hội nhập hiệnnay.
2.1.2. Việc làm, thất nghiệp và chế độ tiền lương cho lao động
a) Việc làm và thất nghiệp
Theo kết quả điều tra năm 2004: lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên nói chung ở khu vực thành thị có 94,6% có việc làm và 5,4% thất nghiệp; khu vực nông thôn có 98,9% có việc làm và 1,1% thất nghiệp; Các tỷ lệ tương ứng của LLLĐ nữ là 93,5% và 6,5% (với thành thị); 98,8% và 1,2% (với nông thôn). Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thịcó 94,4% có việc làm và 5,6% thất nghiệp; khu vực nông thôn có 98,9% có việc làm và 1,1% thất nghiệp. Các tỷ lệ tương ứng của LLLĐ nữ là 93,3% và 6,7% (với thành thị); 98,7% và 1,3% (với nông thôn).
So với thời điểm 1/7/2003: Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động nói chung ở khu vực thành thị cả nước đã giảm 0,2%. Chia theo nhóm tuổi, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm bớt ở các nhóm tuổi 15-19; 25-29; 45-49 và 50-54; không thay đổi ở các nhóm tuổi 20-24; 35-39 và tăng ở các nhóm tuổi 30-34; 40-44; 55-59. Tuy nhiên, xu hướng chung vẫn là: ở nhóm tuổi càng trẻ, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ càng cao. Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị cao nhất là Bắc Bộ: 6,1%. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: 5,9%. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: 5,8%.
Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có điều đáng chú ý: LLLĐ chưa qua đào tạo có tỷ lệ thất nghiệp: 8%. Trong khi đó LLLĐ đã qua đào tạo tỷ lệ này là 1,8%. LLLĐ đã tốt nghiệp THCN có tỷ lệ thất nghiệp 4,4% LLLĐ đã tốt nghiệp CĐ, ĐH 3,8%.
Nguyên nhân thất nghiệp chủ yếu là do LLLĐ chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo là 73,7%. Đây là một tỷ lệ khá cao dẫn đến sự lãng phí lớn. Tiếp đến là do ngưoiừ lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng: 20,9%. Do hợp đồng hết hạn: 2,3%; do mất việc làm: 2,2%; do bị sa thải: 1%. Như vậy hơn 1/5 số người thất nghiệp do bỏ việc chứng tỏ sự ràng buộc không chặt chẽ trong hợp đồng lao động gây nên hậu quả xấu cho cả 2 phía.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã đạt được một số thành công quan trọng về lao động và việc làm như: Kiểm soát và điều tiết được tỷ lệ tăng lao động theo hướng tích cực (giảm từ 3,03% những năm cuối 1980, xuống còn khoảng 2,7% đầu những năm 2000); tỷ lệ lao động qua đào tạo có chuyên môn tay nghề được nâng lên (gồm 20% tổng lao động xã hội); số việc làm được tạo ra hàng năm tăng (mỗi năm có thêm khoảng 1,5 triệu người có việc làm). Tuy nhiên sự phát triển của thị trường lao động chưa đầy đủ, những chính sách về phát triển củatt lao động chưa đầy đủ, những chính sách về cơ chế lao động việc làm chưa hoàn thiện, còn nhiều nhược điểm. Người lao động không có việc làm còn chiếm một tỷ lệ khá lớn (khoảng 6%). Trình độ của người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp không cao và rất không đồng đều… Với một thực trạng như vậy khi tham gia hội nhập, chúng ta sẽ đối diện với nhiều vấn đề phức tạp.
Khi tham gia hội nhập sản xuất kinh doanh phát triển mạnh tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Tuy nhiên cũng có những thách thức và nguy cơ không nhỏ.
+ Nguy cơ thất nghiệp: nguồn lao động vẫn còn tăng khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này do tác động mạnh của hội nhập làm cho thất nghiệp trở thành một nguy cơ lớn. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ tổ chức cơ cấu lại và sa thải lao động thừa. Các doanh nghiệp nhỏ yếu kém sẽ bị phá sản.
+ Biến động của thị trường lao động: Việc mở cửa nền kinh tế sẽ làm cho tài chính tiền tệ thay đổi và biến động mạnh và khó quản lý sẽ dẫn đến thất nghiệp cơ cấu cũng tăng.
+ Sự phân hoá, phân tầng về lao động trên tất cả các mặt gia tăng. Những người có trình độ sẽ rất khó tìm kiếm và duy trì hay ôNorth Freight định được việc làm và thu nhập.
Như vậy xét trên toàn bộ nền kinh tế chúng ta phải chịu sức ép khá lớn với trình độ lao động và điều kiện hiện tại việc gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp là rất lớn.
Chúng ta xét trên cấp độ doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình hội nhập cần phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà điều cần thiết cốt lõi ở đây là phải nâng cao trình độ năng lực và chất lượng của nguồn nhân lực. Phải giải quyết tốt một số hạn chế còn tồn đọng.
+ Hạn chế về trình độ năng lực, tay nghề và phong cách làm việc. Vì người lao động ít được đào tạo bài bản, kiến thức nghè nghiệp và kỹ năng làm việc của nhiều người chưa đáp ứng kịp nhu cầu thực tế.
+ Chi phí lao động ngày càng tăng: đó là tiền lương đòi hỏi tăng lên do tác động của đời sống xã hội bên ngoài doanh nghiệp. Từ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. Mức chi phí tăng lên còn do phải đào tạo lại lao động.
+ Đối mặt với những thay đổi về lực lượng lao động. Việc lựa chọn cơ hội cho mình đối với những người lao động giỏi sẽ diễn ra mạnh mẽ gây nên biến động lớn. Và nguy cơ mất việc cũng lớn.
+ Thiếu điều kiện nâng cao khả năng làm việc.
+ Điều kiện và môi trường làm việc hạn chế phát huy khả năng cá nhân. Điều này do cơ sở vật chất kỹ thuật chưa phát triển, những yếu kém trong hoạt động quản lý.
Một vấn đề lao động việc làm nữa mà chúng ta cũng cần bàn tới đó là lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ỏ Việt Nam. Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất là điều kiện cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn nữa. Thực tế các khu công nghiệp và khu chế xuất đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động. Tính đến 6/2004 các khu công nghiệp và khu chế xuất đã thu hút được gần 60 vạn lao động trực tiếp và khoảng hơn 1 vạn lao động gián tiếp. Hơn nữa các khu công nghiệp và khu chế xuất trên cả nước hiện nay vẫn chưa huy dộng hết công suất khi vẫn còn nhiều khu đang đivào giải toả cũng như đang tiến hành xây dựng. Dự báo trong thời tới vấn đè lao động cho các khu công nghiệp, là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, lực lượng lao động hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt nhu cầu cho các khu công nghiệp và số lao động được đào tạo là rất ít mà số lao động phổ thông lại nhiều vì thế tuy thiếu lao động trong các khu cong nghiệp, khu chế xuất nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn xảy ra. Và đặc biệt là tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Đây là các vấn đè về chất lượng lao động cũng rất cần được quan tâm.
b) Chế độ tiền lương cho công nhân
Theo quy định của Nhà nước các doanh nghiệp ngoài Nhà nước có thể lựa chọn thang lương được ban hành kèm theo Nghị định số 26/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ hoặc tự xây dựng hệ thống thang lương riêng.
Hiện nay một số doanh nghiệp để đảm bảo phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp họ đã tự xây dựng hệ thống thang lương riêng để đảm bảo đáp ứng đúng nhu cầu của công nhân viên trả lương theo đúng sự đóng góp của họ. Tuy nhiên để xây dựng một thang lương đúng tiêu chuẩn và hợp với năng lực lao động cũng như điều kiện lao động của các công nhân cần chú ý một số điều lưu ý:
+ Phải tham khảo dựa trên quan điểm trả lwong của người sử dụng lao động vì họ là chủ sở hữu.
+ Các hệ số mức lương thang lương phải phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật lao động.
+ Thang lương phải bảo đảm khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề, đạt thành tích tốt trong sản xuất .
+ Phải phù hợp với mặt bằng chung về lương của các doanh nghiệp cùng loại.
Nhưng một thực tế vẫn đang diễn ra hiện nay đó là mức lương và thang lương của Nhà nước chưa đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của người lao động. Chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay chỉ xấp xỉ bằng 40% giá trị sức lao động. Có nghĩa mức giá trị này theo học thuyết Mác về kinh tế thì Nhà nước còn nợ của người lao động trên 50% giá trị sức lao động. Và thực tế sinh viên mới ra trường được tuyển dụng làm thư ký cho toà án mức lương được hưởng với bậc lương 1/15 là 493.000đ thấp hơn mức thu nhập của người thuộc diện nghèo (500.000đ/tháng) mà thành phố Hồ Chí Minh vừa công bố. Như vậy nến tính trong cả nước những người có mức lương thuộc diện nghèo có thể chiếm từ 40% trở lên mà không được hưởng chính sách xoá đói giảm nghèo. Buộc người lao động này phải tự cứu sống lấy mình họ tổ chức cuộc sống gia đình không phải nguồn thu chính từ lương mà bằng các nguồn thu khác mà người ta gọi là phần mềm. Vì vậy việc tham ô tham nhũng là điều khó tránh khỏi. Và cũng từ đây sẽ làm tha hoá một số bộ phận quản lý lãnh đạo từ đó chất lượng quản lý đã kém nay lại càng kém hơn. Chế độ tiền lương diện nghèo này cũng làm kém sự thu hút nhân tài và nhân sự có trình độ tay nghề chuyên môn cao. Dẫn đến nạn rò rỉ chất xám. Tuy nhiên đây là chế độ tiền lương của công nhân và các cấp trung bình còn ở cấp cao như hoạch định chính sách tiền lương thì tiền lương đối với họ vượt xa với thực tế năng lực lao động của họ.
Cũng từ thực trạng về mức lương và tình hình sử dụng lao động mà đã làm nảy sinh tình trạng làm thêm giờ trong các doanh nghiệp và đặc biệt là làm thêm giờ quá quy định của bộ luật Lao động. Điều này thường xảy ra ở các ngành dệt may và hàng nông sản chế biến. Với những nguyên nhân khách quan như do đơn hàng có thời gian giao hàng ngắn, do tính thời vụ của sản phẩm sản xuất. Nhưng cũng còn do ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan như: do nhận thức, hiểu biết của người sử dụng lao động chưa đầy đủ về qui định pháp luật sử dụng lao động làm thêm giờ. Do người lao động không được phổ biến quy định pháp luật về làm thêm giờ. Do vai trò của công đoàn cơ sở trong bảo vệ lợi ích của người lao động còn có hạn chế. Các cuộc thanh tra làm thêm giờ của thanh tra lao động Nhà nước chưa có tác động nhiều đến chấn chỉnh vi phạm qui định pháp luật về làm thêm giờ.
Nó đã dẫn đến một số hậu quả:
+ Ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động
+ Gây nên tai nạn lao động do mệt mỏi, căng thẳng, thao tác thiếu chuẩn xác.
+ Gây ra một số tranh chấp giữa người lao động - doanh nghiệp.
Nguyên nhân của việc này cũng là do lao động phổ thông có trình độ tay nghề chưa cao, hiểu biết còn hạn chế. Đội ngũ quản lý yếu kém không có trình độ am hiểu sâu về pháp luật. Và vấn đề đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.
2.1.3. Phát triển vốn nhân lực trong điều kiện hiện nay và tạo nguồn lực lao động cho tương lai
Với dân số trên 80.902 triệu dân (2003) và có mức tăng hàng năm khoảng 1,5% trong thời gian gần đây. Điều này làm cho bộ phận dân số ở độ tuổi trẻ và số người trong độ tuổi lao động trong dân số chiếm tỷ lệ lớn. Năm 2000 tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động chiếm 55% và dự tính đến năm 2000 tỷ lệ này còn cao hơn.
Trong những năm qua, đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta đã có những bước phát triển quan trọng. Tính đến năm 2003, cả nước có 124 trường đại học và cao đẳng, 268 trường trung học, 220 trường dạy nghề và rất nhiều cơ sở dạy nghề khác. Mỗi năm có trên 150.000 người tốt nghiệp đại học cao đẳng, khoảng 120.000 người tốt nghiệp trung cấp và trên 1 triệu công nhân được đào tạo nghề dưới các hình thức khác nhau. Đó là thành tựu rất đáng kể về quy mô đào tạo và số lương người được đào tạo. Điều này cũng cho thấy chúng ta có nhiều tiềm năng để phát triển đào tạo một cách rất đa dạng và phong phú để đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho xã hội.
Tuy nhiên người lao động được đào tạo do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chất lượng đào tạo nói chung chưa cao, điều này thể hiện trong hiệu quả việc làm, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra. Về số lượng, mặc dù có sự tăng nhanh, nhưng so với yêu cầu thực tế thì vẫn chưa thể đáp ứng được. Trong tổng lao động xã hội số người được đào tạo nghề và chuyên môn vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Năm 2000 chỉ có 15,5% số người lao động được đào tạo, tỷ lệ này vào năm 2002 là 17,5% và trong năm 2004 là 21% với quy mô tốc độ tăng như vậy chúng ta khó có thể đạt được chỉ tiêu về đào tạo chuyên môn nghề nghiệp mà đại hội Đảng IX đã đề ra đó là "nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010". Như vậy trong thời gian tới ở nước ta vẫn còn một bộ phận lớn lao động chưa qua đào tạo làm việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp. Đây có thể coi là sự lãng phí lớn trong sử dụng nguồn nhân lực hiện nay. Một tình trạng nữa đang diễn ra đó là trên thế giới tại các nước tiên tiến tỷ lệ lao động qua đào tạo thoe các cấp trình độ: đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/4/10. Ở nước ta là 1/1/3,65 năm 2002. Đây là sự mất cân đối trong đào tạo tình trạng thừa thầy thiếu thợ.
Không chỉ mất cân đối trong cấp đào tạo, ngành giáo dục của Việt Nam hiện nay còn có sự mất cân đối khá lớn về ngành đào tạo. Trong 50 năm qua chúng ta đào tạo hơn 1 triệu cán bộ các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu ngành như sau: sư phạm 33,3%; khoa học kỹ thuật 25,5%; khoa học xã hội 17%; y dược 9,3%; nông nghiệp 8,1%; khoa học tự nhiên 6,8%. Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo như vậy là bất hợp lý. Là một nước nông nghiệp mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành nông nghiệp trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay trong cơ cấu đào tạo đại học của Việt Nam có đến 42,78% số sinh viên theo học khối ngành luật, kinh tế mà ít chú trọng đến các ngành điện tử, kỹ thuật, các lĩnh vực công nghệ mới, trong khi nhu cầu kỹ sư trong các ngành này cũng rất lớn. Đa số các trường dạy nghề trung tâm dạy nghề có xu hướng tập trung đào tạo các ngành nghề phổ biến như: kế toán, tin học ứng dụng, ngoại ngữ mà ít chú ý đến việc đào tạo lao động công nhân kỹ thuật, công nhân cơ khí, sửa chữa… Điều này cũng dễ giải thích bởi vì những ngành này đào tạo một cách khá dễ dàng, không đòi hỏi các trang thiết bị chuyên sâu, phòng thí nghiệm thực hành nên việc mở rộng tuyển sinh khá dễ dàng, đặc biệt là đối với các trường ngoài công lập.
Sự khác biệt giữa các vùng cũng có sự rõ rệt. Ở nông thôn số lao động không biết chữ gấp 6 lần thành thị. Các trường đại học cao đẳng chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn vì thế cơ cấu lao động được đào tạo tại cácthành phố lớn và khu vực nông thôn có sự cách biệt rõ rệt.
Tuy nhiên bên cạnh việc đào tạo còn có nhiều bất cập như vậy nhưng chất lượng lao động được đào tạo nghề cũng được đánh giá khả quan như sau:
+ Kiến thức cơ sở của nghề: khá và tốt là 40,4%, trung bình là 51,1% và yếu kém là 8,5%.
+ Kiến thức chuyên môn nghề: khá và tốt là 40%, trung bình là 48,9% và yếu kém là 11,1%.
+ Năng lực thực hành nghề: khá và tốt là 30,4%, trung bình là 58,7% và yếu kém là 10,9%.
+ Năng lực làm việc độc lập: khá và tốt là 23,9%, trung bình là 52,2% và yếu kém là 23,9%.
+ Năng lực tổ chức lao động khoa học: khá và tốt là 15,4%, trung bình là 43,1% và yếu kém là 36,4%.
+ Năng lực phân tích và giải quyết vấn đề: khá và tốt là 17,7%, trung bình là 40,1% và yếu kém là 42,2%.
+ Nưang lực thích ứng và tự điều chỉnh: khá và tốt là 39,1%, trung bình là 43,5% và yếu kém là 17,4%.
Qua phân tích cho thấy năng lực tổ chức lao động khoa học và năng lực phân tích và giải quyết vấn đề là những vấn đề còn hạn chế của học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề.
Như vậy thực trạng chất lượng lao động sẽ được cải thiện nâng cao đáng kể nhưng thực tế mức đáp ứng đủ nhu cầu công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp là vấn đề gặp nhiều khó khăn do quy mô đào tạo và cơ cấu đào tạo còn chưa hợp lý.
2.1.4. thị trường lao động trong nước trong thời gian qua và tác động của nó đến sự phát triển nguồn lao động
Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển của thị trường lao động là một yếu tố khách quan tất yếu. Sự phát triển của thị trường lao động cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển tự do kinh tế và tạo ra sự lựa chọn cho người lao động cũng như sự lựa chọn cho các doanh nghiệp. Vì đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường trong thời gian ngắn nên thị trường lao động cũng mới được phát triển trong thời gian gần đây nó có một số đặc điểm chủ yếu qua thực trạng phát triển như sau:
+Các văn bản pháp lý bảo đảm phát triển thị trường lao động chưa hoàn thiện.
+ Những bất cập ngày càng lớn giữa quy mô chung và quan hệ "cung- cầu" sức lao động trên thị trường lao động. Hiện nay cung về sức lao động đang vượt quá cầu và hàng năm tăng từ 3,2% đến 3,5%.
+ Chúng ta phải xoá bỏ sự mất cân đối, bất cập trong cơ cấu lao động cũ đã tồn tại từ nền kinh tế bao cấp, xây dựng một cấu trúc mới phù hợp hơn.
+ Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm cần phôi thai, non yếu.
+ Hệ thống định hướng nghề nghiệp, đào tạo và đào tạo lại không theo kịp với những đòi hỏi mới của sự phát triển kinh tế -xã hội, không tương thích với quá trình cải tổ khói lượng và chất lượng chuyên gia đã đào tạo, đặc biệt đối với các ngành kinh tế như: dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghiệp…
+ Hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm chỉ mới được hình thành và chưa được phân bố rộng khắp cả nước.
+ Tính cơ động của sức lao động theo nghề nghiệp và lãnh thổ còn rất hạn chế. Phần lớn cư dân chưa sẵn sàng cho cuộc sống và lao động trong điều kiện thị trường.
+ Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam phân bố hợp lý, có tới gần 80% lực lượng lao động ở nông thôn mà ở đây việc làm không đầy đủ và thất nghiệp có thể lên tới 30%.
+ Những bất cập trong chính sách và cấu trúc đầu tư, cùng với việc soạn thảo chiến lược đổi mới công nghệ không đầy đủ và sự chậm chạp dịch chuyển cấu trúc ngành kinh tế trong nền kinh tế.
+ Cùng với sự phát triển của thị trường lao động. Các loại thị trường như: tư liệu sản xuất, tài chính, bất động sản… cũng đã và đang hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Sự liên kết giữa chúng với nhau còn yếu.
+ Sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng tăng giữa các vùng lãnh thổ trên cả nước theo các chỉ số phát triển kinh tế xã hội.
+ Mức tiền công lao động thấp, sự lạc hậu giữa đồng lương thực tế của người lao động Việt Nam so với mức tiền công lao động ở các nước trong khu vực ngày càng tăng.
Từ những đánh giá thực trạng ở trên ta thấy thị trường lao động ở nước ta đang trong quá trình hình thành, hoạt động trong điều kiện kém phát triển ở thể chế điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới vừa được sinh ra.
Tuy nhiên xu thế phát triển thị trường lao động ở nước ta ngày càng mang tính khả quan hơn thể hiện ở: năm 2005 lực lượng lao động đạt 44.385 ngàn người. Năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 50,5 triệu người (chưa kể số dwis tuổi, trên tuổi có nhu cầu làm và số chưa có việc làm các năm chuyển sang). Tốc độ tăng lực lượng lao động giai đoạn 2006-2010 khoảng 2,54%/năm. Lực lượng lao động qua đào tạo khoảng 25,5% vào năm 2005 (trong đó đào tạo nghề 19%) và 40% vào năm 2010 (trong đó đào tạo nghề 26,6%).
Dự báo tổng cầu lao động trong nền kinh tế quốc dân năm 2006 khoảng 93,44 triệu lao động, trong đó thành thị chiếm 24,8%; đến năm 2010 sẽ tăng lên khoảng 49,1 triệu lao động, trong đó thành thị chiếm 29,4%. Mức tiền lương tối thiểu đến năm 2010 đạt 600.000đ/tháng. Tiền lương bình quân trong các doanh nghiệp tăng 2-2,5 lần so với năm 2005. Cầu lao động ngoài nước có xu hướng tăng, thời kỳ 2006-2010 bình quân xuất khẩu lao động đạt 80.000-100.000 người/năm. Trong đó khoảng 50% là lao động có nghề.
Trong điều kiện đất nước ta hiện nay đang trên con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trong kinh tế thị trường muốn hoạt động tốt cần có 5 đặc điểm chủ yếu sau: Một là, phân phối các nguồn lực một cách có hiệu quả; Hai là, tạo ra những nguồn lực mới thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi mới quá trình xử lý; Ba là, thích nghi nhanh chóng và có hiệu quả trước sự thay đổi hoàn cảnh; Bốn là, duy trì sự ổn định kinh tế, tránh được những hiện tượng thất nghiệp và lạm phát cao; năm là, tạo ra hiệu quả xã hội mong muốn. Động cơ của kinh tế thị trường là lợi nhuận. Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng kinh tế tư nhân hội tụ các điều kiện cần và đủ để các quy luật kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh hoạt động bình thường. Nghị quyết TW 5 khoá IX nhận định vai trò tích cực của nền kinh tế tư nhân ở nước ta: "Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lwongj công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã họi hoá y tế, văn hoá, giáo dục…"
Như vậy kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong phát triển thị trường nói chung trong đó có thị trường lao động. Kinh tế tư nhân đã khẳng định thêm lý luận "sức lao động là hàng hoá". Đó là bước đánh dấu khởi đầu cho sự phát triển của thị trường lao động. Và vai trò của nó được thể hiện cụ thể:
+ Nó đóng vai trò to lớn trong giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Phát triển kinh tế tư nhân làm mở rộng nhanh thị trường lao động theo lĩnh vực, ngành và lãnh thổ.
+ Bản thân sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân đã làm tăng sự lựa chọn cho người lao động khi tham gia thị trường lao động.
+ Phát triển kinh tế tư nhân tạo cú hích cho việc đổi mới cơ chế quản lý lao động trong khu vực kinh tế và quản lý Nhà nước.
+ Phát triển kinh tế tư nhân tạo nên thay đổi cơ cấu xã hội, hình thành giới chủ doanh nghiệp.
+ Phát triển kinh tế tư nhân làm thay đổi các quan hệ lao động.
Như vậy phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với phát triển thị trường lao động cả về phương diện nhận thức và thực tế.
2.2. Đánh giá về công tác quản lý và chất lượng lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam
Lao động của chúng ta đông về số lượng nhưng chất lượng lại hạn chế do lực lượng lao động qua đào tạo chưa đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp không những thế mà cơ cấu đào tạo lao động cũng chưa phù hợp với yêu cầu thực tế và quan hệ so sánh trên thế giới.
Trước thời kỳ đổi đổi chế độ quản lý của chúng ta là tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy sau thời kỳ đổi mới và trong điều kiện phát triển hiện nay vẫn chịu sự ảnh hưởng của các quan điểm quản lý cũ. Vì thế hiệu quả quản lý không cao. Mặt khác khả năng đào tạo đội ngũ quản lý trong cơ cấu đàotạo của đất nước ta còn rất nhiều yếu kém và tồn tại. Sự đào tạo tràn lan đã cho ra một đội ngũ quản lý vừa không có trình độ cao vừa bảo thủ trì trệ.
Trước tình hình chất lượng lao động chưa cao, mà đội ngũ quản lý cũng yếu kém thì việc muốn đạt được hiệu quả tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh là điều khó khăn. Vì vậy cần nâng cao hơn nữa trình độ của đội ngũ lao động và đội ngũ quản lý lao động.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ, ĐỊNH HƯỚNG NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng, địa phương
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, vùng, địa phương đặc biệt là tới tận doanh nghiệp để đạt mục tiêu đến năm 2010 giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50%, tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên 23-24%, tăng lao động dịch vụ lên 26-27%. Và riêng kế hoạch năm 2006 dự kiến giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 55%, tăng lao động công nghiệp, xây dựng lên 19% và tăng lao động dịch vụ lên 26%. Muốn vậy cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và thành phần kinh tế: do chuyển dịch cơ cấu kinh tế quyết định phần lớn nội dung các nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm cho nhu cầu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm cho nhu cầu lao động thay đổi theo. Muốn vậy cần phải:
- Làm tốt công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch, kế hoạch.
- Xác định rõ vai trò của các ngành, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân: Cần phát triển mạnh mẽ các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong thời kỳ sắp tới; phát triển một số vùng kinh tế trọng điểm của đất nước trên cơ sở quy hoạch và chiến lược đã được phê duyệt, phát triển toàn diện các vùng miền khác tuy không phải là vùng trọng điểm để phát huy thế mạnh.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
+ Đổi mới chính sách và cơ cấu đầu tư.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế
- Môi trường đầu tư, cơ chế chính sách trong quá trình thực thi phải thông thoáng và nhất quán. Tránh tình trạng thường xuyên thay đổi cơ chế chính sách đối với thành phần kinh tế phi Nhà nước.
- Thực hiện bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế, loại doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ trong các hoạt động về hỗ trợ vốn, xuất nhập khẩu, thuế, …
- Nâng cao nhận thức của mọi người đối với các thành phần kinh tế phi Nhà nước.
- Xây dựng và ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình và kinh tế trang trại.
+ Nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
- Tích cực nâng cao trình độ văn hoá của người lao động.
- Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
3.2. Các giải pháp về việc làm, thất nghiệp, chế độ tiền lương
Để làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng như thời gian thất nghiệp cần phải tích cực giảm tỷ lệ tăng dân số và cải thiện chất lượng dân số. Mở rộng và phát triển việc dạy nghề chú trọng các nghề mới, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút lực lượng lao động học nghề theo hướng xã hội hoá việc đào tạo nghề. Muốn vậy Nhà nước phải hiện đại hoá công nghệ thiết bị của các trường nghề, giảm hoặc miễn học phí cho người học và có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ giáo viên, kêu gọi sự tài trợ và đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp và các nhà hảo tâm.
Phải có chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Khuyến khích người lao động chủ động tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo và đào tạo lại, đẩy mạnh phong trào thi đua lập nghiệp của lực lượng lao động trẻ tuổi.
Cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động phòng chống tai nạn và bệnh nghè nghiệp cho người lao động. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người thất nghiệp.
Nhà nước nên để cho các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp Nhà nước) được tự chủ về tài chính, tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng cho người lao động dựa trên hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động của doanh nghiệp và người lao động cần phải thể chế hoá và xã hội cần tôn trọng trong vâêjc bảo vệ thu nhập hợp pháp của người công dân. Đồng thời phải xác định hợp lý thuế thu nhập…
Sớm ban hành bộ luật Doanh nghiệp chung cho tất cả các loại doanh nghiệp bất kể doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, bất kể doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài. Tiêu chí quan trọng nhất của bộ luật này là tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi doanh nghiệp có thể phát huy hết năng lực của mình trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và an toàn. Chỉ có sự phát triển mạnh của doanh nghiệp về hiệu quả và số lượng mới là một điều kiện tối quan trọng.
Một thực trạng cũng đang diễn ra trong thời điểm hiện nay đó là vấn đề làm thêm giờ của người lao động. Để giải quyết vấn đề đó cần phải quan tâm đến một số điểm:
+ Đẩy mạnh và đa dạng hoá hình thức thông tin tuyên truyền, phổ biến tư vấn quy định của pháp luật về làm thêm giờ để nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra lao động về làm thêm giờ bằng hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy, cơ chế và quy trình hình thanh tra kiểm tra; đào tạo đội ngũ thanh tra viên lao động có tính chuyên nghiệp cao.
+ Thực hiện thúc đẩy phát triển hình thức đối thoại 3 bên (chính phủ, đại diện người sử dụng lao động, đại diện người lao động) bằng các hình thức hợp lý như trao đổi thông tin, hội thảo; nắm bắt kịp thời các vấn đề nảy sinh, vướng mắc, các đề xuất.
+ Khẩn trương nghiên cứu, xác lập và ban hành bổ sung danh mục các nghề, công việc mà doanh nghiệp được huy động người lao động làm thêm giờ từ trên 200 đến 300 giờ trong 1 năm.
+ Nghiên cứu ban hành chế độ bảo vệ sức khoẻ người lao động làm việc trong các ngành nghề có số giờ làm thêm cao. Trong đó tập trung vào các chế độ như: Khám sức khoẻ định kỳ, chế độ tiền thưởng, tăng bồi dưỡng trong ca…
+ Cần thiết có các kế hoạch, chương trình thúc đẩy doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành lập tổ chức công đoàn; nâng cao chất lượng hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn tham gia vào công tác giám sát tình hình thực hiện pháp luật lao động.
Như vậy Nhà nước cần phải tăng cường quản lý hơn nữa về pháp luật lao động, có chính sách hỗ trợ việc làm, hỗ trợ thất nghiệp và điều chỉnh mức tiền lương hợp lý hơn.
3.3. Các giải pháp đối với đào tạo nguồn nhân lực
Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng theo hướng mở để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tăng quy mô và năng lực hơn nữa trong đào tạo trình độ chuyên môn và tay nghề cho người lao động.
Đẩy mạnh hơn nữa xã hội hoá đào tạo. Trong điều kiện kinh phí đào tạo từ nguồn ngân sách Nhà nước chưa nhiều, chưa thoả mãn hết mọi nhu cầu về đào tạo thì việc xã hội hoá đào tạo là giải pháp quan trọng nhất để đạt được mục tiêu quốc gia về đào tạo.
Chú trọng để tăng nhanh hơn nữa năng lực đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật. Đây là một bộ phận của lĩnh vực đào tạo có thể phát triển nhanh do có đặc điểm là linh hoạt về quy mô và hình thức, diện đạo tạo nghề đa dạng và dễ huy động các nguồn lực trong xã hội.
+ Cùng với tăng về quy mô và năng lực đào tạo cần tập trung hơn nữa vào các chỉ tiêu chất lượng phát triển của đào tạo. Trong quản lý và tổ chức hoạt động của các cơ sở đào tạo, một mặt cần từng bước củng cố các trường chính quy đào tạo.
+ Tăng cường quản lý nói chung và có những hỗ trợ cần thiết, trước hết là những hỗ trợ của Nhà nước để tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa các trường, các cơ sở đào tạo giữa hai hệ thống: công lập và ngoài công lập và giữa các cấp từ đại học - cao đẳng, đến trung học và dạy nghề để cùng phát triển và khai thác có hiệu quả các nguồn lực và điều kiện đào tạo của cả nước.
+ Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực đào tạo đại học và dạy nghề. Cần có chính sách rõ ràng và có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với các nhà đầu tư tham gia đào tạo các ngành công nghệ cao, các ngành công nghiệp mới và đặc biệt là các ngành mà chúng ta còn thiếu hụt.
+ Gắn đào tạo với thực tế, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động.
+ Có sự liên kết, quan hệ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo.
+ Tăng cường chỉ đạo và quản lý của Nhà nước đối với nguồn nhân lực.
3.4. Các giải pháp phát triển thị trường lao động
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và vận hành đồng bộ thị trường nhân tố sản xuất, trong đó có thị trường lao động là yêu cầu khách quan mang tính quy luật.
Những năm tới để tiếp tục phát triển thị trường lao động cần có những giải pháp vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài. Trong đó cần ưu tiên các nhóm giải pháp sau:
- Các giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu lao động (cả về số lượng và chất lượng) trên thị trường.
+ Để giảm sức ép đối với cung lao động, cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình nhằm đạt quy mô dân số và cấu trúc tuổi hợp lý, coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhânlực.
+ Nhằm mục tiêu thu hẹp dần khoảng cách giữa đàu ra của đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động, cần khuyến khích đa dạng hoá các hình thức đào tạo, nhất là đào tạo nghề, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hoá trang thiết bị, cải tiến chương trình nội dung và phương pháp giảng dạy trong các trường và trung tâm đào tạo: Phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên tham gia thị trường lao động. Mặt khác, cần có các biện pháp thúc đẩy tăng cầu về lao động qua việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ các hoạt động phi nông nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp, nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động ở nông thôn. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, tham gia tích cực vào thị trường lao động khu vực và quốc tế.
- Các giải pháp thúc đẩy hoạt động giao dịch trên thị trường lao động.
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động.
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế và chính sách phát triển thị trường lao động.
- Nhà nước phải tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá số lượng chất lượng đội ngũ lao động có đủ khả năng lao động và hiện đang có nhu cầu kiếm việc làm. Thực tế nước ta chưa có cơ quan nào nắm một cách chính xác số người có nhu cầu kiếm việc làm. Nhà nước phải chỉ đạo thực hiện triệt để chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình để giảm tỷ lệ tăng trưởng dân số tiến tới mức thay thế. Khi mức tăng dân số giảm thì áp lực tăng số lượng lao động cũng giảm theo. Hiện nay tốc độ tăng lao động hàng năm trung bình khoảng 2,5% và số tuyệt đối khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động mỗi năm.
Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp lý, cơ chế chính sách để khuyến khích những yếu tố tích cực thúc đẩy sự ra đời của thị trường hàng hoá sức lao động, đồng thời có biện pháp tổ chức quản lý, phân công, phân cấp để quản lý các trung tâm dịch vụ và xúc tiến việc làm hoạt động có hiệu quả xã hội.
Nhà nước phải tăng cường bảo vệ lợi ích của người lao động: quyền lợi kinh tế của người làm thuê với thời hạn lâu dài được thoả thuận với người thuê lao động về mức độ công việc phải hoàn thành, tiền lương được hưởng và các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ nghỉ phép, nghỉ ốm, điều dưỡng, tham quan…
Tóm lại, Nhà nước cần tăng cường hơn nữa sự quản lý của mình đối với sự phát triển của thị trường lao động bằng cách hoàn thiện cơ chế chính sách hợp lý.
KẾT LUẬN
Lao động đó là yếu tố tất yếu, một hoạt động giúp loài người phát triển giúp chúng ta phân biệt được con người một động vật cấp cao với các động vật khác. Vì vậy để phát triển xã hội chúng ta cần phải thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của lao động.
Qua thực trạng và đánh giá ở trên bài viết này đã đưa ra một cái nhìn tổng quan về lực lượng lao động của đất nước trong thời kỳ đổi mới và đang bước vào hội nhập kinh tế thế giới.
Một thực trạng rõ nét nhất là lực lượng lao động và quản lý của chúng ta còn yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ. Số lượng nhiều nhưng chất lượng kém.
Vì vậy điều cần quan tâm trong giai đoạn hiện nay là sự phối hợp giữa người lao động, cơ quan đào tạo và cơ quan quản lý để thúc đẩy phát triển hơn nữa chất lượng của đội ngũ lao động.
Tuy nhiên với những tồn tại và khó khăn đó đội ngũ lao động cũng đang từng bước đi lên phát huy thế mạnh của mình.
Trong thời kỳ mở cửa và hội nhập này, tin rằng đó sẽ là cơ hội lớn để đội ngũ lao động nước ta phát triển hơn nữa đưa đất nước ta phát triển đi lên theo định hướng của Đảng và của Nhà nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
+ Tạp chí Kinh tế phát triển
+ Tạp chí Công nghiệp
+ Tạp chí Phát triển kinh tế
+ Thông tin thị trường lao động
+ Tạp chí Cộng sản
+ Niên giám Thống kê.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA-52.docx