CNH,HĐH là điểm mấu chốt đối với các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Như đã biết thông qua đề tài này thì chúng ta cần có một nguồn vốn rất lớn để thực hiện được quá trình CNH,HĐH đất nước. Vì thế mà huy động từ đâu và phân bổ ra sao, sử dụng các nguồn vốn như thế nào cho hiệu quả thì qua đề tài này những câu hỏi trên phần nào được tháo gỡ. Để hoàn thiện được quá trình CNH,HĐH, ngoài vấn đề về vốn ra chúng ta còn phải kết hợp tốt với nhiều lĩnh vực khác, nhào lặn ra những mô thức cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tiễn, thúc đẩy CNH,HĐH đi được con đường tắt hợp lý nhất để Việt Nam bắt kịp với nhịp điệu chung của thế giới.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao năm 1996 là 9,34%, năm 1998 là 5,76% năm 2000 là 67,5%. Đây là một con số đáng kích lệ. Từ những thành công đó nền kinh tế không những đủ bù đắp quỹ tiêu dùng mà còn phần dành ra hình thành quỹ tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Quỹ tiêu dùng cuối cùng so với tổng sản phẩm trong nước (GĐP) năm1996 là 80,94%, năm 1998 là 77,79% và năm 2000 đạt 78,82%. Đó là những thành công của Việt Nam đẫ đạt được, có được thành công này không thể nói tới vai trò của việc huy động vốn đầu tư trong thời gian qua.Vậy quá trình huy động vốn diễn ra như thế nào chúng ta cùng đi sâu tìm hiểu huy động vốn đầu tư của nước ta.
I. Thực trạng huy động vốn phục vụ CNH,HĐH
1. Huy động vốn trong nước.
Đây là nguồn vốn có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc huy động vốn là điều quan trọng cần thiết, không thể thiếu trong CNH,HĐH đất nước. Được thực hiện chủ yếu thông qua hai kênh của chính phủ viết tiết kiệm của khu vực tư nhân.
1.1. Tiết kiệm của chính phủ
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình 13,1%GDP trong thời kỳ 1986-1990 tăng lên 20,5% GDP thời kỳ 1991-1995 và hiện nay là khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP nước ta khoảng 26 tỷ $).Thu ngân sách nhà nước có sự chuyển biến tích cực, nguồn thu trong nước tăng nhanh và chiếm phần chính trong tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ thể năm 1991 thu trong nước chiếm 76,7% thu ngân sách nhà nước đến năm 1998 chiếm 97,2%. Như vậy, năm 1991 thu ngân sách nhà nước bằng 13,5% GDP thì năm 1998 bằng 20% GDP và năm 2000 bằng 22,5%GDP, trong năm việc chi ngân sách giảm xuống còn 22,5% GDP. Do đó việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể cho chi đầu tư phát triển tăng lên từ mức 6,1% GDP năm 1996 lên mức 8,7% năm 2000(nếu kể cả khấu hao cơ bản là 5,1% GDP). Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn bị hạn chế (do hiệu quả sử dụng đầu tư cho xây dựng cơ bản chưa cao) và tập trung đầu tư cho các công trình trọng điểm phục vụ CNH,HĐH đất nước, song đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng.
1.2. Tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước.
Tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước biểu hiện ở phần lãi ròng để bổ sung vốn kinh doanh.
Hiện nay, ở nước ta có khoảng hơn 35000 doanh nghiệp hoạt động, trong số đó có khoảng 5740 doanh nghiệp, xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% nhưng hàng năm đóng góp từ 40- 48% GDP. Các doanh nghiệp nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Song hiệu quả kinh doanh đạt thấp, nên mức tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thể hiện: các chỉ số hiệu quả của khu vực doanh nghiệp có chiều hướng ngày càng suy giảm. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn giảm từ 14,5% năm 1996 xuống 11,8% năm 2000. Đặc biệt năm 1998, khu vực công nghiệp nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản phẩm toàn ngành, nhưng chỉ đóng góp 40,7%, sang năm 2000 thì mức đóng góp này có khả quan hơn 52,6% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp.
1.3. Tiết kiệm của khu vực tư nhân.
Đây là một bộ phân quan trọng góp phần vào tổng tiết kiệm trong nước. Bao gồm: tiết kiệm của dân cư và tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt là sự đóng góp của các hộ gia đình.
a>Tiết kiệm của dân cư: nguồn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Vì vậy cần căn cứ vào cơ cấu lứa tuổi của dân cư và tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập để có chính sách ưu tiên thích hợp. Việc gia tăng tỷ lệ lực lượng lao động(có việc làm)/ tổng số dân cư có thể thúc đẩy gia tăng tiết kiệm.
Theo điều tra và ước tính của bộ kế hoạch - đầu tư và tổng cục thông kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 7-9 tỷ $. Trong đó:44% để dành của dân là để mua vàng, ngoại tệ; 20% để dành của dân là mua nhà đất, cải thiện đời sống sinh hoạt; 17% để dành của dân là gửi tiết kiệm chủ yếu là loại ngắn hạn; 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn. Như vậy chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân, năm sau luôn cao hơn năm trước cụ thể như :
Bảng 1
Năm
Mức huy động
(tỷ đồng)
Mức tăng so với năm trước %
1991
6430
181,4
1992
10.864
170
1993
13.000
120
1994
17.000
130
1995
20.000
117,7
1996
24.000
120,6
1997
28.000
116,7
1998
32.000
114,3
1999
35.540
111.06
2000
40.000
112,5
Nguồn tạp chí Nghiên cứu kinh tế năm 2000
Thực tế trên cho chúng ta thấy rõ được sự đóng góp của dân cư trong thời gian qua. Nhưng để huy động được vốn của dân cư có kết quả tốt thì nhà nước cần có chủ trương, chính sách, cơ chế đúng đắn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, củng cố lòng tin tưởng bỏ vốn đầu tư kinh doanh có hiệu quả.
b>Tiết kiệm của các doanhnghiệp tư nhân, các hợp tác xã và các công ty.
Trong những năm gần đây các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần trong cả nước có bước phát triển khá. Nhờ có qui mô lớn, sản xuất ổn định nên vẫn đạt tốc đọ tăng trưởng từ 9- 10% năm. Do đó đã có đóng góp không nhỏ trong việc huy động các khoản tiết kiệm từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho phát triển kinh tế.
Thực trạng trên cho chúng ta thấy được sự nỗ lực của các khu vực tư nhân. Nhưng để huy động được nguồn tiết kiệm của khu vực tư nhân có hiệu quả thì ngoài hệ thông ngân hàng chính qui, cần tổ chức huy động tiết kiệm phi chính thức: như hiệp hội tín dụng, tiết kiệm quay vòng,...ở các vùng, đặc biệt là ở nông thôn bằng hệ thống các quỹ.
2. Huy động vốn đầu tư từ bên ngoài.
Nhu cầu về vốn cho quá trình CNH,HĐH là rất lớn do đó chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chưa đủ, nên ngoài huy động vốn trong nước cũng cần huy động nguồn vốn từ bên ngoài để thúc đẩy sự nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam. Huy động vốn từ bên ngoàigồm: vốn và vốn đầu tư gián tiếp thể hiện chủ yếu thông qua nguồn ODA.
2.1. Đối với nguồn ODA.
ODA là nguồn vốn có tác động tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng. Tới nay, Việt Nam đã nhận được nguồn ODA từ 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã được cộng đồng tài trợ cam kết hỗ trợ nguồn ODA với giá trị là 20,006 tỷ$. Cũng từ năm 1993 đến tháng 10 năm 2001, chính phủ Việt Nam kí cam kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trị giá 14,3 tỷ$, đạt 81,5%tổng ODA đã cam kết. Trong đó: ODA vay là 12 tỷ$ (83,9%), ODA viện trợ không hoàn lại khoảng 2,3 tỷ$ (16,1%). ODA tập trung hỗ trợ các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội ưu tiên của chính phủ phục vụ CNH,HĐH ở các ngành như năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng cơ bản…
Nguồn ODA vào Việt Nam được cung cấp từ các ngân hàng WB (ngân hàng thế giới), ADB (ngân hàng phát triển châu á), IMF (quỹ tiền tệ quốc tế), và từ các chính phủ Nhật Bản, Thuỵ Điển,…
2.2. Đối với nguồn FDI.
FDI có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tính chung trong 5 năm 1996 – 2000, FDI chiếm tới 28% tổng vốn đầu tư. Riêng năm 2000 có 461dự án đầu tư 3116 tỷ$ chỉ chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn FDI tuy có giảm bớt do tác động của thị trường quốc tế nhưng vẫn được coi là cao so với tình hình chung của tế giới. Các dự án đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp và xây dựng có 211 dự án so với vốn đăng ký 398,1 triệu$, các dự án này tập trung ở các tỉnh phía Nam với 209 dự án chiếm 362,2 triệu$. Trong số vốn đầu tư của các dự án, hình thức 100% vốn nước ngoài đang tăng lên nhanh chóng. Điều đáng ghi nhận là hiện nay tài sản cố định do kết quả đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài chiếm tới gần 50% tài sản cố định của nền kinh tế. Điều này không phản ánh sát thực quá trình đầu tư và do những sai sót có tính hệ thống của việc hạch toán vốn đầu tư và tài sản cố định trong nền kinh tế. Lý do chủ yếu là việc hoạch toán vốn FDI còn dựa vào sự khai báo của các doanh nghiệp này, mà trong quá trình kiểm tra có thể thấy có sai sót ít nhiều. Nếu tính thêm cả nguồn ODA thì đầu tư nước ngoài thì theo đánh giá trong 5 năm 1996 –2000, trong điều kiện kinh tế thế giới có khó khăn, vốn FDI bị suy giảm, chúng ta đã tăng cường nội lực và vốn bên ngoài đã huy động khoảng 40% tổng vốn đầu tư, trong đó năm 2000 khoảng 32%.
Nhờ các công trình có vốn FDI đã góp phần đẩy mạnh sản xuất nói chung, nhất là sản xuất công nghiệp, đóng góp trên 35% tổng sản lượng ngành này và tạo ra hơn 13% GDP của nền kinh tế. Tính đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nambình quân 1.111,75 triệu$/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ 1991- 2000 là 16391 tỷ đồng/ năm. Đối với một nền kinh tế có qui mô như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về qui mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như “chất xúc tác - điều kiện” để việc đầu tư phục vụ cho CNH,HĐH đạt hiệu quả nhất định. Nếu so với tổrng vốn đầu tư xây dựng cơ bản thời kỳ 1991- 2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 27,51% và lượng vốn này ngày một tăng lên được thể hiện thông qua bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam thời kỳ 1991- 2000
Năm
Tổng vốn đầu tư
(tỷ đồng)
Vốn trong nước
(tỷ đồng)
Vốn FDI
Số lượng (tỷ đồng)
So với tổng số (%)
1991
11.526,0
9.606,0
1.920
16.7
1992
19.755,0
15.255,0
4.500
22.8
1993
34.176,0
25.376,0
8.800
35.7
1994
43.100,0
29.900,0
13.200
30,6
1995
68.047,8
46.047,8
33.000
32,3
1996
79.367,4
56.667,4
22.700
28,6
1997
96.870,4
66.570,4
30.300
31,3
1998
96.400,0
72.100,0
24.300
25,2
1999
102.900,0
85.000,0
18.900
18,2
Tổng số
553.142,6
406.522,6
146.620
26,54
Nguồn: Niên gián thông kê năm 1999 và Bộ kế hoạch đầu tư
Từ số liệu ở trên cho thấy, vốn đầu tư nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu cuả công cuộc CNH,HĐH.
Hiện nay, bên cạnh việc huy động vốn đầu tư trực tiếp và huy động trong dân, chúng ta đã bắt đầu mở thị trường chứng khoán, thu hút vốn của các nhà đầu tư tư nhân, nhưng mới là cổ đông trong nước; mặt khác cũng cho phép đầu tư ra nước ngoài, nhưng chưa huy động vốn đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài.
Riêng về vốn vay bên ngoài để đầu tư, có thể phân ra vốn vay của nhà nước, hoặc do nhà nước bảo lãnh (khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì nhà nước sẽ phải trả) và vốn vay của các doanh nghiệp và tư nhân không có bảo lãnh thì chưa có hệ thống thống kê đầy đủ các khoản vay này, nhưng theo báo cáo gần đây trước quốc hội thì tổng nợ của các loại là hơn 10 tỷ$. Hằng năm Việt Nam phải trả gốc và lãi dưới 10% giá trị xuất khẩu. Đó được coi là an toàn. Vì thế vốn vay để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế trong thời kỳ tiến hành CNH,HĐH ngày càng được tăng cường và đảm bảo an toàn tin cậy đối với các chủ đầu tư trong nước cũng như chủ đầu tư nước ngoài.
2.3. Nguồn kiều hối
Đây là nguồn lực lớn xét cả khả năng vốn đầu tư lẫn chất xám và chúng có vai trò quan trọng, là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước ngoài. Trong những năm ngần đây nguồn này đã đóng góp phần trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên lượng kiều hối và nguồn vốn và vốn của người Việt Nam ở nước ngoài dành cho đầu tư phát triển chưa nhiều, trong những năm qua cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước mới chiếm khoảng 200 triệu$.
Tóm lại, trong thời gian qua chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phục vụ CNH,HĐH đất nước, những thành công mang lại mới chỉ là bước đầu. Tốc độ tăng vốn đầu tư còn thấp hơn so với dự kiến và giảm dần qua các năm. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1996 tăng 27,1%, năm1997 tăng 12,2%, năm1998 không những tăng mà còn giảm 4,1% so với năm1997, cho tới năm 2000 lượng vốn này tăng hơn đạt 21,5%. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách ngày càng khó khăn hơn, có xu hướng giảm dần cả qui mô và tốc độ. Vì vậy để tăng hiệu quả huy động các nguồn vốn này cần chú trọng vào việc sử dụng, phân bổ vốn như thế nào cho hiệu quả.
II. Tình hình sử dụng và phân bổ vốn đầu tư phục vụ quá trình CNH,HĐH đất nước.
1. Sử dụng và phân bổ vốn đầu tư trong nước cho quá trình CNH,HĐH.
1.1. Vốn đầu tư sử dụng và phân bổ theo ngành kinh tế.
Phân bổ và sử dụng vốn đầu tư phát triển theo cơ cấu ngành kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất trong chính sách cơ cấu của đất nước. Bài học rút ra từ sự phân tích này có thể giúp cho chúng ta điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư trong tương lai phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp CNH,HĐH thực hiện quá trình phát triển rút ngắn.
a> Ngành nông lâm ngư nghiệp.
Đây là ngành kinh tế quan trọng, đến năm 2000 có thu hút hơn 60% lực lượng lao động trong nền kinh tế và là hoạt động chủ yếu của 76% dân số sống ở vùng nông thôn. Đầu tư tư phát triển nông lâm ngư nghiệp cũng bao gồm cả vốn đầu tư vào ngành thuỷ lợi, mà trong thời bao cấp trước đây chiếm 40% lượng vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp. Đến nay, cơ cấu đầu tư vào nông nghiệp đã thay đổi rất nhiều và qui mô đầu tư cũng tăng lên nhanh chóng, từ dưới 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên đến 14%, phản ánh những nỗ lực của Đảng và nhà nước ta tạo ra những biến chuyển mạnh mẽ trong nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Gần đây, các khoản đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tăng lên mạnh, nhưng giá trị gia tăng của ngành này vẫn chỉ bình quân khoảng 4- 5%/năm, làm cho chỉ tiêu hiệu quả bị giảm mạnh. Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đòi hỏi các khoản đầu tư mới và đi đôi khi do yếu tố thị trường (như trường hợp giá cà phê, cao su…) bị rớt giá mạn, ảnh hưởng đến hiệu quả của các ngành trồng trọt, kể cả cây lúa. Ngành lâm nghiệp cũng có khó khăn vì khả năng khai thác gỗ bị thu hẹp, khi cần đầu tư mạnh vào chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, trồng mới 5 triệu ha rừng. Đối với ngành thuỷ sản có bươc tiến mới, tuy nhiên nảy sinh vấn đề ở đây là đầu tư thiếu lựa chọn cho việc đẩy nhanh mạnh vào đánh bắt xa bờ, đầu tư lớn vào tầu thuyền nhưng không đồng bộ về ngư phủ, ngư trường, công tác tồn trữ và chế biến thuỷ hải sản.
b> Ngành công nghiệp và xây dựng.
Đây là ngành luôn luôn phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng thường xuyên cao trên 10- 15%, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế tăng cao. Vốn đầu tư vào công nghiệp và xây dựng thường chiếm khoảng 35- 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bao gồm cả ngành điện lực cũng như xây dựng. Hơn nữa, trong ngành có bao gồm cả vốn đầu tư không chỉ cuả khu vực nhà nước mà cả khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu là các công trình vừa và nhỏ) và vốn đầu tư của các dự án có vốn FDI. Do các khoản đầu tư này có hiệu quả khá cao: các dự án khu vực ngoài quốc doanh là doanh nghiệp nhỏ, tỷ suất trang bị vốn tương đối thấp, kỹ thuật không cao, chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ và làm “ vệ tinh” cho các sản xuất lớn nên hiệu quả cao cả về kinh tế (thu lãi) cũng như xã hội(tạo việc làm). Tuy nhiên, sức cạnh tranh của các khoản đầu tư này không cao lắm, khó đáp ứng nhu cầu cạnh tranh của thời kỳ hội nhập kinh tế.
Đối với công nghiệp chế biến, khu vực kinh tế nhà nước đầu tư 7920 tỷ đồng(31%), khu vực ngoài quốc doanh đầu tư 3403 tỷ đồng(13%), trong đó doanh nghiệp 2280 tỷ đồng và hộ cá thể là 1123 tỷ đồng(56%). Sang năm 2000 tỷ lệ đầu tư cho ngành này cũng như vậy giữa các thành phần kinh tế. Trong khi đó hiệu quả lại khác nhau: ngành công nghiệp quốc doanh có tỷ suất vốn là 1,8; công nghiệp ngoài quốc doanh là 2,3. Kết quả là các thành phần kinh tế có sự đóng góp khác nhau vào kết quả phát triển công nghiệp thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Đóng góp của các thành phần kinh tế trong công nghiệp
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Toàn nghành CN
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài quốc doanh
103374
51991
25451
118097
58166
28369
1344120
64474
31068
151223
69463
33402
166965
72604
36342
1725021
76153
37892
Nguồn : Niên gián thống kê năm 2000
Vốn đầu tư đã dành phần quan trọng để phát triển kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất, góp phần quan trọng vào việc phát triển công nghiệp, thúc đẩy tiến trình thực hiện CNH,HĐH ở Việt Nam.
c> Ngành dịch vụ.
Ngành này mang tính rộng khắp, bao quát tất cả các lĩnh vực ngoài nông nghiệp công nghiệp như thương mại, vận tải, viễn thông, tài chính, ngân hành, quản lý nhà nước, y tế, giáo dục,…Tổng vốn vốn đầu tư vào các ngành dịch vụ chiếm tới 51% tổng vốn toàn xã hội, chưa kể điện lực và thuỷ lợi. Trong cách tính toán hiện nay, vốn đầu tư vào khu vực dịch vụ bao gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế như giao thông, cấp thoát nước, trường học, bệnh viện … Do đó, tỷ lệ vốn tính cho khu vực này khá cao, nên hiệu quả tương đối thấp. Kết quả là các khoản đầu tư đã có tác dụng tích cực (cả trực tiếp như: trong khách sạn nhà hàng, thương mại, vận tải, thông tin,… và gián tiếp như: đầu tư vào kết cấu hạ tầng) đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển trong thời kỳ CNH,HĐH.
1.2. Vốn đầu tư phân bổ và sử dụng theo vùng.
Theo sự phân loại vùng kinh tế đang được sử dụng căn cứ vào qui hoạch phát triển đã được chính phủ phê duyệt, nền kinh tế với 61 tỉnh thành phố trực thuộc được chia thành 8 vùng kinh tế. Mỗi vùng có những đặc điểm riêng về địa hình, địa hình điều kiện tự nhiên, mật độ dân số khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế các khoản đầu tư phát triển đã không được huy động và sử dụng tương xứng với các tiềm năng và điều kiện ban đầu về tự nhiên cư dân – xã hội. Theo tổng kết gần đây của tổng cục thống kê thì sự khác biệt về đầu tư phát triển như sau:
Bảng 4: Vốn đầu tư cho các vùng phục vụ phát triển CNH,HĐH.
Các vùng
Dân số vùng
(1000 người)
Đầu tư
(tỷ đồng)
Đầu tư đầu người
(triệu đồng)
Đầu tư ngân sách
(tỷ đồng)
ĐTNS
đầu người
(triệu đồng)
Đầu tư dân
(tỷ đồng)
ĐT dân đầu người
(triệu đồng)
Tây bắc
2288
2078
0,908
1507
0,659
547
0,239
Đông bắc
8952
11795
1,318
8687
0,970
2578
0,288
ĐBSH
17018
38232
2,247
25144
1,477
7566
0,445
Bắc trung bộ
10120
13418
1,326
8277
0,818
3763
0,372
Duyên hải miền trung
6623
10539
1,591
7142
1,078
2408
0,364
Tây nguyên
4248
5996
1,411
3696
0,870
2239
0,527
Đông nam bộ
12071
45020
3,730
18169
1,505
9042
0,749
ĐBSCL
16366
20556
1,256
11945
0,370
7752
0,474
Toàn quốc
77686
147634
1,900
84567
1,089
35895
0,462
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế 3/2002
Qua bảng trên có thể thấy sự chênh lệch trong đầu tư vùng. Các vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng đang được nhà nước đâu tư từ ngân sách cao gấp 1,5 mức bình quân của cả nước có thể là cấn thiết trong giai đoạn khởi động nền kinh tế, nhưng vùng Tây Bắc hay đồng bằng sông Cửu Long chỉ được dành 60-65% lượng vốn so với mức bình quân đầu người cả nước thì có lẽ chưa được hợp lý. Về lâu dài, vốn nhà nước cần được điều chỉnh về qui mô. ở vùng Tây Bắc cũng như vùng Đông Bắc có khoảng 74- 75% vốn đầu tư toàn xã hội là thuộc vốn khu vực nhà nước cũng là một cố gắng lớn, trong khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang được đẩy mạnh.
Đối với vùng núi Tây Bắc, các khoản mục đầu tư lớn nhất lần lượt là: đầu tư hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng là 519 tỷ (25% so với cả nước là 14%). Giao thông vận tải, thông ti liên lạc là 382 tỷ (18% so với cả nước là 14%)và nông lâm ngư nghiệp đầu tư hơn 360 tỷ đồng (17% so với cả nước là 14%), trong khi công nghiệp và xây dựng:400 tỷ (19% so với cả nước là hơn 35%)là những hướng đầu tư đúng đắn trực tiếp cải thiện đời sống của nhân dân và từng bước phát triển vùng núi khó khăn.
Vùng núi ở Đông Bắc các khoản đầu tư lớn nhất lần lượt là công nghiệp và xây dựng (30%), nông lâm ngư nghiệp (18%), giao thông vân tải và thông tin liên lạc (17%) phản ánh đúng để phát huuy lợi thế của vùng. Vùng này, đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (đến 74%) như vùng Tây Bắc phản ánh những nỗ lực rất cao của Đảng và nhà nứơc ta phát triển những vùng còn nhiều khó khăn.
Vùng Tây Nguyên, các ngành có đầu tư lớn nhất là nông lâm ngư nghiệp (33%tỷ lệ cao nhất cả nước), công nghiệp và xây dựng (24%) trong khi giao thông vận tải (11% thấp hơn nhiều so với các vùng khác) là những đặc điểm đặc thù cảu đầu tư vùng cao nguyên.
Vùng Đồng Bằng sông Hồng thời gian qua đã có sự đẩy mạnh đầu tư với tốc độ cao hơn cả nước, với sự chuyển biến mạnh mẽ của Hà Nội (đầu tư tăng 22,5%). Tại đây các ngành công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh đầu tư (34% tương đương cả nước), tiếp đến là ngành giao thông vận tải (16% cao hơn cả nước) trong khi đầu tư vào nông lâm ngư nghiệp chỉ chiếm 9% thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung cả nước (14%), và đồng bằng sông Cửu Long (27%), cho thấy vùng này đang tiến mạnh trên đường CNH, trong khi tỷ lệ đô thị hoá chỉ có 20% thấp hơn bình quân cả nước là 24%. Với cơ cấu ngành của đầu tư như vậy thì có nhiều điểm tương đồng với vùng Đông Nam Bộ, vì trong vùng có địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng này có cơ cấu ngành của đầu tư khác biệt: với các cơ cấu ngành được đầu tư lớn là nông nghiệp (27% gấp 2 lần tỷ trọng so với cả nước) công nghiệp và xây dựng(20% thấp hơn nhiều so với cả nước). Tới đây việc phát triển công nghiệp khí đốt ở Tây Nam, chắc chắn sẽ thúc đẩy mạng hơn đầu tư vào công nghiệp của vùng.
Như vậy, để đánh giá hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn đầu tư phát triển phục vụ đất nước được chỉ ra trong bảng sau:
Bảng 5: Vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
GDP hiện hành (tỷ đồng)
228892
272036
313623
361016
399942
444139
Tốc độ tăng trưỏng GDP(%)
9,54
9,34
8,15
5,76
4,77
6,75
Đầu tư XDCB (Tỷ đồng)
68048
79367
96870
97336
103900
120600
I(XDCB)/GDP (%)
29,73
29,18
30,89
26,96
25,98
27,15
Đầu tư phát triển (kỳ đầu)
72477
87394
108370
117134
131170
147633
I(PT)/GDP (%)
31,66
32,12
34,55
32,44
32,80
33,24
ICOR(XDCB)
3,12
3,12
3,79
4,68
5,45
4,02
ICOR(PT)
3,32
3,44
4,24
5,63
6,88
4,92
Khác biệt %:ICOR(PT)cao hơn ICOR(XDCB)
6,41
10,26
11,807
20,30
26,24
22,39
Nguồn: Niên gián thống kê năm 2000
Từ những đánh giá hiệu quả như trên thì việc bỏ vốn đầu tư phục vụ phát triển kinh tế để đạt mục tiêu tới năm 2020 biến nước ta thành một nước công nghiệp là điều hoàn toàn có thể làm được. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải nhìn lại chính mình xem xét một cách khách quan cái gì đã làm được và cái gì chưa làm được trong việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn trong nước, từ đó đưa ra biện pháp hữu hiệu.
Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài chúng ta đã phân bổ và sử dụng như thế nào?
2. Phân bổ và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ cho CNH,HĐH đất nước.
2.1. Đối với nguồn ODA.
Đánh giá việc thực hiện phân bổ và sử dụng ODA thông qua việc so sánh giữa vốn đầu tư cam kết và vốn đầu tư đã thực hiện được ở bảng dưới đây. Từ đó mới xem xét khả năng giải ngân nguồn vốn này theo từng ngành kinh tế đóng góp như thế nào cho quá trình xây dựng CNH,HĐH ở nước ta.
Bảng 6: Nguồn vốn ODA giai đoạn
Đơn vị: tỷ $
Năm
Vốn cam kết
Vốn thực hiện
1993
1,819
0,413
1994
1,914
0,725
1995
2,261
0,737
1996
2,430
0,9
1997
2,420
1,00
1998
2,186
1,2
1999
2,1
1,12
2000
2,1
1,68
Nguồn: Bộ tài chính năm 2000
Qua 7 năm tiếp nhận ODA chúng ta đã thực hiện giải ngân là 7,775 tỷ$ (năm 2000 giải ngân được 1,68 tỷ$). Mức giải ngân bình năm 1996- 2000 đạt 1,1 tỷ$(hơn 70% mức kế hoạch).
Trong đó giải ngân cho giao thông vận tải tăng từ 110 triệu$ vào năm 1996 lên 212 triệu vào năm 1998 chủ yếu cấp vốn cho các công trình cấp thoát nước và phát triển đô thị, đến nay thì ngành này giải ngân được 27,3% vốn cam kết. Ngành công nghiệp giải ngân đạt 29,5%. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã giải ngân được 9,2%; ngành cấp thoát nước giải ngân được 13,2%; các ngành khác 20,8%. Từ tình hình giải ngân trên xét thấy còn rất chậm chễ. Mặc dù chính phủ đã ban hành những nghị định để thực hiện phân bổ và sử dụng nguồn vốn ODA như: NĐ 58/CP ra ngày 30/8/1993, sau đó là NĐ 20/CP ra ngày 20/4/1994 về quản lý nguồn vốn ODA và NĐ 87/CP thay bổ sung cho nghị định 58, vậy tại sao khi có cơ sở pháp lý mà nguồn vốn ODA vẫn giải ngân chậm. Trước hết, sẽ phải tìm ra nguyên nhân của việc chậm giải ngân:
Lý do việc chậm giải ngân có nhiều chủ yếu là: do thời gian chuẩn bị dự án thường kéo dài, thủ tục xem xét phức tạp, chưa có khung cơ chế tài chính trong nước, chậm giải phóng mặt bằng…Những lý do nêu trên làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hưởng xấu đến thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội; giảm lòng tin của các nhà tài trợ vốn từ đó ODA đi vay sẽ giảm tính ưu đãi (thời gian ân hạn bị rút ngắn). Vậy phân bổ và sử dụng nguồn ODA như thế nào cho hiệu quả thì chúng ta phải có các biện pháp cụ thể.
2.2. Đối với nguồn FDI.
Nguồn FDI hiện nay có xu hướng giảm, việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn này ở nước trong thời gian qua như thế nào đã thực sự phù hợp với phát triển kinh tế của đất nước theo hướng CNH,HĐH hay chưa?
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này góp phần gia tăng máy móc, thiết bị mới, công nghệ tiên tiến vào sản xuất tập trung nhiều vào ngành công nghiệp. Tổng vốn FDI đầu tư vào ngành công nghiệp là 40% (nếu tính cả lĩnh vực dầu khí là trên 60%). Tuy vậy, nguồn FDI cũng được phân bổ theo chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, phản ánh mức độ phù hợp giữa đầu tư và yêu cầu cân đối các ngành trong nền kinh tế. FDI phân bổ vào sử dụng vào hầu hết các ngành nhưng ở mức đọ khác nhau, ở các giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn đầu nguồn FDI tập trung vào lĩnh vực khai thác dịch vụ du lịch, kinh doanh đĩa ốc và khách sạn. Đến năm 1997 khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực ngành này giảm dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu. Phải thấy rằng ở giai đoạn này chúng ta chỉ chú trọng vào việc thu hút mà ít quan tâm tới việc phân bổ sử dụng nguồn này vào các ngành, các lĩnh vực một cách có lựa chọn. Những năm đầu nguồn vốn FDI đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực sau: dầu khí 32,2%, khách sạn 20,6%; đến năm 1995 đầu tư cho công nghiệp là 43%, nông lâm nghiệp là 6%, ngư nghiệp là 1,7%. Cho tới năm 1996 nguồn vốn FDI đầu tư thuộc ngành sản xuất vật chất chiếm 64,6% về vốn trong đó có hơn 60% đầu tư theo chiều sâu nhằm cải tạo nâng cấp những nâng lực sản xuất hiện có.
Những năm gần đây nguồn FDI phân bổ có sự chuyển biến tích cực hơn: năm 2000 FDI sử dụng tập trung trong ngành công nghiệp trong đó công nghiệp nặng chiếm khoảng 65% với 115 dự án số vốn là 1092,35 triệu$. Xu hướng gia tăng đầu tư cho công nghiệp thúc đẩy bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, chất lượng các ngành kinh tế khác được nâng cao phù hợp với mục tiêu phát triển đến năm 2020 của nước ta.
Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư vẫn chưa phân bổ hợp lý cho các ngành như: ngành chế biến nông sản và thực phẩm vốn đầu tư ít qui mô nhỏ hẹp, các ngành y tế, giáo dục thì hầu như là không có.
Việc thực hiện phân bổ nguồn FDI tập trung chủ yếu ở miềm Bắc trong giai đoạn 1993 đến 1999, sang năm 2000 FDI lại tập trung ở vùng Đồng Bằng Nam Bộ ở một số tỉnh như: Bình Dương, Cần Thơ, …Chính vì vậy đã tạo ra một chào lưu mới dịch chuyển FDI từ Bắc xuống Nam.
Chương III: Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng phân bổ vốn đầu tư phục vụ cho CNH,HĐH ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy muốn tăng trưởng kinh tế cân có tích luỹ, trong đó không chỉ dựa vào sức mình mà cần phải biết phối hợp nhiều nguồn lực. Từ đó, chúng ta mới có thể huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý. Vậy với những biện pháp gì chúng ta có thể huy động được nguồn vốn lớn cho sự nghiệp CNH,HĐH. Khi huy động được rồi thì biện pháp phân bổ và sử dụng vốn đó như thế nào cho hiệu quả?
I. Một số giải pháp huy động vốn phục vụ CNH,HĐH.
1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách.
*Tiếp tục ổn định chính- kinh tế- xã hội.
Đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu và là cơ sở của sự tăng trưởng, là cơ sở tăng cường th hút vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn thì vấn đề ổn định chính trị – kinh tế –xã hội Việt Nam cần tiến hành đổi mới trên tất cả các lĩnh vực cho phù hợp với thực tiễn. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nảmong sự nghiệp đổi mới coi đây là nhân tố cốt lõi. Sự lãnh đạo và sáng suốt của Đảng suốt 7 thập kỷ qua là nhân tố định mọi sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong Đảng cũng có những lúc mắc sai lầm, yếu kém. Song dù bất cứ đâu sự lãnh đạo của Đảng vẫn là kim chỉ namcho mọi hành động. Vì vậy, cần phải tăng cường sự thống nhất trong Đảng. Tăng cường vai trò của nhà nước pháp quyền của dân, do dân vì dân thực hiện con đường Việt Nam đã lựa chọn, hạn chế và xoá bỏ xung đột xã hội, giữa vững an ninh trật tự xã hội, củng cố quốc phòng và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên CNXH. Như vậy, ổn định chính trị- kinh tế- xã hội là điều cần thiết đối với các nhà đầu tư.
Việc giữ vững ổn định chính trị – kinh tế- xã hội đã tạo ra môi trường thuận lợi để lôi kéo ngày càng nhiều các nhà đầu tư.
*Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng khi các nhà đầu tư quyết định đưa vốn của mình vào hoạt động. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại cơ sở hạ tầng kém sẽ làm giảm hiệu lực thu hút các nhà đầu tư. Hiện nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn nhiều yếu kém như: đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc…chưa đáp ứng được điều kiện kinh doanh trong cơ chế thị trường. Vì vậy nhà nước cần đầu tư xây dựng bằng nhiều hình thức và có ưu đãi về thuế so với các lĩnh vực khác. Chính phủ cần dành một khối lượng lớn tài chính để mở rộng hoặc nâng cấp các tuyến đường giao thông, đặc biệt là các thành phố lớn. Trước mắt cần tập trung các nguồn lực vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng trọng điểm, các ngành trọng điểm, đầu mối giao thông quan trọng. Cụ thể đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở những vùng có tác dụng thúc đẩy nhanh sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, đảm bảo anh ninh quốc phòng đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, tạo điều kiện thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển.
*Cần nâng cao nhận thức cho tất cả mọi người ý thức vai trò của việc huy động vốn đầu tư. Nhận thức được rõ ràng tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để đảm bảo một sự phát triển nhanh, bền vững.
*Việc huy động vốn trong nước và nước ngoài phải đảm bảo đồng b, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, gắn bó, bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng nhau phát triển. Giải quyết nhanh mọi vướng mắc khó khăn, tăng cường sự giúp đỡ hỗ trợ cho các dự án đamg hoạt động, nhằm tăng cường tính thuyết phục, lôi cuốn thu hút các nhà đầu tư, mới, các dự án mới.
*Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước. Cần quán triệt tinh thần của đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra là nhà nước hỗ trợ tất cả các thành phần kinh tế và khuyến khích nhân dân: lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là điểm tương đồng chấp nhận những điểm khác nhau, miễn là không trái với mục tiêu chung của cả dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần cởi mở đoàn kết tin cậy lẫn nhau…
* Phát triển những định chế tài chính trung gian. Đây là những việc làm cần thiết, đặc biệt ở nước ta việc xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển quốc gia là qun trọng. Đây sẽ là trung tâm cung cấp vốn đầu tư phát triển cho tất cả các dự án đầu tư của nhà nước, các dự án của các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, các công ty liên doanh, công ty cổ phần…
* Mở và tăng cường hợp tác quốc tế. Cần tiếp tục đẩy mạnh và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế cũng như ngân hàng các nước nhằm tranh thủ nguồn tài trợ của các tổ chức. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống tài chính –tiền tệ phù hợp. Thúc đẩy nhanh sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để nhanh chóng ra hội nhập với khu vực và thế giới.
* Cần đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác hướng dẫn đầu tư. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, kỹ thuật …phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, đạo đức tốt, giỏi ngoại ngữ, đủ mạnh để chuẩn bị tiếp nhận các dự án trong thời gian tới, tránh nguy cơ tụt hậu, nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên trường quốc tế.
2. Nhóm giải pháp để khai thông các kênh đưa tích luỹ vào phục vụ CNH,HĐH.
*Thành lập các công ty cổ phần và thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Đây chính là việc thực hiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp của dân cư và các doanh nghiệp. Lợi tức ở đây có thể cao, thấp tuỳ thuộc kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Hai quá trình này cần được kết hợp để thực hiện điều chỉnh hợp lý những cân đối trong nền kinh tế. được các hoạt động đầu tư có qui mô lớn và dài hạn.
- Kích thích đầu tư bằng việc cho phát hành cổ phiếu và trái phiếu, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp trong dân cư, nhưng do không có hình thức và cơ chế rõ ràng nên đã không thành công. Nhiều doanh nghiệp không huy động được vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, hoặc huy động vốn được nhưng là ăn khgông có hiệu quả nên bị đổ bể. Nên biện pháp ở đây nên:
Cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu và thành lập công ty tài chính để kích thích việc phát hành các loại trái phiếu, nhất là trái phiếu công ty. Trong trường hợp muốn huy động đủ nguồn vốn cần thiết và tránh sự bất ổn trên thương trường thì các nhà đầu tư đồng thời là nhà vay vốn có uy tín nhất định, dự án phải được xác định có tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao. Điều này lý giải tại sao, chưa phát huy được ưu thế của kênh huy động vốn để tập trung một lượng vốn lớn vào công trình trọng điểm của chương trình CNH,HĐH.
* Tổ chức thị trường chứng khoán.
Khâu quan trọng của việc thu hút vốn, tạo các điều kiện và môi trường chuyển hoán vốn nhanh chóng (chuyển nhượng các chứng khoán – cổ phiếu trái phiếu), khắc phục giữa đầu tư ngắn hạn và sử dụng vốn với thời hạn dài hơn chính là việc thành lập và đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sẽ giúp chúng ta huy động vốn với qui mô lớn, khuyến khích tiết kiệm đầu tư, là công cụ để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
* Đưa kiến thức về thị trường, trước hết là kiến thức về cổ phiếu và trái phiếu, vào đời sống kinh tế của c ác nhà đầu tư, nhât là dân cư.
Trình độ phát triển kinh tế phải đi kèm với nhận thức của người dân về các sản phẩm đầu tư. Họ phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực này để tăng độ tin cậy vào công việc đầu tư, tham gia vào quá trình đầu tư và quyết định đầu tư.
* Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để khuyết khích đầu tư, thu hút vốn từ nước ngoài. Chúng ta phải nỗ lực trên nhiều phương diện chính trị, kinh tế, xã hội để tạo lập và củng cố môi trường kinh doanh ổn định thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư vào nước ta. Nhu cầu về vốn cho CNH,HĐH là rất lớn. Nếu chúng ta không gấp rút triển khai đồng thời những giải pháp cần thiết sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội.
* Phải thực sự cấu trúc và tiêu chuẩn hoá hệ thống thị trường tài chính tiền tệ ở Việt Nam.
Trong hệ thống cấu trúc này đòi hỏi phải phân biệt: tài chính gián tiếp và tài chính trực tiếp, tài chính gián tiếp dành cho các định chế tài chính trung gian ngân hàng và phi ngân hàng. Tài chính trực tiếp do các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh(mua cổ phiếu) hoặc bỏ vốn tự làm.
Xét về tài chính gián tiếp có vị thế cực kỳ quan trọng. Muốn cấu trúc lại hệ thống thị trường tài chính tiền tệ thì đòi hỏi phải xuất phát từ cơ sở:
- Làm tăng của cải nội thân tức là tăng vốn tự có cho đủ sức cạnh tranh chiếm thị phần trong nước và quốc tế.
- Phải tự tính được mức độ sinh lời trong phạm vi trung và dài hạn (5 năm và 10 năm). Điều này phải dùng công cụ kỹ thuật và phân tích dự báo khá phức tạp phải xem nó là mục tiêu hàng đầu của thị trường tài chính tiền tệ.
- Phải dự báo được rủi ro trong trong hoạt động thị trường tài chính tiền tệ, có ngay cơ chế bảo hiểm và phòng.
-Luôn luôn có chiến lược chính sách và cơ chế bảo đảm nắm những cái gì có lợi thế nhấtcho thúc đẩy tăng trưởng đồng thời nhanh chóng chuyển thành tiền- cái, mà người ta gọi là thanh khoản. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt chính sáchcơ chế dự trữ ngoại tệ, cơ chế đầu tư và cho vay, chiến lược quản lý của các ngân hàng.
Đối với vấn đề này thì Việt Nam cần:
+ Cơ cấu lại ngay các ngân hàng và tổ chức tín dụng theo xu hướng tăng qui mô vốn của nó (tối thiểu từ tỷ$ cho vốn tự có của một ngân hàng quốc doanh tương tự như một số ngân hàng ở các nước trong khu vực).
+ Giải quyết dứt điểm các nợ nần vòng vo trong nền kinh tế và mở ra một trang mới trong kinh doanh cạnh tranh của thị trường tài chính tiền tệ, đẩy nhanh tốc độ chứng khoán hoá các khoản nợ.
+ Xây dựng liên kết thích hợp, phối trí giữa các chủ thể của thị trường tài chính tiền tệ, tạo ra một hệ thông trong đó có hai loại: thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
+ Tạo cho ngân hàng Trung ương một vị thế độc lập tương đối đủ sức đối phó với độ nhạy cảm và biến động hàng ngày trong chỉ đạo thị trường tiền tệ.
+ Phải có trình độ công nghệ cao trong hệ thống thị trường tài chính tiền tệ, thực sự là gắn với công nghệ thông tin.
+ Phải xem lãi suất là giá cả duy nhất trên thị trường tài chính tiền tệ. Lãi suất cơ bản gih trong luật là thuộc về ngân hàng thương mại. Việc điều hành lãi suất do ngân hàng Trung ương thông qua: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn.
+ Mở rộng thanh toán không bằng tiền mặt thông qua hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hướng về tất cả các vùng trong nước.
+ Vấn đề con người hoạt động trong hệ thống tài chính tền tệ cũng phải có trình độ hiểu biết về cả định tính lẫn định lượng, bao hàm cả trình độ nhân văn (sử dụng thông thạo ngôn ngữ thị trường).
3. Những kinh nghiệm ngoại thương để tăng qui mô tích luỹ vốn cho CNH,HĐH.
* Khai thác, sản xuất những mặt hàng có qui mô lợi thế tuyệt đối.Những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối thì thu được lợi nhuận siêu ngạch khi xuất khẩu, do đó tạo điều kiện tăng qui mô tích luỹ vốn. Đối với Việt Nam việc khai thác lợi thế tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đầu CNH,HĐH, khi trình độ sản xuất đặc biệt trong nghành công nghiệp còn thấp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn hạn chế. Lợi thế tuyệt đối của Việt Nam là nguồn tài nguyên có sẵn và các điều kiện thuận lợi của đất nước như: vị trí địa lý, khí hậu…
* Ưu tiên những ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao để tận dụng nguồn lao động dồi dào vào xuất khẩu. Khi bắt đầu chiến lược CNH hướng về xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu, trong các yếu tố của quá trình sản xuất, ngoài tài nguyên thiên nhiên thì lao động dồi dào và giá rẻ là một lợi thế lớn đối với Việt Nam. Cùng với vốn đầu tư, lợi thế về lao động nếu được sử dụng triệt để có thể tạo ra những bước phát triển nhanh về kinh tế. Vì vậy bằng việc thiết lập những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động(chủ yếu công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, lắp ráp cho các công ty tư bản nước ngoài), nhờ đó tạo ra nhiều việc làm tăng vị thế cạnh tranh của các ngành hàng xuất khẩu.
* Mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm tận dụng qui mô sản xuất tối ưu. Từ khi mở rộng chiến lược CNH thì địa bàn của các hoạt động xuất khẩu tăng nhanh, đặt mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới tạo ra những quan hệ để xúc tiến xuất khẩu. Trong điều kiện có cạnh tranh gay gắt đối với mặt hàng xuất khẩu vào một nước nhất định, bởi thế cần tập trung xây dựng các mối quan hệ giao lưu buôn bán thân thiện để tăng cường xúc tiến hoạt động xuất khẩu.
Để tăng qui mô tích luỹ vốn cho CCNH,HĐH tất yếu phải mở rộng quan thương.
4. Nhóm giải pháp huy động vốn hỗn hợp cho CNH,HĐH nền kinh tế.
Để đạt được mục tiêuCNH,HĐH nền kinh tế chúng ta cần một lượng vốn đầu tư lớn khoảng 45 tỷ$, dự kiến sẽ tìm được một nửa từ nguồn vốn nước ngoài và phần còn lại sẽ huy đọng trong nước. Đối với nguồn FDI và OAD không còn tăng mạnh như 3 năm trước đây. Cuộc cạnh tranh thu hút nước ngoài đang diễn ra gay gắt giữa các châu á. Mặc khác, chúng ta cũng cần phải sớm nhận ra trên thị trường tài chính quốc tế ngày một phát triển đa dạng các hình thức chuyển dịch vốn đầu tư. Biện pháp đưa ra ở đây là:
* Giải quyết tốt vốn đối ứng.
Đây là vấn đề hiện nay đang gây ra khó khăn cho các dự án phải vay vốn ODA. Vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình dự án, được cam kết từ phía Việt Nam, về nguyên tắc vốn đối ứng ở cấp nào thì cấp đó tự giải quyết, nếu dự án có vốn đầu tư lớn thì cũng đòi hỏi vốn đối ứng lớn điều nên phía Việt Nam thường bị khó khăn trong việc thực hiện vốn đối ứng và một số dự án phải bỏ dở khi Việt Nam chưa có đủ vốn đối ứng.
* Đa dạng hoá phương thức huy động vốn nước ngoài.
Tiếp tục thu hút nguồn FDI nhưng đồng thời cũng chú trọng nhiều hơn tới nguồn ODA, nguồn tín dụng thương mại, kiều hối qua thị trường vốn trong nước và nước ngoài.
- Ngay trong phương thức huy động FDI cũng cần đa dạng hóa các hình thức đầu tư trực tiếp. Mở rộng các hình thức FDI nâng cao chất luợng đầu tư cho các hình thức này.
- Trong hình thức thương mại tín dụng, hiện nay các doanh nghiệp sử dụng vốn nước ngoài tập trung mua hàng trả chậm. Sắp tới chúng ta hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn nươc ngoài nhiề hơn vào hình thức cho thuê tài chính, hình thức vay tổng hợp nợ dài hạn từ các ngân hàng đầu tư nước ngoài chuyên tài trợ theo từngdự án.
- Riêng hình thức vốn uỷ thác đầu tư cũng là nguồn lớn chưa bị kiểm soát, nên chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa nguồn này qua các ngân hàng thương mại các quỹ đầu tư và các công ty quản lý đầu tư.
- Hình thức đầu tư chui cần khuyến khích đăng ký hợp pháp để tiến hành kiểm soát giúp đỡ các nhà đầu tư có điều kiện công khai hợp pháp.
* Hình thành các danh mục kêu gọi sản phẩm đầu tư.
Bao gồm danh mục dự án quốc gia thời kỳ 2001 –2005 và danh mục dự án của ngành, địa phương. Các dự án được lựa chọn đưa vào danh mục phải có sự thống nhất trước về chủ trương và qui hoạch, được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Các bộ, ngành xây dựng và điều chỉnh qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Ngay cả một số ngành mà chúng ta chưa đủ năng lực để làm thì cũng nên huy động vốn trong nước tham gia đầu tư cùng vốn nước ngoài. Đây là danh mục chủ yếu trong thời gian tới để thực hiện đa dạng hoá sở hữu, thực hiện đối với chính sách đa dạng hoá các nguồn vốn.
* Đa phương hoá các đối tác, các đối tượng nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam.
Hiện nay, chúng ta đang huy động vốn ODA từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế – huy động vốn FDI và tín dụng thương mại từ các doanh nghiệp và tổ chức nước ngoài, chúng ta đang có xu hướng thu hút vốn từ các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn tài chính lớn. Nên cần chú trọng thu hút vốn cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhiều nước sao cho các đối tượng này hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam. Muốn làm được điều này chúng ta ngoài việc tạo ra môi trường thu hút đầu tư tốt mà còn phải từng bước tạo ra lòng tin cho các chủ đầu tư, lời nói phải đi đôi với việc làm những gì chúng ta đã hứa hẹn trong luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, là sớm tiến hành qui hoạch đầu tư giữa vốn nước ngoài và vốn trong nước, chỉ rõ cho các chủ đầu tư biết ngành nào nhóm sản phẩm nào chỉ dành vốn trong nước cho CNH,HĐH; ngành nào, nhóm sản phẩm nào là mong muốn có vốn đầu tư nước ngoài.
II. Một số giải pháp phân bổ và sử dụng vốn có hiệu quả phục vụ cho CNH,HĐH.
1. Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
* Một là: đổi mới và bổ sung các văn bản pháp qui về quản lý, điều phối và sử dụng các nguồn ODA. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia quản lý vốn và điều phối vốn ODA, duy trì nguyên tắc chính phủ thống nhất quản lý ODA. Song song với nguyên tắc này được thực hiện thông qua sự phân cấp ra quyết định liên quan tới quản lý điều phối và sử dụng ODA. * Hai là: tăng cường công tác kế hoạch hoá các chương trình, dự án để cân đối nguồn vốn trong nước từ khâu chuẩn bị đầu tư cho tới quá trình thực hiện chương trình, dự án. Để thực hiện công tác này, tất cả các chương trình các dự án khi trình để duyệt ở các cấp phải chỉ rõ nguồn vốn trong nước và phải được bố trí trong các kế hoạch ở cấp tương ứng. Tổ chức hệ thống các cơ quản lý điều phối và sử dụng ODA từ trung ương đến các cấp cơ sở theo chế độ một cửa. Trên cơ sở đó giải quyết thoả đáng những bất hợp lý do việc trong cùng một lĩnh vực và trên cùng một địa bàn lãnh thổ có nhiều nhà tài trợ cùng hoạt động gây trùng lặp viện trợ, lãng phí nguồn lực của chính phủ cũng như nhà tài trợ. Trong phát triển quan hệ đối tác, cần tạo điều kiện cho phía Việt Nam phát huy vai trò làm chủ, chủ động trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA.
*Ba là: tăng cường năng lực tác nghiệp của cán bộ ở các cấp, các đơn vị đầu mối ODA. Trong khuôn khổ các chương trình và dự án, cần tiếp tục đào tạo và huấn luyện đội ngũ cán bộ về công tác quản lý dự án (phân tích, đánh giá dự án, đấu thầu, di dân và tái định cư …) một cách hệ thống đây cũng là biện pháp nhằm giải ngân tốt nguồn ODA.
* Bốn là: tạo ra môi trường để sử dụng phù hợp với công nghệ được chuyển giao. Hầu hết các công nghệ của nước khi bước vào thời kỳ CNH,HĐH đều đã lạc hậu làm cho sản phẩm sản xuất ra không cạnh tranh được với những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, đứng trước thực trạng này chúng ta cần xây dựng cơ sở sản xuất phù hợp, đào tạo cán bộ quản lý công nghệ và công nhân vân hành công nghệ; hiểu rõ quá trình vận hành công nghệ và tuổi đời của công nghệ.
2. Đối với nguồn vốn trong nước
* Thực hiện phân bổ và sử dụng vốn theo kế hoạch.
Phân bổ và sử dụng vốn một cách tiết kiệm chống lãng phí, nhà nước thống nhất qui hoạch phân bổ và sử dụng theo kế hoạch đã định từ trước: trong thời gian nào thì ngành nào được cấp vốn đầu tư và tiến hành sử dụng vốn đó là những công việc gì đều có kế hoạch. Khi vốn đầu tư được cấp xuống đơn vị cần phải thực hiện kiểm tra theo dõi tiến trình sử dụng vốn có đúng mục đích hay không. Kiểm tra lại hiệu quả của dự án mà sẽ thực hiện cấp vốn nếu các kế hoạch tài chính và kế hoạch trả nợ đạt yêu cầu tiến trình thì mới cấp vốn, ngược lại trong trường hợp kế hoạch của dự án sẽ cấp vốn chưa đạt yêu cầu nên loại bỏ ngay những dự án đầu tư kém hiệu quả, chống lãng phí nguồn vốn.
* Thực hiện phân bổ sử dụng vốn theo nhu cầu của cấp bách nhất.
Trong quá trình tiến hành CNH,HĐH thì ngành nào, cũng có nhu vốn lớn để, do đó ngay cùng một lúc thì không thể có đủ được nguồn vốn như vậy để phân bổ hết cho các ngành. Vì thế phải xem xét ngành nào trong giai đoạn nào thì cần được cấp vốn và nhu cầu vốn ở đây là cấp bách nhất trong ngành đó, sau khi đánh giá các yếu tố khách quan như trên rồi mới thực hiện rót vốn cho ngành đó, thực hiện đầu tư có trọng điểm rõ ràng đối với từng ngành, từng địa phương.
* Phân bổ và đưa vốn vào sử dụng cần tránh được những lãng phí không cần thiết.
Trước đây một ngành hay một khu vực nào đó muốn được cấp vốn đầu tư phải trải qua rất nhiều khâu xin vay vốn hoặc cấp vốn từ nhà nước, những khâu này cũng mất nhiều thời gian và chi phí. Khi cấp trên duyệt cấp vốn cũng lại phải qua nhiều nơi thì vốn mới tới được nơi cần đến, thậm chí khi vốn tới nơi thì còn lại có một nửa vì phải mất chi phí “giữa đường” và về tới nơi lại mất thêm chi phí tiếp nhận. Để giải quyết được vấn này thì nên thực hiện cắt bớt những khâu trung gian không cần thiết, nhu cầu vốn của ngành nào địa phương nào thì ngành đó, địa phương đó cấp trực tiếp luôn, đào tạo cán bộ quản lý vốn về trình độ lẫn phẩm chất tiết kiệm và loại trừ cán bộ tham nhũng.
* Vốn trong xây dựng cơ bản luôn là điều đáng quan tâm.
Nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản rất lớn nhưng tiến độ phân bổ vốn chậm và sử dụng trong lĩnh vực này rất lãng phí. Giải quyết được vấn đề này trước hết công tác quản lý xây dựng phải cải thiện đầu tiên chất lượng của nhà quản lý các dự án xây dựng cần được nâng cao, thứ nữa là tiến độ giải phóng mặt cũng cần nhanh chóng, tiếp đó là thực hiện tiến độ giải ngân vốn đầu tư cho ngành này không nên để hiện tượng công trình nằm trờ vốn và vốn trờ công trình như vậy thì rất lãng phí vốn và thời gian.
Kết luận
CNH,HĐH là điểm mấu chốt đối với các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Như đã biết thông qua đề tài này thì chúng ta cần có một nguồn vốn rất lớn để thực hiện được quá trình CNH,HĐH đất nước. Vì thế mà huy động từ đâu và phân bổ ra sao, sử dụng các nguồn vốn như thế nào cho hiệu quả thì qua đề tài này những câu hỏi trên phần nào được tháo gỡ. Để hoàn thiện được quá trình CNH,HĐH, ngoài vấn đề về vốn ra chúng ta còn phải kết hợp tốt với nhiều lĩnh vực khác, nhào lặn ra những mô thức cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tiễn, thúc đẩy CNH,HĐH đi được con đường tắt hợp lý nhất để Việt Nam bắt kịp với nhịp điệu chung của thế giới.
Sau khi thực hiện xong đề tài tôi cũng rút ra được bài học cho riêng mình để góp phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp CNH,HĐH của đất nước. Tuy nhiên, đề tài vẫn rất cần sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Thị Thêu đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Tài liệu tham khảo
Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Tạp chí kinh tế và dự báo.
Tạp chí kinh tế châu á Thái Bình Dương.
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới.
Tạp chí nghiên cứu lý luận.
Tạp chí cộng sản.
Tạp chí chứng khoán Việt Nam.
Tạp chí kinh tế phát triển.
Tạp chí thị trường tài chính.
Báo đầu tư.
Văn kiện đại hội Đảng IX (2001).
Giáo trình kinh tế đầu tư.
Giáo trình kinh tế phát triển.
Dự báo thế kỷ 21.
Kinh tế học các nước đang phát triển.
Giáo trình kinh tế quốc tế.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35360.doc