Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá

Hiện nay ở Thanh Hoá lực lượng lao động, chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, tỷ lệ việc làm thường thấp, trình độ không cao (Thường chỉ tốt nghiệp phổ thông và chưa được đào tạo nghề). Thanh Hoá cần thực hiện một số biện pháp sau nhằm phát triển nguồn nhân lực cho tỉnh: + Thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với giáo dục tiểu học, phổ thông và dạy nghề. + Tăng cường đầu tư của ngân sách tỉnh cho các chương trình giáo dục, đào tạo. Đồng thời tranh thủ, kêu gọi các nguồn viện trợ từ bên ngoài cho việc phát triển giáo dục và đào tạo.

doc92 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên việc tăng nhanh giá trị sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã làm tốc độ tăng giá trị sản xuất của toàn tỉnh đạt tỷ lệ cao. Điều này thể hiện rõ qua bảng chỉ tiêu sau: Bảng 19: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp(%) 6,4 7,8 8,2 4,8 60,9 73 Nguồn : www.thanhhoa.gov.vn Việc sử dụng công nghệ mới tiên tiến đã làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng cao, giá thành rẻ. Vì vậy sản phẩm của các doanh nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường. 1.5. Đóng góp cho ngân sách. Đánh giá về đầu tư nước ngoài trên phương diện đóng góp cho ngân sách nhà nước thì chưa phải là lớn nhưng ở góc độ Thanh Hoá còn là một tỉnh nghèo, tổng thu nhập bình quân đầu người chưa cao thì đóng góp của khu vực nước ngoài vào ngân sách là đáng kể. Theo số liệu của sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá thì đóng góp và ngân sách của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài như sau. Bảng 22: Đóng góp vào ngân sách của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá. Năm 1997 1998 1999 2000 2001 10/2002 Đóng góp (tỷ đồng) 10 12 16,8 22 66 77 Nguồn : Sở Kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá Như vậy cùng với việc gia tăng của các dự án đầu tư nước ngoài vào Thanh Hoá thì đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Nhất là khi các dự án lớn như xi măng Nghi Sơn, mía đường Việt-Đài đi vào hoạt động ổn định, có hiệu quả. 2. Những tồn tại của đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân Như đã phân tích ở trên, trong những năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá ngày càng nhiều và đóng góp ngày càng lớn vào việc phát triển nền kinh tế tỉnh nhà. Tuy nhiên so với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh thì đầu tư nước ngoài còn nghèo nàn và chưa tương xứng. Hiệu quả tổng thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa cao. Số lượng dự án còn ít so với các tỉnh thành trong cả nước. Nhịp độ tăng trưởng tốc độ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút trong những năm vừa qua. Đặc biệt từ 31/01/2001 đến nay số nhà đầu tư nước ngoài vào Thanh Hoá tìm kiếm cơ hội đầu tư ngày càng ít. Cả tỉnh mới chỉ có một dự án vừa được cấp phép ngày 01/10/2002. Thực tế trong thời gian qua tỉnh Thanh Hoá đã rất quan tâm và có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. UBND tỉnh đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư, hỗ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng. Tỉnh cũng đã tiếp xúc trao đổi với các thành phần kinh tế để lắng nghe ý kiến và giải quyết khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp. 2.1. Những tồn tại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá 2.1.1. Số vốn đầu tư nước ngoài thu hút được chưa tương xứng với tiềm năng và chưa phát huy đuợc tiềm năng của Thanh Hoá Với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thanh Hoá tính đến tháng 08/2002 là 460.141.279 USD Thanh Hoá xếp thứ 11 trong cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài và cho tới thời điểm này Thanh Hoá vẫn chưa có dự án đầu tư nào vào lĩnh vực dịch vụ du lịch. So với một số địa phương khác trong cả nước ví dụ như Hà Tây, một tỉnh có diện tích nhỏ hơn (2.147 km2 chỉ bằng 1/5 diện tích của Thanh Hoá) thì tổng số vốn đầu tư nước ngoài của Thanh Hoá chỉ bằng 70%. Dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên vào Hà Tây là vào năm 1992 với số vốn là 245.275USD, nhưng đến năm 2001 số vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Tây đã là 648.293.739 USD. Trong khi đó cho đến hết năm 2001 vốn đầu tư nước ngoài vào Thanh Hoá chỉ là 459.961.279 USD. Số vốn và lĩnh vực đầu tư như vậy chưa xứng với tiềm năng của Thanh Hoá. Không chỉ là một tỉnh đất rộng, người đông, khoáng sản đa dạng (khoáng sản có tới 250 điểm, 42 loại, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá vôi xi măng, đá ốp lát, sét làm xi măng...). Thanh Hoá còn là một tỉnh giàu tiềm năng du lịch với nhiều khu vui chơi giải trí nhưng tất cả vẫn còn chưa được khai thác, dịch vụ du lịch hầu như chưa được đầu tư thích đáng. 2.1.2 Hiệu quả kinh tế xã hội chưa cao Hầu hết các dự án đã và đang hoạt động đều không có lãi. Trong số 5 dự án hiện đang hoạt động thì hầu hết các dự án đều đang gặp khó khăn và thua lỗ, có dự án đang chuẩn bị để rút giấy phép đầu tư. Cụ thể như sau: - Liên doanh Xi măng Nghi Sơn: Dự án được nhanh chóng triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng vào tháng 03/2000. Năm 2000 theo báo cáo của công ty, công ty thua lỗ 16,5 triệu USD. Năm 2001 công ty ước lỗ 8,1 triệu USD. - Liên doanh đường mía Việt Đài: Công suất hoạt động rất thấp. Trong thời gian từ năm 1996-1999 công suất chỉ đạt từ 17-29%. Năm 2000 đạt năng suất cao nhất cũng chỉ là 62%, năm 2001 lầ 51%. Tình hình kinh doanh không ổn định, hiện nhà máy đang gặp nhiều khó khăn do giá đường không ổn định, thời tiết không thuận lợi cho việc phát triển vùng nguyên liệu. - Liên doanh đá ốp lát tự lập Việt Hưng: Đây là đơn vị hoạt động kinh doanh hiện có hiệu quả nhất, công ty sản xuất đá ốp lát chủ yếu để xuất khẩu sang Châu Âu. Doanh thu trung bìhh hàng năm đạt khoảng 10 tỷ đồng. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh sản xuất ván ghép Thanh Luồng: Hiện doanh nghiệp đã ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do gặp nhiều khó khăn về tài chính. Hai bên không còn hợp tác nữa. Thời gian tới sẽ tiến hành kiểm tra đề xuất, báo cáo UBND tỉnh rút giấy phép đầu tư. - Liên doanh TNHH Nam Hoa: Ngành nghề sản xuất của công ty là sản xuất chiếu gối mành bằng tre luồng để xuất khẩu. Dự án đã triển khai xong và đi vào sản xuất nhưng gặp nhiều khó khăn về vốn thị trường nên hiện tại tạm ngừng sản xuất. Tính tới thời điểm hiện nay thì Thanh Hoá đã có tới 6 dự án bị rút giấy phép đầu tư trước thời hạn với số vốn đăng ký là 16.760.900USD chiếm 3,64%. So sánh với tình hình triển khai và hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài của Hà Tây thì hoạt động của đầu tư nước ngoài ở Thanh Hoá quả là kém hiệu quả. Trong khi Hà Tây có tới 42 dự án được cấp phép và trong số 24 dự án đã đi vào hoạt động thì cũng chỉ có 5 dự án bị rút giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 26.000.000 USD. Chính vì hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa cao nên đóng góp cho ngân sách không nhiều. Năm 2001 Hà Tây đóng góp cho ngân sách nhà nước tới 160 tỷ đồng thì Thanh Hoá chỉ có 77 tỷ, một con số quá nhỏ bé so với những tiềm năng vốn có của Thanh Hoá. Như vậy hiệu quả của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Thanh chưa cao. Ngoài các dự án đã bị rút giấy phép thì các dự án đang hoạt động đều đang gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh doanh sản xuất thua lỗ, tỷ lệ doanh thu trên vốn đầu tư quá thấp, số lao động sử dụng cũng còn rất khiêm tốn. 2.1.3 Một số tồn tại khác - Đầu tư nước ngoài tập trung vào một số địa bàn trong tỉnh đã tạo sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các huyện thị trong tỉnh. Như đã phân tích ở vùng cơ cấu lãnh thổ, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu đầu tư vào các huyện thị, các nơi có điều kiện về giao thông, gần các khu trung tâm kinh tế, cơ sở hạ tầng tương đối đảm bảo.. còn các nơi có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn lại không thu hút được dự án đầu tư nước ngoài. Do vậy cùng với tốc độ tăng trưởng của đầu tư nước ngoài thì khoảng cách phát triển giữa các khu vực trong tỉnh ngày càng lớn. - Một số dự án đầu tư nước ngoài không tuân thủ các quy định của nhà nước về việc đảm bảo môi trường, đưa công nghệ cũ lạc hậu vào sản xuất, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân trong khu vực (trường hợp liên doanh sản xuất bột màu Bircromat- đã bị rút giấy phép đầu tư 20/09/1999). - Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài các tư tưởng tư bản, văn hoá phương tây cũng du nhập vào. Trong đó có nhiều tư tưởng tiến bộ và cũng nhiều lối sống không phù hợp với truyền thống của Việt Nam. Đầu tư nước ngoài tăng cũng kéo theo sự gia tăng của các tệ nạn xã hội ở Thanh Hoá. 2.2. Nguyên nhân Sở dĩ còn nhiều tồn tại trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là do một nguyên nhân chủ yếu sau: - Là một tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam, nhưng lại xa các trung tâm kinh tế, xa cảng biển xuất khẩu truyền thống, xa sân bay quốc tế, dẫn đến có nhiều bất lợi trong giao lưu trao đổi hàng hoá, nhất là xuất khẩu. - Hạ tầng cơ sở dù đã được cải thiện nhiều, đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng các khu Công nghiệp Lễ Môn, Nghi Sơn ...nhưng những cải thiện đó mới chỉ rõ nét ở các trung tâm đô thị lớn và dọc theo đường quốc lộ. Trong khi đó đặc thù của tỉnh các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì thường có rủi ro cao vì phụ thuộc rất nhiều vào việc phát triển vùng nguyên liệu, nhà đầu tư phải xây dựng các nhà máy ở vùng trung du miền núi do đó cần đầu tư rất lớn cho hạ tầng mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Mặt khác do không có cảng nước sâu nên Thanh Hoá chưa hấp dẫn được các dự án công nghiệp nặng và công nghiệp công nghệ cao vào các khu công nghiệp. - Về Môi trường đầu tư: Dù đã có nhiều cải cách nhưng vẫn chưa thực sự thông thoáng, môi trường pháp lý và tâm lý xã hội chưa thực sự được giải toả, trong thực tế vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế quốc dân còn nhiều thiệt thòi trong việc tham gia đấu thầu, tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi của nhà nước và trong việc thuê mặt bằng, đất đai để tổ chức kinh doanh. Các chính sách ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp Nghi Sơn, Lễ Môn dù được cải tiến nhiều vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, tiêu chuẩn được hưởng ưu đãi quá cao ( ví dụ : đầu tư vào khu công nghiệp Lễ Môn, dự án đầu tư phải đạt một trong các điều kiện sau: xuất đầu tư đạt 20 tỷ đồng /ha, sử dụng lao động địa phương bình quân 250 lao động/ ha trở lên...) công tác xúc tiến đầu tư, đặc biệt là việc chuẩn bị dự án đầu tư chưa được quan tâm đúng mức. - Về thủ tục hành chính : Thực hiện quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật khuyến khích đầu tư trong nước và các văn bản hướng dẫn của chính phủ, các bộ ngành trung ương, thủ tục cấp giấy phép đầu tư và thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư đã có những tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Việc thực hiện chính sách trong đầu tư vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong tỉnh. Trong công tác quy hoạch, cấp đất, thẩm định, cấp phép đầu tư.... còn có những khó khăn và chậm trễ. Cần phải có những quy định cụ thể về trách nhiệm của từng cấp, từng ngành trong việc giải quyết các thủ tục liên quan đến đầu tư. - Cơ chế vận động, xúc tiến đầu tư và chính sách khuyến khích đầu tư: Cần quan tâm đến hoạt động vận động xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư. Nhận thức, quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa thực sự thống nhất và quán triệt ở các cấp, các ngành. Các cấp các ngành chưa thực sự quan tâm đúng mức, vì vậy cơ chế và chính sách thúc đẩy hoạt động này chưa được cụ thể, đặc biệt là cơ chế cho hoạt động, xúc tiến đầu tư. Một số vấn đề nhà đầu tư cần biết rõ thì chúng ta lại chưa có quy định cụ thể, vị dụ giá thuê đất bao nhiêu để tính toán xây dựng dự án. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa thực sự chặt chẽ nên chậm trễ trong việc trả lời các yêu cầu của nhà đầu tư. Các ngành các địa phương, các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc xây dựng các dự án đầu tư có chất lượng tốt, phù hợp với tiềm năng và khả năng của mình. Tình trạng chủ yếu hiện nay là đơn vị nào có quan hệ với khách nước ngoài thì đứng ra đầu mối, đàm phán về dự án đầu tư, vì vậy vừa mất thời gian lại vừa không hiệu quả vì bản thân đơn vị đó chưa hiểu biết nhiều về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, xúc tiến đầu tư nước ngoài vừa thiếu vừa yếu cả về ngoại ngữ cũng như năng lực chuyên môn, chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra khi tiếp xúc làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp trong tỉnh yếu cả về năng lực tài chính và nhân lực, chưa được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài. Lực lượng lao động của tỉnh đông nhưng số lao động có trình độ cao và tay nghề cao còn ít, không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì hiện nay yếu tố nhân công rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh trong hợp tác đầu tư nước ngoài . Về phía nhà nước, chính sách phân cấp đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa tạo ra được sự chủ động của cấp tỉnh, ví dụ như theo quy định tại NĐ 24 hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài thì những dự án thuộc thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và đầu tư thì phải nộp hồ sơ lên bộ, trên bộ khi tiếp nhận hồ sơ thường giới thiệu nhà đầu tư vào các khu công nghiệp nhằm lấp đầy chúng. Thêm vào đó một số chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng tới môi trường đầu tư: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ tồn tại dưới hình thức công ty TNHH; doanh nghiệp sinh ra phải gắn với dự án; có sự phân biệt giá, phí, lệ phí với các nhà đầu tư nước ngoài; việc xuất nhập cảnh, lao động của người nước ngoài còn tương đối khó khăn; chưa có sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp nhà nước trong việc tiếp cận các cơ hội kinh doanh. Mặt khác trong thời gian vừa qua do khủng hoảng tài chính tiền tệ nhà đầu tư bị thiệt hại nhiều, thị trường bị ảnh hưởng nên không đủ khả năng tiếp tục đầu tư. Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá I. các cơ sở lý luận và yêu cầu của việc xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá 1. Các cơ sở xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được xây dựng trên cơ sở chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như chính sách kinh tế – xã hội của nhà nước và phải là một bộ phận không tách rời của các chính sách kinh tế xã hội của Thanh Hoá. Chính sách đầu tư nước ngoài của một tỉnh là sự cụ thể hoá chính sách đầu tư nước ngoài của cả nước trong điều kiện cụ thể của một tỉnh. Nó phải đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước, bảo đảm hiệu quả hoạt động của đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước. Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chính sách thuộc hệ thống chính sách kinh tế – xã hội, suy cho cùng là thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước, của tỉnh, do đó nó phải là một bộ phận không tách rời của chính sách kinh tế – xã hội của tỉnh. Nó có quan hệ mật thiết với chính sách đầu tư và chính sách kinh tế đối ngoại. Như vậy chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được xây dựng trên cơ sở: - Pháp luật về đầu tư nước ngoài hiện hành, chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Chính sách đầu tư nước ngoài không được vượt quá những giới hạn mà chính sách của nhà nước và pháp luật đã xác định. - Mục tiêu, biện pháp của chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của một tỉnh phải được xây dựng dựa trên mục tiêu, biện pháp trong chính sách kinh tế – xã hội của tỉnh. Đồng thời chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng như thế nào là dựa vào cách nhìn nhận về vai trò tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nhà hoặch định chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài . Quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tác động trực tiếp đến việc xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn nhận đúng vai trò của đầu tư nước ngoài, thấy những mặt tích cực của nó sẽ xây dựng nên một chính sách thông thoáng hơn, và ngược lại sẽ hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần phải quán triệt quan điểm : Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng, không thể thiếu cho đầu tư phát triển vì tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ vai trò, đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Thanh Hoá mà cần phải quán triệt quan điểm trên trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ công chức, mỗi người dân. Có như vậy mỗi người dân mới nhiệt tình đón nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, mới tạo điều kiện cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thanh Hoá. 2. Các cơ sở khác trong xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1. Vận dụng quan điểm của marketing trong đầu tư. Quan hệ đầu tư thực chất là quan hệ cung cầu về vốn đầu tư cho phát triển. Ngày nay trong quan hệ này cầu lớn hơn cung rất nhiều. Vì vậy sự cạnh tranh đang diễn ra gay gắt giữa các nước, xét trên bình diện quốc tế, và giữa các tỉnh, xét trong bình diện quốc gia trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó tỉnh nào có tiềm năng, môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, có hoạt động xúc tiến đầu tư mạnh thì sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư. Và ngược lại tỉnh nào ít chú trọng đến hoạt động xúc tiến đầu tư thì ít được các nhà đầu tư nước ngoài biết đến và lượng vốn từ đầu tư nước ngoài sẽ không cao. Từ đó Thanh Hoá cần phải chú ý một số vấn đề sau: - Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa dựa trên tiềm năng, vừa dựa trên nhu cầu của các nhà đầu tư. Cần phải hiểu rõ mục tiêu của nhà đầu tư khi họ đầu tư vào Thanh Hoá, thường thì nhà đầu tư nhằm vào nguồn lao động dồi dào và nhằm khai thác tài nguyên, sử dụng nguồn nguyên liệu của tỉnh Thanh Hoá. Nhà đầu tư đầu tư vào Thanh Hoá it khi vì mục tiêu xuất khẩu. Chính vì vậy khi thực hiện chính sách đầu tư nên hướng tới những cái nhà đầu tư có khả năng sẽ đầu tư vào trên cơ sở xem xét cái mà tỉnh mình có và cái mà nhà đầu tư cần. - Đồng thời phải ý thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư. Cũng như trong hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong thương mại, hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy đầu tư. Xúc tiến đầu tư giúp cho nhà đầu tư hiểu rõ môi trường đầu tư, tiềm năng và thế mạnh cũng như thông thạo hơn khi làm thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư. Hoạt động này tạo điều kiện thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Thanh Hoá nhiều hơn. - Cùng với việc xúc tiến đầu tư thì Đảng bộ, UBND tỉnh Thanh Hoá cũng phải tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao so với các tỉnh khác. 2.2. Chính sách đầu tư nước ngoài phải được xây dựng trên cơ sở phát huy tiềm năng của Thanh Hoá đồng thời phải tranh thủ những điều kiện do bên ngoài mang lại. Việc xây dựng chính sách đầu tư nước ngoài phải dựa trên lợi thế của tỉnh mình nhưng cũng phải biết kết hợp với điều kiện kinh tế xã hội bên ngoài, phải biết kết hợp sức mạnh nội lực và cả ngoại lực. 2.3. Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài phải có tính khả thi Chính sách đầu tư trực tiếp phải có tính thực tiễn, xây dựng ra là để thực thi được. Vì vậy khi xây dựng chính sách này phải xem xét hết mọi vấn đề có liên quan. Phải xét tới thực trạng, xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đánh giá đúng và đầy đủ cơ hội, thách thức thuận lợi và khó khăn. Cụ thể phải xem xét : - Địa điểm đầu tư: ảnh hưởng của địa điểm đến sự thuận lợi và chi phí trong cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Chính sách kinh tế tại khu vực hoạt động của dự án ( đặc biệt là chính sách khuyến khích đầu tư và các chính sách tài chính có liên quan). - Cơ sở hạ tầng như thế nào : Cần phải xét đến các yếu tố như nước, điện, hệ thống xử lý chất thải, thông tin liên lạc và hệ thống giao thông vận tải. - Môi trường kinh tế- xã hội: Trình độ phát triển kinh tế của địa phương, luật lệ, phong tục tập quán và các vấn đề an ninh? Bộ máy tổ chức hành chính của địa phương, trình độ của người lao động? Đây cũng là những vấn đề cơ bản mà nhà đầu tư thường đặt ra khi chọn địa điểm đầu tư. Những người xây dựng và thực hiện chính sách đầu tư vì thế cần phải tìm cách trả lời tốt nhất cho nhà đầu tư nói chung, cho nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Có như vậy thì Thanh Hoá mới có thể hấp dẫn, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay thách thức lớn nhất đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá là: Thiếu các nguồn lực để thực thi các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, Thanh Hóa phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với các tỉnh, thành khác trong đồng bằng Bắc Bộ. 2.4. Đặt chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh trong tương quan với chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tỉnh khác. Xuất phát từ thực tế Thanh Hoá phải đối mặt với cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với các tỉnh khác, vì vậy để thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải xem xét tính toán tới các đối thủ cạnh tranh. Yêu cầu này đòi hỏi khi xây dựng các chính sách trong đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải xem xét chính sách của các tỉnh khác nhất là các chính sách ưu đãi, ưu tiên, hỗ trợ. Điều này sẽ giúp chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thanh Hoá có tính cạnh tranh cao. 2.5. Phải chú trọng tới lợi ích kinh tế – xã hội, lợi ích lâu dài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải gắn với việc phát triển kinh tế lâu dài. Thanh Hoá khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng không có nghĩa là chấp nhận nó bằng mọi giá, mà phải có các biện pháp quản lý để hạn chế những tiêu cực có thể mang lại từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất phát từ yêu cầu này khi nghiên cứu cấp phép đầu tư Thanh Hoá phải chú trọng, coi hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn hàng đầu. II. Nhu cầu và mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thanh Hóa trong thời gian tới . 1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hoá đến năm 2005 - Phương hướng chung: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt bình quân của cả nước trên tất cả các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực; ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Một số chỉ tiêu chủ yếu: a, Các chỉ tiêu về kinh tế: Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt 10% trở lên. GDP bình quân đầu người năm 2005: 460 USD trở lên. Tốc độ tăng GDP nông, lâm, ngư nghiệp: 6,2%/năm trở lên. Tốc độ tăng GDP công nghiệp - xây dựng: 16,1%/năm trở lên. Tốc độ tăng GDP các ngành dịch vụ: 8,6%/năm trở lên. Cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP năm 2005: 33,3% - 33,0% - 33,7%. Sản lượng lương thực (quy thóc) năm 2005: 1,5 triệu tấn. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 160 triệu USD năm 2005, mức tăng bình quân hàng năm 20% trở lên. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm: 30.000 tỷ đồng. b, Các chỉ tiêu về xã hội đến năm 2005: Giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,5%o; tỉ lệ tăng dân số: 1,1%. 70% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS. Giải quyết việc làm 5 năm: 185.000 người . Cơ bản xoá hết hộ đói, giảm hộ nghèo còn 5% (theo tiêu chí năm 1999) . 80% dân số nông thôn dùng nước sạch. Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 23%. Tỉ lệ lao động được đào tạo: 25% trở lên. Cùng với các chỉ tiêu đặt ra như trên Thanh Hoá còn xây dựng hệ thống các chương trình phát triển kinh tế – xã hội trọng yếu như: Chương trình phát triển công nghiệp và tiêu thủ công nghiệp, chương trình phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá, chương trình phát triển hàng xuất khẩu, chương trình phát triển du lịch dịch vụ... 2. Nhu cầu về vốn. Trên cơ sở xác định mục tiêu phát triển kinh tế như trên, Thanh Hoá đã xây dựng danh mục các dự án đầu tư trong giai đoạn 2001-2005 với tổng vốn đầu tư trong các lĩnh vực như sau : Bảng 23: Dự án kêu gọi đầu tư theo lĩnh vực Lĩnh vực dự án đầu tư Số dự án Số vốn (tỷ đồng) Nông, lâm, ngư nghiệp 13 2.807 Công nghiệp 28 36.435 Thương mại 8 1.094 Giao thông 11 3.744 Điện 8 4.950 Thuỷ lợi 8 7.626 Ytế- giáo dục 8 1.770 Văn hoá - xã hội 3 143 Xoá đói giảm nghèo 3 143 Tổng 90 60.344 Nguồn : www.thanhhoa.gov.vn Trong đó có các dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Bảng 23: Dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài theo lĩnh vực Lĩnh vực dự án đầu tư Số dự án Số vốn (triệu USD) Nông, lâm, ngư nghiệp 12 58,5 Thương mại-du lịch 7 74,5 Công nghiệp 10 66,8 Cơ sở hạ tâng 4 150,0 Tổng 33 349,8 Nguồn : Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá. Như vậy trong giai đoạn này Thanh Hoá cần khoảng 62.344 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Nhà nước đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài vào 33 dự án với số vốn là 349,8 triệu USD (khoảng 5.250 tỷ đồng). Trong đó nguồn vốn huy động chỉ có thể từ: Ngân sách, vay của dân, Liên doanh, ODA. 3. Mục tiêu và phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên những tiềm năng, lợi thế của Thanh Hoá cũng như những cơ hội cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thanh Hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thanh Hoá, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm hàng đầu. Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhưng tỉnh khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ, du lịch. Trong công nghiệp hướng đầu tư mạnh sẽ là các dự án khai thác sử dụng tiềm năng của tỉnh như các ngành công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, lâm sản và các ngành công nghiệp xây dựng, cơ khí sửa chữa, dầu khí. Trong thời gian tới Thanh Hoá sẽ ưu tiên thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, Trong đó với mỗi khu công nghiệp sẽ có chính sách đầu tư cụ thể vào các lĩnh vực cụ thể. Trong thời gian tới Thanh Hoá sẽ tích cực thu hút đầu tư nước ngoài từ các đối tác truyền thống là các nước Châu á như: Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc, đồng thời tỉnh cũng chủ trương đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút đầu tư nước ngoài từ các nước Châu Âu, Châu Mỹ....Tỉnh cũng sẽ tăng cường hợp tác giao lưu trong lĩnh vực đầu tư với các tỉnh bạn từ đó học hỏi được cách thu hút, quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. III. Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên cơ sở thực trạng kinh tế xã hội, thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, những thành công và tồn tại trong thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguyên nhân của những tồn tại đó. Thông qua học hỏi kinh nghiệm của một số tỉnh thành công trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở những căn cứ xây dựng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, những cơ hội và thách thức với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá nói riêng, cả nước nói chung. Có thể đưa ra một số giải pháp sau nhằm thu hút hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thanh Hoá. 1. Chính sách về đất đai. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn của môi trường đầu tư là chính sách đất đai. Đất đai chính là nơi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra, chi phí để có được quyền sử dụng đất luôn chiếm một phần lớn trong tổng chi phí của dự án. Chính sách đất đai luôn ảnh hưởng tới nhiều vấn đề của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (giá thành sản phẩm, thời gian hoạt động của dự án...) Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cải tiến trong chính sách đất đai nói chung trong chính sách đầu tư nước ngoài nói riêng. Hiện nay chính sách đất đai của chúng ta chỉ thừa nhận một hình thức sở hữu duy nhất đối với đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Các chủ thể khác chỉ có thể có quyền sử dụng đất bằng con đường nhà nước cho thuê, giao đất, nhận chuyển nhượng, thuê lại của người khác. Đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam cần thuê đất để sử dụng thì phải thuê đất của nhà nước hoặc liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam có quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất. Việc có đất bằng cách thuê thì đơn giản cho nhà đầu tư hơn vì không phải tiến hành đền bù đất, giải phóng mặt bằng, Chỉ cần hai bên định giá đất góp vốn liên doanh rồi thực hiện một số thủ tục pháp lý cần thiết thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên cách này cũng có nhiều bất lợi vì thường giá trị quyền sử dụng đất thường được định giá rất cao và không phải lúc nào nhà đầu tư nước ngoài cũng tìm được đối tác muốn liên doanh. Theo Sở Kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá thì trong thời gian tới Thanh Hoá dự kiến sẽ phê duyệt chính sách đất đai như sau: Thanh Hoá chủ trương miễn giảm tiền thuê đất xuống mức tối thiểu, nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài giảm được chi phí và có thể hoặch toán được chính xác giá phí. Tránh tình trạng như hiện nay, không có một khung giá thuê đất chuẩn, nhà đầu tư nước ngoài đôi khi không thể nào hoặch toán để xây dựng dự án. Chính vì thế chính sách đất đai của Thanh Hoá có xu hướng đưa ra biểu giá thuê đất chính xác với mức giá thấp nhất. * Giá thuê đất: căn cứ theo quyết định 189/2000/QĐ-BTC cuả Bộ tài chính để khuyến khích và ưu đãi đầu tư tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư vào Thanh Hoá, Sở KH và ĐTđề nghị quy định giá thuê đất ở mức thấp nhất của quyết định trên và không xét các yếu tố về vị trí và kết cấu hạ tầng. Cụ thể : + Giá thuê đất tại các khu công nghiệp Lễ Môn, Nghi Sơn thực hiện theo quyết định số 2462/2000/QĐ-UB ngày 09/10/2000 và quyết định số 975/2002/QĐ-UB ngày 03/04/2002 của UBND tỉnh Thanh Hoá . + Giá thuê đất tại các khu đô thị : Tại thành phố Thanh Hoá: 0,35USD/m2/năm ( Khung giá đất của Bộ tài chính quy định là từ 0,35- 4,20 USD/m2/năm, nhân với các vị trí và kết cấu hạ tầng). Tại thị xã Bỉm Sơn, Sầm Sơn và các thị trấn đồng bằng : 0,18 USD/m2/năm( Khung giá đất của Bộ tài chính quy định là 0,18-2,16 USD/m2/năm, nhân với các vị trí và kết cấu hạ tầng). + Giá thuê đất không thuộc thành phố Thanh Hoá, hai thị xã Bỉm Sơn, Sầm Sơn và các thị trấn đồng bằng : Tại các xã đồng bằng và thị trấn thuộc 11 huyện miền núi : 0,6 USD/m2/năm( Khung giá đất của Bộ tài chính quy định là 0,06-0,36 USD/m2/năm, nhân với các vị trí và kết cấu hạ tầng). Tại các xã trung du: 0,03 USD/m2/năm( Khung giá đất của Bộ tài chính quy định là 0,03-0,18 USD/m2/năm, nhân với các vị trí và kết cấu hạ tầng). Không thu tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư tại các khu vực: Đất không thuộc khu đô thị hiện chưa phải là đất khu dân cư, không phải là đất chuyên dùng mà đất đo nếu có đầu tư cải tạo mới có thể sử dụng được vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản ; đất tại các vùng núi đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng. (Khung giá đất bộ tài chính quy định là 30USD/ha/năm) + Giá thuê mặt nước sông, hồ vịnh : 75USD/ha/năm. + Giá thuê mặt nước biển : 150USD/Km2/năm. * Miễn giảm tiền thuê đất: + Các dự án đầu tư vào 11 huyện miền núi và các xã miền núi thuộc các huyện miền xuôi, được miễn tiền thuê đất 11 năm kể từ khi xây dựng cơ bản hoàn thành và giảm tiền thuê đất 50% trong 05 năm tiếp theo. + Các dự án đầu tư vào các huyện dồng bằng và thị xã Bỉm Sơn, Sầm Sơn được miễn tiền thuê đất trong 7 năm kể từ khi xây dựng cơ bản hoàn thành và giảm 50%tiền thuê đất trong 5 năm tiếp theo. + Các dự án đầu tư vào Thanh Hoá được miễn tiền thuê đất trong 05 năm kể từ khi xây dựng cơ bản hoàn thành và giảm 20% tiền thuê đất trong 3 năm tiếp theo. + Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhà ở cho công nhân bên ngoài hàng rào nhà máy được miễn tiền thuê đất. * Chính sách về đền bù và giải phóng mặt bằng : + Tỉnh Thanh Hoá cam kết đảm bảo tổ chức việc đền bù và giải phóng mặt bằng, tiến hành các thủ tục giao đất và cho thuê đất đáp ứng tiến độ của dự án đầu tư. + Đối với diện tích thuê đất là đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, ngân sách tỉnh hỗ trợ 25% kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng. Trên đây là chính sách đất đai mà Thanh Hoá dự kiến sẽ duyệt trong thời gian tới. Có thể nói chính sách đất đai này đã đáp ứng được phần lớn yêu cầu hiện tại. Đã có biểu giá thuê đất cụ thể, có chính sách giải phóng mặt bằng cụ thể.... Nhưng vẫn còn những điểm chưa thực sự cải tiến. Cả chính sách đất đai hiện nay và chính sách đất đai mà Thanh Hoá dự kiến sẽ phê duyệt sắp tới đêù không đề cập đến việc giải phóng mặt bằng như thế nào. Hiện nay việc đền bù giải phóng mặt bằng vừa tốn kém vừa là khâu quyết định doanh nghiệp có được thuê đất hay không, và quyền quyết định cho thuê đất hay không lại không thuộc về phía tỉnh. ở Thanh Hoá trong các cụm khu công nghiệp vừa được quy hoạch cũng như các cụm khu công nghiệp cũng như ngoài cụm khu công nghiệp thì việc mà nhà đầu tư phải làm để có quyền sử dụng đất là thoả thuận đền bù giải phóng mặt bằng với dân. Đây thực sự là công việc khó khăn tốn kém cho nhà đâu tư. Mặt khác với cơ chế đất đai đang được thực hiện ở Thanh Hoá, thì người dân xét về thực chất lại là người quyết định có cho thuê đất hay không. Vì vậy cơ hội được thuê đất của nhà đầu tư là ít và nếu được thì chi phí sẽ rất cao. Để chính sách đất đai thực sự là yếu tố thúc đẩy chứ không phải kìm hãm đầu tư nước ngoài thì trong thời gian tới chính sách đất Thanh Hoá dự kiến phê duyệt cần phải bổ sung, điều chỉnh theo hướng: Thực hiện cơ chế mới trong việc giải phóng mặt bằng : Đối với đất trong cụm khu công nghiệp thì tỉnh cần ấn định mức đền bù giải phóng mặt bằng, mức tiền này phải được ấn định cho hợp lý, vừa đảm bảo quyền lợi cho dân vừa ở mức mà nhà đầu tư có thể chấp nhận được, khi dự án được cấp giấy phép đầu tư thì tỉnh đứng ra thu hồi đất, doanh nghiệp có vốn đầu tư sẽ đứng ra trả tiền đền bù cho dân. Việc thu hồi có thể được tiến hành theo từng lô vừa đảm bảo đất đai vẫn được khai thác sử dụng tốt. Tuy nhiên đối với từng cụm, khu công nghiệp cần thu hồi toàn bộ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng cho toàn cụm, toàn khu. Đối với đất ngoài cụm, khu công nghiệp, khi dự án đã thẩm định xong chỉ còn khâu thuê đất thì UBND tỉnh cần đóng vai trò quan trọng trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư. Khi gía đền bù đã hợp lý mà dân vẫn không chấp nhận thì thì UBND tỉnh phải có biện pháp cương quyết, cưỡng chế thu hồi (Việc này được luật đất đai cho phép thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư khi chúng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép). Trong trường hợp quá gay gắt, nhà nước có thể thực hiện đổi đất cho dân tức là thu hồi đất cho dự án, rồi giao đất thuộc quỹ của địa phương cho dân, hoặc thuyết phục hộ dân không muốn đổi đất cho hộ dân có nhu cầu nhận tiền đền bù. Cùng với việc thu hồi đất của dân, doanh nghiệp cũng cần tạo điều kiện giúp nhân dân ổn định và cải thiện cuộc sống. Doanh nghiệp có thể thu hút lao động vào làm việc tại doanh nghiệp lâu dài, tạo điều kiện cho các hộ ven khu công nghiệp cung cấp một số dịch vụ cho doanh nghiệp.... Trên thực tế việc thực hiện chính sách đất đai liên quan tới lợi ích của nhiều chủ thể mà không thống nhất nhau cho nên việc thực hiện chính sách đất đai gặp rất nhiều khó khăn, không chỉ người dân mà các cấp chính quyền, các ngành nhất là các cấp cơ sở thường gây khó dễ cho nhà đầu tư. Vì vậy bên cạnh việc ban hành chính sách tỉnh cũng cần tổ chức chỉ đạo sát sao, nghiêm trị các hành vi cản trở thực hiện chính sách, gây phiền hà sách nhiễu các nhà đầu tư. 2. Chính sách phát triển sơ sở hạ tầng 2.1 Chính sách phát triển cụm, khu công nghiệp. Thường thì cụm khu công nghiệp là nơi thu hút nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng ở Thanh Hoá thì cho đến thời điểm hiện nay có rất ít dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì Thanh Hoá không những chưa có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp mà cơ sở hạ tầng ở khu công nghiệp còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trong thời gian tới Thanh Hoá cần chú trọng những việc sau: - Đẩy nhanh tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau, BTO, BOT,BT… - Cần có chính sách ưu tiên cho các dự án ở cụm khu công nghiệp. Hiện nay, Thanh Hoá đã có chính sách đầu tư cụ thể vào từng khhu công nghiệp nhưng còn rất chung chung và chưa thực sự khuyến khích đầu tư nước ngoài. Cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp còn chưa được quy hoạch phát triển . Có một số dự án xây dựng cải tạo khu công nghiệp nhưng chưa sát với thực tế, chưa có vốn để thực thi. 2.1 Cơ sở hạ tầng khác. Ngoài ra Thanh Hóa còn phải chú trọng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng khác như: Điện, nước, bưu chính viễn thông, hệ thống đường xá cho đồng bộ, tương xứng, làm điều kiện cho phát triển kinh tế. Như hệ thống bưu chính viễn thông hiện nay, cần phải chú trọng phát triển hiện đại hoá nhất là tại các khu vực trọng điểm. Phủ rộng vùng phủ sóng thông tin di động dọc tuyến quốc lộ 1A, vùng mía đường Lam Sơn, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Thiệu Hoá. Lắp thêm điện thoại thẻ, phát triển thêm các dịch vụ mới như internet....đồng thời phải nâng cao hiệu quả của các điểm cung cấp dịch vụ bưu điện, mở rộng địa bàn phục vụ viễn thông xuống các xã huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa. Giao thông vận tải phải được nâng cấp, nhất là các tuyến đường quốc lộ và các trục đường tỉnh lộ chính nối Thanh Hoá với các vùng đồng bằng. Phát triển mạng lưới bến cảng kho tàng. Cảng tổng hợp Nghi Sơn phải được xây dựng đúng kỹ thuật và đảm bảo lộ trình. Hệ thống ngân hàng cũng phải nâng cấp, đảm bảo có thể thực hiện được các nghiệp vụ trong thanh toán quốc tế, mở rộng cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư. 3. Cải cách hành chính - Thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính trong việc cấp giấy phép đầu tư ở Thanh Hoá thực tế được thực hiện theo cơ chế một cửa, tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn có nhiều điểm tồn tại cần phải khắc phục. + Thủ tục hậu cấp phép chưa thể hiện tính một cửa. Vì các đầu mối quản lý hậu cấp phép (Sở địa chính, sở xây dựng....) chưa được phối hợp bởi một đầu mối để có thể giải quyết tốt nhất các các yêu cầu liên quan của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Một số thủ tục chưa được xác định cụ thể, tránh nhiệm của cán bộ cũng chưa được trong việc thực hiện thủ tục hành chính cũng chưa được xác định phân rõ ràng. Thanh Hoá cần cải cách thủ tục hành chính ở một số điểm sau: + Cần xác định rõ một cơ quan làm đầu mối phối hợp giải quyết mọi vấn đề liên quan tới việc cấp phép và triển khai thực hiện dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cơ quan quản lý phù hợp nhất là Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá. + Xây dựng, bổ sung bản quy chế “một cửa”những thủ tục hành chính liên quan khác mà chưa được quy định như thủ tục đánh giá tác động môi trường, hiệu quả xã hội của dự án.... + Xác định rõ trách nhiệm của cán bộ công nhân viên chức, của các sơ quan ban ngành trong việc thực hiện các thủ tục có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Tổ chức tốt bộ máy hành chính. Để thực hiện tốt mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiệm vụ đặt ra cho công tác quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất nặng nề, bao gồm hàng loạt các công việc như: xây dựng, quy hoạch các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hoạt động thực thi nó, hoạt động tổ chức thực thi nó; hoạt động quản lý sau đầu tư.... Tuy nhiên hiện nay việc phối hợp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các cơ quan chức năng chưa thực sự đồng bộ. Vì vậy Thanh Hoá cần: Hoặc thành lập một ban thuộc sở kế hoạch và đầu tư chuyên thực hiện các công việc liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước nước ngoài: cấp phép đầu tư, vận động xúc tiến đầu tư, xây dựng và tổ chức thực thi chính sách, quy hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển hạ tầng cụm, khu công nghiệp. Riêng việc quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp vẫn do ban quản lý các khu công nghiệp thực hiện. Hoặc phân chia nhiệm vụ có sự phối hợp công tác giữa Ban quản lý các khu công nghiệp và Sở Kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá trong việc thực hiện các công việc quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên. Để đáp ứng tốt nhiệm vụ trong tình hình mới cần phải bồi dưỡng nâng cao trình độ, khả năng thực hiện nhiệm vụ cho các cán bộ công chức trực tiếp thực hiện các công việc quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó chú trọng tới các kiến thức về Pháp luật, chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, nghiệp vụ vận động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4. Chính sách hỗ trợ ưu đãi đầu tư. Chính sách hỗ trợ ưu đãi đầu tư bao gồm chính sách ưu đãi về tiền thuê đất, các loại thuế, phí, lệ phí, chính sách hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ trong đào tạo tuyển dụng, hỗ trợ thông tin... Thanh Hoá cần phải xác định rõ quan điểm trong xây dựng chính sách ưu đãi là đảm bảo sức cạnh tranh ở môi trường đầu tư của mình so với các tỉnh khác, đảm bảo tuân thủ những quy định này của nhà nước nhất là trong các giới hạn và phạm vi các ưu đãi trong điều kiện và khả năng cho phép của tỉnh. Việc ưu đãi và hỗ trợ cũng phải căn cứ vào các hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án đem lại và mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong từng giai đoạn. Hiện tại Thanh Hoá chưa có một chính sách thu hút đầu tư cụ thể nào, cũng đồng thời chưa có những ưu đãi khuyến khích nhà đầu tư. Việc đầu tư nước ngoài ở Thanh Hoá là hoàn toàn chỉ dựa vào luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Trong khi đó các tỉnh khác thì đã xây dựng được các chính sách ưu đãi và có tính cạnh tranh cao trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dù là ở các mức độ khác nhau. So sánh với một số tỉnh khác trong đồng bằng Bắc Bộ thì quả thật chính sách đầu tư nước ngoài chưa thể hiện những ưu đãi hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bảng 23: Bảng so sánh những ưu đãi hỗ trợ của Thanh Hoá và Hà Tây, Vĩnh Phúc Các ưu đãi, hỗ trợ Thanh Hoá Hà Tây Vĩnh Phúc Giá thuê đất Theo khung giá quy định của bộ tài chính, riêng KCN Lệ Môn có giá thuê đất ở mức thấp nhất so với tất cả các KCN trong cả nước Giảm từ 10-30% so với khung giá của bộ tài chính (áp dụng cho một số đối tượng) áp dụng mức thấp nhất trong khung giá bộ tài chính quy định (áp dụng cho mọi dự án) Thời hạn miễn giảm tiền thuê đất (Ngoài việc áp dụng theo quy định chung của cả nước) Chưa có chính sách hỗ trợ 2 năm ( áp dụng cho các chính sách đặc biệt khuyến khích đầu tư) 5 năm (áp dụng cho mọi dự án) 8 năm và miễn cả (áp dụng cho một số dự án) Hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng Chưa có chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp trả tiền đền bù cho dân, số tiền này được tính vào tiền thuê đất Tỉnh hỗ trợ giải phóng mặt bằng, số tiền hỗ trợ được tính theo tỷ lệ % số tiền đền bù giải phóng mặt bằng trả cho dân theo phương án được cơ quan có thẩm quyền duyệt căn cứ vào địa điểm thực hiện dự án, số lao động sử dụng, vốn đầu tư. Hỗ trợ đào tạo Chưa có chính sách hỗ trợ Chưa có chính sách hỗ trợ Hỗ trợ cho doanh nghiệp sử dụng lao động địa phương lâu dài một lần 500.000 đồng/nguời Nguồn : Chính sách ưu đãi đầu tư ở Thanh Hoá và báo nhân dân số 17048 ra ngày 24 tháng 03 năm 20022 Trong thời gian tới Thanh Hoá nên xây dựng và phê duyệt các chính sách hỗ trợ đầu tư theo hướng như sau: + Hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng cho các dự án mà các loại phí này là lớn so với vốn đầu tư (10%) trở lên bằng cách trợ giúp tiền, thanh toán hộ tiền, cho vay ưu đãi từ quỹ hỗ trợ đầu tư. + Hỗ trợ đào tạo, tuyển dụng lao động: Hiện nay có một điều còn tồn tại ở Thanh Hoá là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Thanh Hoá khi sử dụng lao động của địa phương thường phải đào tạo, đào tạo lại lao động. Vì vậy Thanh Hoá cần quan tâm tới việc đạo tạo, nâng cao trình độ cho người lao động. Đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đào tạo người lao động địa phương để sử dụng. + Hỗ trợ thông tin: Thông tin luôn cần thiết nhất là với doanh nghiệp. Tỉnh cần thường xuyên cập nhật các thông tin về môi trường chính sách đầu tư của tỉnh, môi trường chính sách đầu tư của cả nước, của các tỉnh bạn, các thông tin khác như thông tin về thị trường, về lao động, nguyên liệu.... và cần thiết lập một đường dây nóng để giải quyết các thắc mắc của nhà đầu tư. 5. Chính sách tài chính Để đảm bảo tính khả thi của các chính sách thì cần xác định rõ cách thức huy động và cách thức sử dụng các nguồn lực cho việc thực hiện các chính sách này. Trước mắt Thanh Hoá cần lập một quỹ hỗ trợ đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng trong, ngoài khu công nghiệp. Quỹ hỗ trợ đầu tư có thể thu từ các nguồn: Vốn của trung ương, trích ngân sách tỉnh. Việc phát triển cơ sở hạ tầng có thể huy động dưới các hình thức sau: Sử dụng các phương thức BOT, BT, BTO. Kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để cho thuê. Phát hành trái phiếu công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Kêu gọi các nhà đầu tư có ý định đầu tư đóng góp vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Sử dụng vốn ODA. 6. Hoạt động vận động xúc tiến đầu tư Hoạt động xúc tiến đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cho dù môi trường đầu tư có hấp dẫn đến thế nào mà các nhà đầu tư không biết, không hiểu về nó thì cũng không thể có hoạt động đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư là nhằm cho nhà đầu tư biết, hiểu về chính sách đầu tư và làm cho nhà đầu tư có mong muốn đầu tư. Trong thời gian vừa qua hoạt động xúc tiến đầu tư của Thanh Hoá hoạt động còn kém hiệu quả. Trong thời gian tới Thanh Hoá cần đẩy mạnh hoạt động này dưới nhiều hình thức. + Quảng bá môi trường đầu tư, tiềm năng, lợi thế của Thanh Hoá dưới nhiều hình thức: qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng, dưới các buổi tiếp xúc nói chuyện + Danh mục dự án kêu gọi đầu tư cần mang tính thực tế hơn, phù hợp với nhà đầu tư nước ngoài hơn. + Tổ chức tham gia các buổi tiếp xúc, gặp mặt các nhà đầu tư từ đó tiến hành vận động xúc tiến đầu tư. Việc này vừa có thể giới thiệu được môi trường chính sách đầu tư của tỉnh, mặt khác thể hiện sự coi trọng, sự khuyến khích đầu tư nước ngoài. + Tạo quan hệ tốt với các bộ ngành liên quan, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với các nhà môi giới. Vì thường những nhà đầu tư khi mới vào Việt Nam thì thường tiếp xúc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các nhà môi giới tư vấn về địa bàn đầu tư. Các cơ quan này có thể thay Thanh Hoá giới thiệu về Thanh Hoá. 7. Chính sách phát triển nguồn nhân lực. Xét một cách sâu xa nhất thì con người mới là yếu tố quyết định nhất trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, việc phát triển nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thì phát triển nguồn nhân lực là một chính sách quan trọng không thể thiếu . Hiện nay ở Thanh Hoá lực lượng lao động, chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, tỷ lệ việc làm thường thấp, trình độ không cao (Thường chỉ tốt nghiệp phổ thông và chưa được đào tạo nghề). Thanh Hoá cần thực hiện một số biện pháp sau nhằm phát triển nguồn nhân lực cho tỉnh: + Thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với giáo dục tiểu học, phổ thông và dạy nghề. + Tăng cường đầu tư của ngân sách tỉnh cho các chương trình giáo dục, đào tạo. Đồng thời tranh thủ, kêu gọi các nguồn viện trợ từ bên ngoài cho việc phát triển giáo dục và đào tạo. + Đa dạng hoá các ngành nghề, lĩnh vực đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường dạy nghề. Định hướng các ngành đào tạo cho phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của các nhà đầu tư nước ngoài. + Xây dựng các chính sách hợp lý trong vấn đề tiền lương, đảm bảo các điều kiện lao động cho người lao động, các chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhân tài về làm việc tại Thanh Hoá 8. Một số biện pháp khác Ngoài ra Thanh Hoá còn cần phải quan tâm đến những vấn đề kinh tế xã hội khác đảm bảo ổn định cho môi trường kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Cần xây dựng quy hoạch cụ thể cho hoạt động đầu tư nước ngoài để có cơ sở định hướng, chỉ đạo xây dựng, thực hiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thanh Hoá cũng cần phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với các tỉnh khác. Liên kết chặt chẽ với các tỉnh địa phương khác trong các, mối quan hệ thương mại cũng như đầu tư nhằm phát triển đồng bộ sản xuất và thương mại tạo lên một khu vực phát triển rộng lớn Kết luận Thực tế Thanh Hoá có một tiềm năng to lớn để phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế củaThanh Hoá. Tạo ra khối lượng việc làm cho lao động Thanh Hoá, tạo không khí cho hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, đóng góp tăng trưởng kinh tế tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá... Tuy nhiên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn nhiều tồn tại. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào Thanh Hoá vẫn còn là một con số khiêm tốn, và số dự án hoạt động có hiệu quả lại càng ít. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu là do chính sách với đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ và chưa chú trọng đầu tư nước ngoài. Để khắc phục tình trạng này và để Thanh Hoá trở thành một địa bàn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài thì UBND Thanh Hoá, các cơ quan chức năng phải thực hiện một cuộc cải cách đồng bộ trong việc thực hiện các chính sách, hoạt động quản lý đầu trực tiếp nước ngoài. Những giải pháp cho hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá trong bài viết này được đưa ra trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá trong thời gian qua. Cùng với sự biến động của tình hình kinh tế xà hội thì chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần được thay đổi, bổ sung, hoàn thiện và việc nghiên cứu các giải pháp cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài thò luôn cần được thực hiện. Hy vọng rằng trong thời gian tới, với những giải pháp hiệu quả, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Thanh Hoá sẽ sinh động hơn và thu hút được nhiều thành quả hơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình kinh tế Thanh Hoá giai đoạn 1996-2000, và phương hướng phát triển đến năm 2005, UBND tỉnh Thanh Hoá . 2. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Thanh Hoá năm 2001 và kế hoặch năm 2002. Các tài liệu, số liệu của Sở kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá . Các tài liệu số liệu của sở Kế hoạch và đầu tư Thanh Hoá 5. Trang website : www.thanhhoa.gov.vn 6. Trang website : www.vvg-vietnam.com 8. Trang website : www.vneconomy.com 9. Địa chí các tỉnh thành phố Việt Nam, chủ biên Lê Thông, nhà xuất bản giáo dục. 10. Giáo trình : Đầu tư nước ngoài, Chủ biên TS Vũ Chí Lộc, Nhà xuất bản giáo dục, năm 1997. 11. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành. 12. Báo nhân dân số 17048 ra ngày 24 tháng 03 năm 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2316Dau tu FDI o Thanh Hoa.doc
Tài liệu liên quan