Đề tài Tín dụng thương mại và các triển vọng ở Việt Nam

Mặt khác, cần tiến hành theo dõi, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp. Việc này do ngân hàng tiến hành. Nó giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời nắm được những hành vi phi pháp hoặc giúp ngân hàng có mức chiết khấu hợp lý đối với từng loại thương phiếu. Nhà nước cũng cần quy định rõ đối với những hàng hóa quan trọng như vũ khí, thuốc men. Với những hàng hóa này tốt nhất là không cho phát hành thương phiếu ví nó rất nguy hiểm nếu nhà kinh doanh cố tình vi phạm.

doc22 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng thương mại và các triển vọng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó. Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta. Tín dụng vừa đơn điệu về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, củng cố và hoàn thiện hệ thống tín dụng là thử thách đặt ra không chỉ với ngành Tài chính - Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước. Trong khuôn khổ đề án môn học, em chỉ xin đi vào một loại hình tín dụng tiêu biểu - Tín dụng thương mại (TDTM). Đây là hình thức tín dụng ra đời rất sớm và do những ưu thế riêng có, nó vẫn càng ngày càng được ưa chuộng. Lúc đầu TDTM chỉ đơn giản là mối quan hệ mua bán chịu giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, dần dà nó phải hiểu sâu hơn và lợi ích của các bên được bảo đảm hơn. Riêng ở Việt Nam, TDTM tồn tại ở khắp nơi song do một số lý do, đến nay nó vẫn chưa được thừa nhận chính thức, gây nên những trở ngại không đáng có cho người kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Với mong muốn góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước em xin chọn đề tài “Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam”. Sau đây là nội dung chính của đề tài: - Tìm hiểu chung về TDTM - Thực trạng ở Việt Nam - Lựa chọn đối nghịch và biện pháp khắc phục. I/ Tín dụng thương mại - một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi 1. Vài nét về tín dụng thương mại Tín dụng nói chung là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latin, đó là “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Ngay với ý nghĩa ban đầu này nó cũng nói lên phần nào bản chất của tín dụng ngày nay. TDTM (Tradi Credit) là một loại hình tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc đặt tiền trước cho người cung cấp mà chưa lấy hàng cũng là hình thức TDTM vì người mua cho người bán tạm thời sử dụng vốn của mình. TDTM khác với tín dụng Ngân hàng (TDND - bank - credit) mà cũng khác với tín dụng tiêu dùng (TDTD) vì TDTM có đối tượng là hàng hóa trong khi đối tượng của TDNH là tiền tệ. Do đó nó có ưu thế hơn TDNH ở chỗ tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch với Ngân hàng. Thêm nữa, nhờ tính trừu tượng, TDTM được ưa thích hơn ở chỗ người sử dụng nó không phải công khai hoạt động của họ với ngân hàng. So với TDTD, rõ ràng TDTM ưu việt hơn vì nó tạo nguồn vốn kinh doanh, điều có ý nghĩa hết sức lớn lao với những nước nghèo và thiếu vốn như nước ta, khi mà TDTD tạo tâm lý tiêu dùng, giảm tiết kiệm chưa phù hợp với điều kiện cần tích lũy như nước ta. 2. Công cụ của TDTM Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, việc mua bán không thể chỉ dựa trên lòng tin của hai bên, vì vậy thương mại ra đời và ngay lập tức nó trở thành công cụ hữu hiệu của TDTM. Thương phiếu gồm hai loại là hối phiếu và kỳ phiếu. 2.1. Hối phiếu (Bill of Exchange) 2.1.1. Hình thức của hối phiếu Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền với điều kiện do người bán ký phát, yêu cầu người mua khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể hoặc một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền cho người bán hoặc theo lệnh của người đó trả tiền cho một người khác hoặc người cầm phiếu. 2.1.2. Đặc điểm của hối phiếu - Hối phiếu có tính trừu tượng. Trên hối phiếu người ta không ghi nội dung quan hệ tín dụng hay nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu không phụ thuộc vào nội dung tín dụng vì một khi tách khỏi hợp đồng và nằm trong tay người thứ ba thì nó trở thành một trái vụ độc lập. Nói theo cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. - Hối phiếu có tính bắt buộc cao. Bình thường, người trả tiền hối phiếu phải trả tiền vô điều kiện trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Một khi hối phiếu đã qua tay người thứ 3 thì người mua buộc phải trả tiền cho hối phiếu dù người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng, không giao hàng cho người mua. Trong trường hợp bình thường, bên trả tiền nếu chậm trễ hoặc không chịu trả tiền sẽ bị pháp luật can thiệp và bị tuyên bố phá sản rất nhanh. - Hối phiếu có tính lưu thông rộng rãi. Hối phiếu có thể được chuyển nhượng nhiều lần trong thời hạn của nó. Tính chất này có được nhờ 2 tính chất ở trên. 2.1.3. Phân loại hối phiếu Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia nó thành 3 loại. - Hối phiếu trả ngay là hối phiếu mà khi người trả tiền nhìn thấy hối phiếu này phải trả tiền ngay cho người trình phiếu. - Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định (thường từ 5 đến 7 ngày là lợi mà người trả tiền ký chấp nhận trả tiền và sau 5 đến 7 ngày thì trả tiền cho người chủ hối phiếu. - Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời hạn nhất định có trên hối phiếu, noời trả phải trả tiền hoặc tính từ ngày ký phát hối phiếu hoặc tính từ ngày chấp nhận hối phiếu hay một ngày quy định cụ thể. * Căn cứ vào chứng từ kèm theo, người ta chia hối phiếu làm 2 loại: - Hối phiếu trơn là hối phiếu gửi đến đòi nợ không kèm theo chứng từ hàng hóa. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này được dùng để thu cước phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng hoặc đòi tiền của những thương nhân quen biêt và tin cậy. - Ngược lại với hối phiếu trơn là loại kèm chứng từ hàng hóa. Nó gồm 2 loại riêng là hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay, ký hiệu D/P hoặc hối phiếu kèm chứng từ chấp nhận D/A. * Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, hối phiếu được chia làm 2 loại: - Hối phiếu đích danh là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi. Loại này không chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hiệu. - Hối phiếu theo lệnh là loại hối phiếu chi trả theo lệnh của người hưởng lợi. Nó được chuyển nhượng bằng hình thức ký hiệu. Đây là loại được dùng rộng rãi trong thanh toán. * Căn cứ vào người ký phát, hối phiếu được chia làm 2 loại: - Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người ký phát đòi tiền người mua. - Hối phiếu ngân hàng là loại mà ngân hàng phát hành ra, lệnh cho ngân hàng đại lý của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng loại chỉ định trên hối phiếu. 2.2. Kỳ phiếu (Promissory Notes) 2.2.1. Hình thức của kỳ phiếu Kỳ phiếu là tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua chịu ký phát, hứa trả một số tiền nhất định cho người bán hoặc theo lệnh người này trả cho một người khác quy định trong kỳ phiếu đó. - Điều luật của kỳ phiếu tương tự như của hối phiếu song do tính thụ động kỳ phiếu ít được dùng hơn hối phiếu. 2.2.2. Đặc điểm của kỳ phiếu - Trên kỳ phiếu người ta phải ghi rõ kỳ hạn của nó - Kỳ phiếu có thể do một hoặc nhiều người ký phát, cam kết trả tiền cho một hoặc nhiều người hưởng lợi. - Để đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu, nó phải được một ngân hàng hoặc công ty tài chính nào đó bảo lãnh. - Kỳ phiếu chỉ gồm một bản chính do người thu trái viết ra. 3. TDTM trong mối quan hệ với TDNH. Tuy là hai hình thức tín dụng hoàn toàn khác nhau song TDTM và TDNH lại liên quan mật thiết với nhau. Hai hình thức này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, TDTM làm lợi cho TDNH, đến lượt nó TDNH giúp cho TDTM linh động, dễ dàng và an toàn hơn. 3.1. NHTM với việc mở L/c phục vụ TDTM quốc tế 3.1.1. L/c là gì? L/c viết tắt của Lettes of Credit - là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/c cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung L/c. 3.1.2. Các bước thực hiện Purchase order Hãy xem sơ đồ sau: 5 Goods shipment Exporters Importers 1 6 10 L/c draft and shipping documents Shipping documents 4 2 L/c notification L/c application 9 11 Payment L/c paid at maturity 3 Exporters Importers L/c delivered 7 L/c draf and shipping documents delivered Process preceding creation of L/c Process after creation of L/c 8 Draft accepted and funds remitted - Người mua căn cứ vào hợp đồng mua hàng làm đơn xin mở một thư tín dụng (L/c) tại một ngân hàng nhất định mà 2 bên đã thỏa thuận. - Ngân hàng mở L/c căn cứ vào đơn xin mở L/c, mở L/c và thông báo cho người bán biết về L/c đó rồi gửi bản chính của L/c cho người bán. - Người bán kiểm tra kỹ nội dung của L/c, nếu hợp lệ thì chấp nhận và tiến hành giao hàng theo L/c. Nếu không, ngân hàng sẽ dừng ngay hợp đồng. 3.1.3. Ưu và nhược điểm của TDTM quốc tế * Ưu điểm: - Thanh toán bằng L/c giúp cho thủ tục đơn giản, việc mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhanh chóng, thuận tiện. - Mang tính chặt chẽ và nghiêm ngặt, nhờ đó giảm rủi ro trong quá trình buôn bán. Trong trường hợp người nhập vì một lý do nào đó không hoặc không thể thanh toán cho người xuất khẩu, họ vẫn thu được tiền của ngân hàng nhà nhập khẩu. Hơn nữa do hoạt động thương mại diễn ra trong phạm vi rộng, thông tin lẫn nhau ít nhiều hạn chế, việc mở L/c ở ngân hàng nhà nhập khẩu là một yếu tố đảm bảo khá chắc chắn vì họ nắm được tình hình tài chính của nhà nhập khẩu. * Nhược điểm: - Gây rủi ro không đáng có cho nhà kinh doanh do sự ràng buộc chặt chẽ về nội dung L/c và sự khác biệt trong pháp luật của mọi nước. - Gây những trùng lặp tiêu cực khi một doanh nghiệp mở L/c ở nhiều ngân hàng trong khi khả năng thanh toán của họ rất hạn chế. 3.2. Chiết khấu thương phiếu 3.2.1. Khái niệm về chiết khấu thương phiếu Trên thế giới, chiết khấu thương phiếu đã có lịch sử khá lâu. Nó là nghiệp vụ cổ điển nhất về huy động các khoản vay thương mại. Hiện nay, chiết khấu thương phiếu vẫn giữ vị trí then chốt trong các nghiệp vụ của ngân hàng bởi nó giải quyết tốt nguồn vốn kinh doanh và tương đối an toàn so với tín dụng ứng trước. Hơn thế, lợi nhuận mang lại từ việc chiết khấu thương phiếu rất lớn. Đó là một nghiệp vụ tín dụng, qua đó ngân hàng giao cho khách hàng một số tiền ghi trong thương phiếu mà không phải chờ đến ngày thanh toán của nó. Việc chiết khấu thương phiếu mà ngân hàng trở thành chủ sở hữu thương phiếu thông thương phải đem lại sự hoàn trả cho ngân hàng - người chiết khấu khoản tiền mà họ đã ứng trước: người cung cấp hàng hóa hay dịch vụ lập ra các thương phiếu thể hiện số hàng đã cung cấp hoặc dịch vụ đã làm và nhượng lại cho ngân hàng để được thanh toán trước hạn. Đây là công cụ tín dụng và thanh toán mà giới kinh doanh ưa sử dụng, nó là loại tín dụng đầu tiên mà doanh nghiệp có thể xin cấp. Xét theo nghĩa rộng, chiết khấu là một kỹ thuật tài trợ dẫn đến việc cấp tín dụng nhằm tái tài trợ. Với mục đích này nó được thực hiện dựa trên các thương phiếu ký chuyển nhượng của người đi vay giao cho ngân hàng - người cho vay. Kỹ thuật này cũng được sử dụng để tài trợ ngắn hạn, kể cả tín dụng ngân quỹ cũng như cho các tài trợ trung và dài hạn. Như vậy chiết khấu thương phiếu bao trùm tất cả các lãnh vực hoạt động - trừ cam kết bằng chữ ký - và đáp ứng các nhu cầu - thực tế rất khác nhau. Trong thực tiễn hoạt động ngân hàng, chiết khấu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn hoặc một trái phiếu có kỳ hạn giao số tiền tương ứng cho khách hàng sau khi trừ đi phần thù lao (lãi suất chiết khấu) của ngân hàng. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng vì nó đem lại ngay cho khách hàng một số tiền mà bình thường chỉ được trả vào ngày đáo hạn thương phiếu. Nhìn về bản chất, chiết khấu thương phiếu không phải là khoản cho vay vì ngân hàng không cho khách hàng vay số tiền mà khách hàng sẽ phải trả cho ngân hàng. ở đây ngân hàng ứng trước trị giá của thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại bằng việc sở hữu thương phiếu đó. Nhờ đó ngân hàng được trả lại khoản ứng trước đây bằng cách truy đòi khi đáo hạn thương phiếu. 3.2.2. Cơ chế chiết khấu Nghiệp vụ chiết khấu là một thỏa ước giữa khách hàng với ngân hàng có thể chấp nhận chiết khấu từng món một hoặc cam kết trước là sẽ chiết khấu cho các chứng từ mà khách hàng xuất trình cho đến mức tối đa nào đó trong một thời hạn nhất định. Trường hợp này người ta gọi là tín dụng chiết khấu. Tuy nhiên ngân hàng cũng như một doanh nghiệp - vẫn từ chối một thương phiếu khả nghi. Trong hoạt động chiết khấu, ngân hàng chiết khấu trở thành chủ sở hữu thương phiếu. Việc chuyển giao thương phiếu thường được thực hiện bằng cách để tránh ký hiệu hoặc chỉ định ngân hàng là người thu hưởng thương phiếu. Ngân hàng ứng cho người cầm thương phiếu sau khi tính thù lao, phần thu này gồm nhiều loại phí và lãi suất thương phiếu. 3.2.3. Đặc điểm chiết khấu Thông thường thương phiếu do ngân hàng xuất trình đều được thanh toán và tín dụng được thu hồi. Tuy nhiên khi người trả tiền không hoặc không có khả năng thanh toán, ngân hàng vẫn có vị trí pháp lý rất mạnh với 2 cách truy đòi. - Với tư cách là chủ sở hữu của thương phiếu, ngân hàng có thể truy đòi theo luật thương phiếu đối với mọi người ký trên phiếu với tất cả những đảm bảo mà điều khoản này mang lại. Đồng thời ngân hàng có quyền theo đuổi việc thanh toán đến cùng. - Với tư cách là người chiết khấu, ngân hàng có quyền truy đòi khách hàng của mình vì ngân hàng chỉ giao tiền theo giá trị của thương phiếu khi đảm bảo thu được tiền. Trường hợp rủi ro, ngân hàng có thể đòi người xin chiết khấu. Nếu khách hàng có quan hệ tài khoản với ngân hàng, ngân hàng đòi tiền bằng cách trừ vào tài khoản của họ. 3.2.4. Ưu nhược điểm của chiết khấu Ta biết rằng chiết khấu làm cho khả năng lưu thông của thương phiếu tăng lên và trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khá hữu hiệu, có khả năng hoán chuyển cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của doanh nghiệp cho vay. * Chiết khấu rất bảo đảm đối với ngân hàng vì ngân hàng có những công cụ hữu hiệu để truy đòi các khoản TDTM. Ngoài ra khi cần thiết, NHTM có thể đem thương phiếu đến tái chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy các ngân hàng cùng phải đương đầu với những khó khăn sau: Thứ nhất, chi phí quản lý thương phiếu rất cao Thứ hai, thông tin về người ký thương phiếu không đầy đủ. Thông thường ngân hàng không có quan hệ trực tiếp với người ký phát nên quyết định chiết khấu mang tính mạo hiểm. Để giải quyết việc đó, các ngân hàng thường quy định lãi suất chiết khấu cao nhằm san bằng rủi ro. Thứ ba, là những rủi ro ngân hàng gặp phải do các doanh nghiệp làm ăn phi pháp, lừa đảo, dùng tiền vay ngân hàng trả nợ cho TDTM. 3.3. Ngân hàng - người tư vấn Do tính chất của hoạt động ngân hàng họ có cơ hội tiếp xúc, nắm được những thông tin bao quát về tình hình tài chính của các doanh nghiệp, ngân hàng trở thành nhà tư vấn cho người sản xuất kinh doanh hay những người buôn bán giấy tờ có giá. Nhờ thông tin do ngân hàng cung cấp, khách hàng ra quyết định có dùng thương phiếu đó không. 4. Vai trò của TDTM So với các loại tín dụng khác, TDTM khá đặc biệt. Nó có những ưu điểm: - Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, làm cho sản xuất lưu thông được liên tục, nhờ đó tăng hiệu quả kinh tế. - Có khả năng tích tụ vốn cao, nó là nguồn vốn lưu động quan trọng dù giá của nó khá đắt: 2% lãi suất cho 10 ngày. - Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ và nó là hình thức lưu thông không dùng tiền mặt. Trên thực tế, tiền vẫn nằm tại ngân hàng trong khi thương phiếu có thể được thay đổi chủ sở hữu. - Khuyến khích sản xuất kinh doanh nhờ tính trừu tượng. Người kinh doanh bí mật được hoạt động của mình về loại hàng hóa, giá thành... Tuy vậy, muốn TDTM hoạt động hiệu quả cần khắc phục những hạn chế sau: - Hạn chế về quy mô tín dụng: quy mô TDTM là có hạn, cụ thể khoản tín dụng có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hàng hóa trao đổi. - Hạn chế về chiều vận động: TDTM chỉ vận động theo một chiều nên nếu chỉ một khoản trục trặc có thể dẫn đến phá sản hàng loạt. - Hạn chế do thiếu sự giảm sút của ngân hàng dẫn đến sự hạn chế khả năng theo dõi doanh nghiệp. Vì vậy nó nảy sinh tiêu cực như nạn buôn bán giả, rửa tiền... Ngoài ra TDTM còn là mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa với những đơn đặt hàng giả hoặc không có khả năng được thanh toán. II/ TDTM ở Việt Nam hiện nay 1. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ Sự bùng nổ hình thức TDTM quốc tế trong mấy năm gần đây đặt nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn vì một mặt, TDTM quốc tế là công cụ thuận lợi cho kinh doanh quốc tế, nó làm tăng đáng kể khối lượng xuất nhập khẩu, khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu cũng như các ngành sản xuất có đầu vào là nguyên liệu ngoại nhập, mặt khác nó cũng gây những hậu quả cho nền kinh tế với hiện trạng. 1.1. Quản lý TDTM quốc tế đang bị thả lỏng - Do thiếu hiểu biết, người ta ngộ nhận rằng nguồn vốn thu hút từ việc mở L/c trả chậm là nguồn vốn rẻ tiền và có thể dùng thoải mái tới mức họ quên đi những rủi ro đáng lo ngại và hậu quả xấu cho đất nước và các ngân hàng lao vào nghiệp vụ này một cách phiêu lưu. Nguyên nhân chính ở đây là việc quản lý hình thức tín dụng này hầu như bị thả nổi. Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên ta nên hạn chế doanh nghiệp vay nước ngoài cho phù hợp với khả năng trả nợ nhưng con số vẫn không ngừng gia tăng. Người ta cảnh báo rằng, nguy cơ đáng lo ngại là có những công ty TNHH với số vốn trong TNHH chỉ có 3 tỷ đồng nhưng đã mở tổng số L/c trả chậm là 41 triệu USD. Như vậy chỉ cần một sơ suất nhỏ hay giá hàng nhập theo L/c đó giảm 1% là doanh nghiệp lỗ vốn 410.000USD, vượt số vốn tự có. Khối lượng TDTM quốc tế lớn như vậy nhưng chủ yếu để nhập khẩu hàng tiêu dùng, sau đó chính cán cân thanh toán quốc tế sẽ phải gánh chịu việc trả nợ này khi đáo hạn. Về phía quy định, việc bảo lãnh cho mỗi L/c hầu như không có thể lệ hướng dẫn thi hành, ghi chép ngoại bảng không kiểm soát nổi đến chỗ thắt chặt gần như cấm hoàn toàn. Nó thường xuyên bị lợi dụng để làm ăn phi pháp. Lúc đầu nó chỉ là nhập hàng trả chậm nhưng một số công ty móc ngoặc được với các cán bộ ngân hàng biến chất, rút được hàng hóa thế chấp cho L/c trả chậm đem bán phá giá lấy vốn quay vòng. Đến khi việc kinh doanh gặp rủi ro, ngân hàng là người gánh chịu những khoản này. Mặc dù đã có những biện pháp ngăn ngừa như ban hành tỷ lệ ký quỹ là 80% mà thực chất là cấm mở L/c trả chậm nhưng rồi L/c vẫn tăng đáng kể. Nguyên nhân là do các công ty cần nhập nguyên liệu cho sản xuất kiến nghị đồng loạt nên việc mở L/c lại trở về lỏng lẻo như cũ. Chẳng hạn, phân bón là mặt hàng thường xuyên được nhập về để bán phá giá lấy vốn quay vòng lại thuộc loại nguyên liệu cho nông nghiệp nên các ngân hàng vẫn tăng L/c trả chậm. Vì vậy khối lượng L/c trả chậm đầu năm 1996 khoảng 1200 triệu USD; đến tháng 6/1996 đã tăng đến hơn 1400 triệu USD. Trong vụ Epco và Minh Phụng, người ta mới thấy hết tai họa của việc bảo lãnh mở L/c trả chậm không được quản lý: riêng 2 công ty này đã hút được tới 44 triệu USD vốn đem quay vòng từ các L/c trả chậm, trong đó quá hạn chiếm 31,3% hay 13,8 triệu USD. 1.2. Thông tin thiếu thốn: Do vậy, có khách hàng mở L/c ở nhiều ngân hàng tới vài chục triệu USC. Trung tâm thông tin tín dụng của ta không thể cung cấp số L/c mà khách hàng mở ở nhiều ngân hàng khác nhau. 1.3. NHTM hoạt động kém hiệu quả, nghiệp vụ yếu kém, đội ngũ cán bộ trình độ hạn chế, chưa được thanh lọc, phẩm chất chưa tốt. Từ đó dẫn đến những vi phạm nguyên tắc một cách vô tình hay cố ý, tham ô, hối lộ gây những thiệt hại lớn cho đất nước. Nghiệp vụ ngân hàng chưa cao nên không theo dõi và không có đủ thông tin về doanh nghiệp, không kịp thời can thiệp được khi có sai trái. 1.4. Chưa có hiểu biết đầy đủ về TDTM quốc tế Chúng ta tiếp cận và sử dụng TDTM quốc tế như là một công cụ hiệu quả cho xuất nhập khẩu mà chưa hiểu rõ bản chất của nó. Thêm vào đó, chúng ta thiếu một hệ thống pháp luật cụ thể và hiệu quả, dẫn đến những rủi ro cho nền kinh tế. Do ham lợi trước mắt, các ngân hàng và doanh nghiệp làm sai quy tắc. Do thiếu kiến thức, nhiều L/c bị từ chối thanh toán do bộ chứng từ không hợp lệ. 1.5. Ngân hàng nhà nước chưa ban hành chế độ mở L/c trả chậm. Việc thiếu vắng một thể lệ có tính pháp quy như vậy đã tạo kẽ hở cho một số ngân hàng đua nhau hạ thấp các điều kiện mở L/c để thu hút khách hàng và sẵn sàng lao vào nuôi những công ty mở L/c tràn lan không có vốn đảm bảo. 1.6. Không có sự phối hợp giữa Vụ chức năng và Vụ kế toán của NHTW để quản lý bằng một chế độ hoạch toán kế toán chặt chẽ, đây là lỗ hổng lớn cho một số kẻ xấu tha hồ tiền hành những bút toán không thực. 1.7. Khối lượng TDTM quốc tế đã chiếm thị phần lớn của tín dụng trong nước nên nó là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thừa vốn ở các doanh nghiệp. Tóm lại, cần phải có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn giữa sự cần thiết của TDTM quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. 2. TDTM trong nước 2.1. TDTM chưa được thừa nhận chính thức, hoạt động bất hợp pháp, đầy rẫy rủi ro vì quyền lợi của người kinh doanh chưa được bảo đảm dẫn đến sự phá sản hàng loạt khi một khâu kinh doanh đổ bể. TDTM ở nước ta hiện nay chỉ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa những người mua - người bán dẫn đến tình trạng quỵt nợ, nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một số người cho rằng vụ cháy chợ Rồng ở Thanh Hóa và chợ Đồng Xuân ở Hà Nội là do có kẻ muốn thủ tiêu giấy tờ ghi nợ. Phải nhìn nhận rằng việc bán chịu hàng ở chợ gần như thành luật lệ của giới buôn bán. Thường thường, các cơ sở sản xuất phải giao hàng đợt sau mới lấy được tiền hàng đợt trước. Nơi bán buôn ở các chợ đầu mối cũng phải cũng phải giao hàng trả chậm cho các mối bán lẻ và cả các mối ở địa phương khác. Khối TDTM lên đến hàng ngàn tỷ đồng như vậy lại không có gì bảo đảm gây thiệt thòi lớn cho các chủ nợ. Như ta đã biết, TDTM di chuyển rất nhanh. ở một số tỉnh khối lượng TDTM lớn đã làm lệch cân đối tín dụng của các ngân hàng địa phương. Ví dụ khi giá cao sự tăng thu hút khách hàng đổ xô vào ứng tiền cho các công ty cao su. Số dư nợ khổng lồ đối với khối ngân hàng địa phương của công ty này đã giảm sút lớn dẫn đến đầu vào các các ngân hàng lớn hơn đầu ra. Theo như thống kê, TDTM chiếm đến 40% tổng số vốn lưu động của các doanh nghiệp. Con số này còn lớn hơn nhiều với những doanh nghiệp ít vốn hơn. Họ thường xuyên sử dụng hình thức này để giải quyết vấn đề tiền vốn kinh doanh hạn hẹp. Những người thường xuyên mua chịu là những người buôn bán ở chợ, bán lẻ... Các mặt hàng cho mua bán chịu cũng thật là đa dạng: quần áo, vải vóc, đồ lưu niệm, thiết bị trường học... nó tùy thuộc vào tiềm năng về vốn của người bán cũng như quy luật chung của thị trường đó. Nhiều khi người bán phải chấp nhận bán chịu như một hình thức khuyến mại, khuyến khích mua hàng của họ. Sau đây là một vài số liệu về mặt hàng vải ở chợ Đổ (Hải Phòng). Theo điều tra sơ bộ, tất cả các hiệu vải ở đây đều sử dụng hình thức TDTM dưới hình thức này hay hình thức khác. Lý do cơ bản là vì nguồn vốn kinh doanh có hạn, người bán buôn phải chấp nhận một thời hạn nào đó để người bán giải phóng hàng, gom tiền trả nợ. Người kinh doanh cho biết, đây là giải pháp hữu hiệu để duy trì hoạt động kinh doanh liên tục, đồng thời họ cũng than phiền là nhiều khi không đòi được tiền, bị quỵt nợ mà không biết kêu ai. Tỷ lệ (%) Ngày nay, với xu hướng nới lỏng hơn với TDTM, nó phát triển mạnh mẽ với khối lượng tín dụng tiến dần tới khối lượng hàng hóa. Ta xem xét biểu đồ sau: 100 75% 5 63% 5 68% 5 Thời gian 85 95 96 97 Biểu đồ: Tỷ lệ mua chịu trong tổng số vốn kinh doanh Cùng với khối lượng sản xuất kinh doanh, khối lượng vốn tăng lên theo đà phát triển kinh tế, khối lượng TDTM cũng đang ngày càng tăng mạnh. Trong trường hợp hàng hóa đặc biệt và hạn chế về số lượng, các hộ kinh doanh còn ứng trước tiền để đặt hàng. Thời hạn tín dụng ở đây thường từ 15 ngày đến 1 tháng. Tỷ lệ(%) 6 85 95 96 97 Biểu đồ: Tỷ lệ rủi ro trong TDTM Cùng với sự tăng lên của khối lượng TDTM, rủi ro nó mang đến cũng tăng lên đáng kể. Lẽ dĩ nhiên, buôn bán phát triển, lợi nhuận hấp dẫn, người ta quan tâm đến điều đó chứ không phải những giao ước bằng lời. Như vậy TDTM là một mảng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong hoàn cảnh thiếu vốn của ta hiện nay. 2.2. Chưa có những quy định cụ thể cho TDTM Trước đây, dù nhà nước có cấm ngặt TDTM thì nó vẫn ngấm ngầm tồn tại. Cho đến nay vẫn chưa có luật lệ cụ thể nào về thương phiếu, nghiệp vụ chiết khấu bị bỏ ngỏ, lại chưa có thị trường cổ phiếu... gây nhiều cản trở cho TDTM phát huy tác dụng. 2.3. Rủi ro đầy rẫy trong TDTM ở Việt Nam do chưa được thừa nhận và bảo đảm bởi pháp luật. - Hiện tượng di chuyển mạnh mẽ của loại hình tín dụng này làm lệch cân đối. Tín dụng của ngân hàng địa phương. Nó làm di chuyển nguồn vốn vay ngân hàng vì ngân hàng cho doanh nghiệp vay, doanh nghiệp lại bán chịu cho nơi khác nên vốn ngân hàng cho vay gồm luôn phần TDTM của doanh nghiệp và di chuyển luôn sang nơi mua chịu hàng hóa của doanh nghiệp. Hiện tượng này còn có thể làm lệch cung cầu vốn trong từng khu vực hay từng ngành, ảnh hưởng mạnh mẽ tới lãi suất thị trường. - TDTM gây rủi ro cho TDNH Ngay cả khi cấm TDTM, nó vẫn tồn tại dưới hình thức chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, không trả lãi và không có kỳ phiếu nhận nợ. Điều này dẫn đến tình trạng công nợ dây dưa khó đòi mà trong giai đoạn I năm 1995 đã lên tới 10.000 tỷ đồng lớn hơn tổng số dư nợ vay toàn bộ hệ thống ngân hàng thời kỳ đó. Nhiều khi ngân hàng bị mất trắng do chủ nợ chặn hàng siết nợ hoặc đẩy ngân hàng đến chỗ cho vay không có vật tư bảo đảm. Mặt khác, nhiều khoản vay ngân hàng bị sử dụng sai mục đích vì phải trang trải cho các món nợ TDTM đã vay vì TDTM mang tính bắt buộc, người mua buộc phải trả tiền vô điều kiện khi đến hạn. Nếu không có khả năng thanh toán, để khỏi vỡ nợ, các doanh nghiệp bù đắp TDTM bằng các khoản vay khác. - Hiện tượng quỵt nợ, công nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau là phổ biến vì không có thương phiếu bảo đảm. Do đó trong vụ vỡ nợ Soái Kình Lâm, thiệt hại lên tới 100 tỷ đồng. 3. Vai trò của TDTM trong nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu ở Việt Nam 3.1. Tăng nguồn vốn kinh doanh Nền kinh tế nước ta còn nghèo, vốn cho kinh doanh hạn chế, đòi hỏi phải có những hình thức tạo vốn. Vấn đề này càng bức thiết hơn với các đơn vị buôn bán nhỏ. Nhờ có TDTM, sản xuất kinh doanh ổn định và mở rộng. Tuy nhiên không nên lạm dụng TDTM vì thời hạn tín dụng thương mại và dễ dẫn đễn vỡ nợ hàng loạt. 3.2. Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ TDTM với công cụ là thương phiếu được coi là hình thức lưu thông không dùng tiền mặt. Nó tiết kiệm chi phí lưu thông và giảm bất trắc trong việc chuyển tiền. 3.3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh Nhờ có TDTM, quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, không ngắt quãng. Nhờ đó hiệu quả của sản xuất kinh doanh tăng lên đáng kể. 3.4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh Trong thực tế, TDTM chiếm hơn 40% vốn lưu động của các doanh nghiệp. Với khối lượng tín dụng đó, các doanh nghiệp có thể mở rộng kinh doanh, có nhiều cơ hội kiếm lời. Mặt khác nó còn khuyến khích sản xuất kinh doanh vì hoạt động đó được bí mật tương đối, không phản ánh trên thương phiếu nên rất được ưa chuộng. Như vậy, TDTM đặt chúng ta trước sự lựa chọn khó khăn. Nên chẳng hợp pháp hóa TDTM ở Việt Nam. III/ Lựa chọn và khắc phục Như đã đề cập, bên cạnh những ưu thế, TDTM còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Từ năm 1932, Liên Xô (cũ) đã xóa bỏ TDTM, coi đó là sự phá vỡ việc phân bổ tín dụng theo kế hoạch. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc cấm hay hợp pháp hóa TDTM đặt ra nhiều tranh cãi. Dù vậy, TDTM là một đặc trung của cơ chế thị trường, chúng ta đã chấp nhận cơ chế thị trường tại sao không coi TDTM là một tất yếu? Hơn nữa TDTM bổ sung rất hoàn hảo cho các hình thức tín dụng khác và chưa hề chịu tác động của các lệnh cấm. Giờ đây, vấn đề là ở chỗ phải làm gì để khắc phụ những khiếm khuyết của nó mà thôi. Trong tình hình hiện nay, với sự bung ra của TDTM, việc hợp pháp hóa hình thức tín dụng này là đòi hỏi cấp thiết để giảm rủi ro cho người kinh doanh, xóa bỏ thị trường ngầm và lại khuyến khích phát triển sản xuất. Để phát huy vai trò của TDTM thật hoàn hảo cần có những biện pháp sau: 1. Với TDTM quốc tế - Hạn chế các doanh nghiệp vay nước ngoài. - Quy định cụ thể về thể lệ mở L/c trả chậm, tránh trường hợp công ty bán phá giá hàng nhập lấy vốn kinh doanh mục đích khác. Hiện quy chế bảo lãnh cho khách hàng vay vốn nước ngoài chỉ là 1 quy chế chung chung, không thể là một thể lệ cụ thể để quản lý nghiệp vụ mở thư tín dụng trả chậm. - Giảm tối đa việc mở L/c trả chậm cho việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng xa xỉ. Nước ta còn nghèo, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng không làm tăng sức sản xuất trong nước, gây áp lực bên cán cân thanh toán quốc tế. Khối lượng hàng nhập khẩu quá nhiều tấn công hàng sản xuất trong nước, hàng nội địa không có sức cạnh tranh dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp trong nước. - Phải xây dựng được một chế độ kế toán phù hợp. Trong TDTM quốc tế, cần bám sát UCP500 để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước tránh những sai lầm về chứng từ không đáng có dẫn đến việc không được thanh toán. - Vụ chức năng phải phối hợp với vụ kế toán Ngân hàng để quản lý bằng một chế độ kế toán hợp lý, chặt chẽ, hạch toán thống nhất. - Xây dựng hệ thống thông tin hiện đại qua ngân hàng hoặc các công ty tư vấn, tránh trường hợp một công ty mở quá nhiều L/c trong khi vốn có hạn. - Hỏi cơ quan phụ trách chung của các ngân hàng về các quy định trong luật hối phiếu áp dụng ở mỗi nước, khắc phục tình trạng thiếu thống nhất trong pháp luật của mỗi nước. - Yêu cầu ngân hàng của người mua bảo lãnh để tránh rủi ro khi không biết cặn kẽ về đối tác. - Sử dụng các công cụ kỹ thuật hiệu quả như kỹ thuật tín dụng chứng từ. 2. Với TDTM trong nước 2.1. Hợp pháp hóa TDTM nên làm dần từng bước cùng với sự hoàn thiện hệ thống luật. Cụ thể: - Sớm ban hành pháp luật về thương phiếu, hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp cùng các thương nhân biết rõ tính chất của từng loại thương phiếu hay nhận diện được thương phiếu, đưa TDTM vào quỹ đạo thanh toán sòng phẳng. - Ban hành pháp lệnh điều chỉnh nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu từ điều 21 đến 24 quyết định 198 quy định chứng từ có giá còn chung, việc hướng dẫn thủ tục nghiệp vụ, hạch toán kế toán, chiết khấu chưa đầy đủ. Để thi hành điều luật 57 luật các tổ chức tín dụng, NHNN nên tách ra xác lập riêng thể lệ chiết khấu, cầm cố thương phiếu. - Chống thất thu thuế. Việc giao dịch trong TDTM không thể hiện rõ trên thương phiếu, dẫn đến nhà nước không thu được thuế: nên tiến hành thu thuế trên giá trị thương phiếu. - Thực hiện kiểm toán nội bộ giúp điều hành thanh tra, giám sát hoạt động hối phiếu của các ngân hàng thành viên. 2.2. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng - Nâng cao nghiệp vụ của ngân hàng nhất là nghiệp vụ chiết khấu, đảm bảo cho TDTM thuận lợi, đồng thời phải có cơ chế để các doanh nghiệp không thể chiếm dụng vốn lẫn nhau. - Sử dụng nhiều loại cho vay để kiểm soát chặt chẽ ảnh hưởng của TDTM. Có nhiều loại cho vay với TDTM như cho vay chiết khấu thương phiếu cho vay theo chứng từ gửi hàng theo tàu, cho vay động sản hóa các khỏan TDTM, cho vay bao thu nợ, cho vay nhà thầu về các khoản phải đòi ngân sách trong thời gian chờ kinh phí, cho vay thương phiếu ghi băng từ... Thực chất, khoản nợ phải đòi người mua là khoản có tính rủi ro cao. Nó nằm trong phạm vi vốn lưu động của doanh nghiệp. Cho vay bằng nhiều loại vào khoản này tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát sâu các khoản TDTM để sàng lọc những gì cho vay được và biết mục đích sử dụng vốn. - Đơn giản hóa thủ tục hành chính. ở nước ta, thủ tục hành chính rất rườm rà, làm cho chất lượng tín dụng không bảo đảm, hơn nữa nhiều khi chúng chồng chéo lên nhau tạo những kẽ hở đáng lo ngại. Vì vậy, phải tiến hành cải cách hành chính sao cho việc giao dịch với khách hàng chiết khấu đơn giản mà vẫn đảm bảo tính nguyên tắc, an toàn. - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng. Hiện nay đa số cán bộ ngân hàng không có trình độ và năng lực cần thiết. Mặt khác, chúng ta thiếu trầm trọng những chuyên viên am hiểu về hoạt động ngân hàng. Vì vậy cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ mới, đủ năng lực đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành ngân hàng. - Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đây là đòi hỏi bức thiết vì hàng loạt những vị tham nhũng, vay ngân hàng không có thế chấp hoặc không có khả năng trả nợ đều do cán bộ ngân hàng làm sai nguyên tắc, ăn hối lộ như vụ Minh Phụng, Epco... 2.3. Xây dựng thị trường cổ phiếu Việc này làm tăng khả năng lưu thông và hoán chuyển của thương phiếu giảm rủi ro cho người bán chịu. Trong trường hợp người bán cần vốn, họ dễ dàng đem bán quyền sở hữu thương phiếu để lấy tiền trước thời hạn. Thông qua thị trường với sự cạnh tranh, thương phiếu được bán với giá cao nhất có thể nên nó khuyến khích được người kinh doanh. 2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo lại Nhờ hoạt động này, thông tin về doanh nghiệp tương đối đầy đủ và cập nhật, giúp khách hàng tránh rủi ro, góp phần ổn định kinh tế, xã hội. Lời kết Không phải vô cớ mà Marx viết: “TDTM là cơ sở của tín dụng tư bản chủ nghĩa”. Số phận của nó ở Việt Nam có lẽ còn rất lâu mới ngã ngũ. Tuy nhiên, bất chấp những đe dọa mà nó gẩya, chỉ riêng thuận lợi nó đem đến cho người sản xuất kinh doanh cũng tạo ra sức thu hút đặc biệt. Chẳng thế mà từ lâu nay, TDTM vẫn ngầm tồn tại, ngầm bổ sung cho TDNH, TDHTX... sản xuất càng phát triển, đòi hỏi về TDTM càng cao. Chúng ta nên tạo những điều kiện thuận lợi để giải quyết sự không ăn khớp giữa thực tế và trên giấy tờ về TDTM. Dưới đây là một số ý kiến để khắc phục tình trạng kém hiệu quả của TDTM ở Việt Nam: Thứ nhất, nên tiến hành phân loại doanh nghiệp để quyết định doanh nghiệp nào được phép tiến hành thương phiếu dựa trên khả năng về tài chính của họ. Việc này cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hệ thống bởi NHNN và phải đảm bảo bí mật. Nên tiến hành cho điểm doanh nghiệp như các cách làm của NHTW Pháp. Cách cho điểm như sau: - Điểm đánh giá hoạt động của doanh nghiệp - Điểm đánh giá tín dụng - Điểm đánh giá thanh toán Ngoài ra, nên tiến hành cho điểm đánh giá ban lãnh đạo của doanh nghiệp thêm vào đó là những chỉ số bổ sung, bao gồm: - Chỉ số công khai thông tin: chỉ số này cho thấy việc cung cấp thông tin của doanh nghiệp là hoàn toàn không dấu giếm. - Chỉ số thiếu hoặc chậm trễ thông tin: Chỉ số này cho thấy những công ty không muốn công bố số liệu hoặc từ chối cung cấp số liệu. Từ việc cho điểm trên, NHNN có thể cho biết được doanh nghiệp có hiệu quả, có uy tín rồi quyết định cho phép phát hành thương phiếu, đồng thời cấm các doanh nghiệp không có khả năng thanh toán phát hành thương phiếu. Từ việc cho điểm, các NHTM có được bức tranh toàn cảnh về doanh nghiệp, nhờ đó có quyết định thận trọng trong giao dịch với doanh nghiệp. Đồng thời với người buôn bán, họ cũng có quyết định đúng đắn, đảm bảo thu hồi vốn và đúng thời hạn. Thứ hai, cần nhanh chóng xây dựng các công ty tư vấn tín dụng với những chuyên gia lão luyện về tín dụng làm chức năng tư vấn bổ sung thông tin. Thiếu những tổ chức như thế chúng ta không thể phát triển, hiện đại hóa tín dụng nói chung và tín dụng thương mại nói riêng. Các công ty tư vấn này có thể do nhà nước hay tư nhân sở hữu. ở Việt Nam, tuy khu vực tư nhân chưa đủ tiềm lực song nó mang nhiều hứa hẹn với hiệu quả cao hơn nhiều khu vực nhà nước. Trước hết các trung tâm tư vấn này cung cấp những hiểu biết ban đầu về TDTM và các vấn đề có liên quan, sau đó giúp khách hàng lựa chọn quyết định đúng đắn về kinh doanh cũng như đầu tư vào thương phiếu. Nhờ các công ty này rủi ro và tiêu cực của TDTM sẽ giảm đáng kể. Mặt khác, cần tiến hành theo dõi, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp. Việc này do ngân hàng tiến hành. Nó giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời nắm được những hành vi phi pháp hoặc giúp ngân hàng có mức chiết khấu hợp lý đối với từng loại thương phiếu. Nhà nước cũng cần quy định rõ đối với những hàng hóa quan trọng như vũ khí, thuốc men... Với những hàng hóa này tốt nhất là không cho phát hành thương phiếu ví nó rất nguy hiểm nếu nhà kinh doanh cố tình vi phạm. Mục lục Lời nói đầu 1 I. Tín dụng thương mại - một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi 2 1. VàI nét về tín dụng thương mại 2 2. Công cụ của TDTM 2 2.1. Hối phiếu 2 2.2. Kỳ phiếu 4 3. TDTM trong mối quan hệ với TDNH 5 3.1. NHTM với việc mở L/c phục vụ TDTM quốc tế 5 3.2. Chiết khấu thương phiếu 6 3.3. Ngân hàng - người tư vấn 9 4. Vai trò của TDTM 9 II. TDTM ở Việt Nam hiện nay 10 1. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ 10 2. TDTM trong nước 12 3. Vai trò của TDTM trong nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu ở Việt Nam 15 3.1. Tăng nguồn vốn kinh doanh 15 3.2. Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ 15 3.3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá, rút ngắn chu kỳ kinh doanh 16 3.4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh 16 III. Lựa chọn và khắc phục 16 1. Với TDTM quốc tế 16 2. Với TDTM trong nước 17 Lời kết 20 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0846.doc
Tài liệu liên quan