3.9.2. Các tổ chức tham gia giảng dạy trực tuyến
Có rất nhiều Trường Đại học, Bệnh viện tổ chức giảng dạy trực tuyến khắp cả nước. Nhưng đầu trong
công tác giảng dạy với số lượng tham gia cập nhật kiến thức lớn nhất là Đại học Y Hà Nội với 48 lựa chọn,
tiếp đến là các Công ty Dược, trang thiết bị y tế có 34 lựa chọn.
3.9.3. Mức độ hiệu quả của hình thức giảng dạy trực tuyến
Biểu đồ 5: Đánh giá mức độ hiệu quả của phương pháp giảng dạy trực tuyến
Cán bộ giảng dạy trực tuyến rất tích cực nhưng với thang điểm từ 1-10 thì giảng dạy trực tuyến không
được đánh giá cao. Lý do chủ yếu vì không có sự tương tác nên dễ gây chán, người nghe với tốc độ đều đều
nên dễ gây buồn ngủ, ngồi trước màn hình vi tính hay điện thoại thường gây mỏi mắt. Nên chỉ có 5 người
đánh giá cao giảng dạy trực tuyến.
3.10. Ý kiến đánh giá và đóng góp về đại dịch
3.10.1. Đánh giá về đại dịch
Biểu đồ 6: Đánh giá về các biện pháp phòng chống COVID-19
Khi dịch xảy ra thì việc chống dịch càng trở nên
quan trọng, những biện pháp can thiệp phù hợp với
tình hình thực tế càng quan trọng để khống chế dịch
bệnh xảy ra. Đa số những người tham gia là cảm
thấy biện pháp hiện tại của Chính phủ, Ban phòng
chống dịch Quốc gia là phù hợp. Một số ít là có ý
kiến cần có nhiều biện pháp can thiệp quy mô lớn
hơn và một số có cảm nhận là đại dịch này bị phản
ứng thái quá của truyền thông. Thật sự chúng ta
không thể chủ quan về đại dịch này, cần phải hiểu
tầm quan trọng và có cái nhìn đúng về đại dịch.
Kết quả từ một cuộc khảo sát tương tự của Đại
học Saint Louis cho thấy rằng, tỷ lệ người đánh giá
các biện pháp hiện tại phù hợp chỉ là 47% và cần
nhiều biện pháp hơn là 44% [5]. Chứng tỏ Việt Nam
có các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả và
được đánh giá cao.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch Covid-19 và chăm sóc mắt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 33
Bệnh viện Trung ương Huế
DỊCH COVID-19 VÀ CHĂM SÓC MẮT
Phạm Như Vĩnh Tuyên1, Phan Nhã Uyên1, Hồ Nhật Quang1, Bạch Trọng Hoàng1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.61.5
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát thái độ, nhận thức và khả năng xử trí của nhân viên y tế công tác trong lĩnh vực
chăm sóc mắt ở thời điểm dịch COVID-19.
Đối tượng và phương pháp: Khảo sát trực tuyến nhân viên y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc mắt
trên toàn quốc, thời gian từ 17/4/2020 đến 22/4/2020.
Kết quả: 110 nhân viên y tế đã tham gia khảo sát, trong đó có 94 bác sĩ chiếm tỷ lệ 85,4%. Nhóm tuổi
chủ yếu tham gia là từ 31-40 tuổi chiếm tỷ lệ 35,5%. Đối tượng tham gia khảo sát chủ yếu từ tuyến tỉnh
(35,4%) và tuyến trung ương (22,7%). Chuyên ngành chủ yếu là nhãn khoa tổng quát với 79 người. Các
biện pháp phòng dịch được đa số đối tượng tham gia khảo sát (71,8%) đánh giá là phù hợp với tình hình
thực tiễn. Việc tư vấn được chú trọng với 81,8% bệnh nhân nội trú đã được tiến hành tư vấn. Các biện pháp
khám bệnh từ xa được quan tâm với 63,6% đối tượng tham gia khảo sát đã thực hiện và có kế hoạch thực
hiện.
Kết luận: Dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác chăm sóc mắt. Các cán bộ y tế đã có thái
độ quan tâm, nhiều biện pháp phòng chống dịch đã được đưa ra và thực hiện hiệu quả.
Từ khóa: Dịch COVID-19, chăm sóc mắt
ABSTRACT
EYE CARE DURING COVID-19 PANDEMIC
Pham Nhu Vinh Tuyen1, Phan Nha Uyen1, Ho Nhat Quang1, Bach Trong Hoang1
Objective: To investigate attitudes, perceptions and handling ability of medical workers in clinical eye
care during the Covid-19 pandemic.
Participants and methods: Online survey of medical workers in clinical eye care, from April 17, 2020
to April 22, 2020.
Results: 110 medical workers participated in the survey, including 94 doctors, accounting for 85.4%.
The main age group of participants is 31-40 years old, accounting for 35.5%. The survey participants
were mainly working at the provincial level (35.4%) and the central level (22.7%). The major is general
ophthalmology with 79 people. The epidemic prevention measures were considered by the majority of
survey participants (71.8%) as appropriate for the actual situation. Counseling was focused with 81.8% of
inpatients being consulted. Telemedicine measures are concerned with 63.6% of the survey participants
who have implemented and plan to implement.
1. Khoa Mắt, Bệnh viện
Trung ương Huế Cơ sở 2
- Ngày nhận bài (Received): 9/4/2020; Ngày phản biện (Revised): 25/04/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 29/05/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Phạm Như Vĩnh Tuyên
- Email: phamnhuvinhtuyen@gmail.com; ĐT: 0913 412 363
34 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của
virus Corona (COVID-19) là bệnh truyền nhiễm
thuộc nhóm A với các biểu hiện sốt, ho, có thể kèm
theo khó thở. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do
tiếp xúc với các giọt bắn từ dịch tiết mũi họng của
người bệnh.
Một số các báo cáo cho thấy vi rút SARS-CoV-2
có thể gây viêm kết mạc, như là một dấu hiệu
sớm của bệnh COVID-19 hoặc gặp ở bệnh nhân
COVID-19 với các triệu chứng toàn thân trầm
trọng. Đã có các bằng chứng về sự hiện diện RNA
của vi rút SARS-CoV-2 trong nước mắt của bệnh
nhân COVID-19 bị viêm kết mạc, mặc dù vi rút
này chưa được phát hiện từ phết kết mạc của bất
kỳ bệnh nhân COVID-19 nào. Tuy nhiên nguy cơ
lây truyền do vi rút xâm nhập qua đường kết mạc
mắt là rất cao [1].
Trong một nghiên cứu được công bố trên Tạp
chí Y học New England, đã ghi nhận cương tụ
kết mạc ở 9 trong số 1.099 bệnh nhân (0,8%)
nhập viện do COVID-19 từ 30 bệnh viện trên
khắp Trung Quốc. Không ai trong số các bệnh
nhân được ghi nhận là đã đi khám mắt trước đó
[2]. Báo cáo từ một viện dưỡng lão ở tiểu bang
Washington (Hoa Kỳ), được ghi nhận là ổ dịch
COVID-19 lớn, đã cho thấy mắt đỏ là dấu hiệu ban
đầu phổ biến ở những bệnh nhân cao tuổi sau đó
mắc bệnh COVID-19 [3]. Mặc dù tỷ lệ bệnh nhân
nhiễm COVID-19 có biểu hiện viêm kết mạc không
cao nhưng đó cũng là một trong những nguồn lây
lan COVID-19 ra cộng đồng [1].
Xuất phát từ thực tiễn trên, nhằm tìm hiểu thái độ
và ứng xử của các cán bộ y tế chuyên ngành nhãn khoa
Việt Nam trong phòng chống dịch COVID-19 chúng
tôi đã tiến hành khảo sát «COVID-19 và chăm sóc
mắt» với mục tiêu nhằm tìm hiểu thái độ, nhận thức và
khả năng xử trí của nhân viên y tế công tác trong lĩnh
vực nhãn khoa trước dịch bệnh COVID-19.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Khảo sát trực tuyến được tiến hành với 110 nhân
viên y tế công tác trong lĩnh vực nhãn khoa trên
toàn quốc với bộ 20 câu hỏi về các biện pháp phòng
chống COVID-19 ở thời điểm dịch COVID-19 từ
17/4/2020 đến 22/4/2020.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nghề nghiệp
Bảng 1: Nghề nghiệp
Nghề nghiệp n %
Bác sĩ 79 71,8
Bác sĩ nội trú/ học viên 15 13,6
Điều dưỡng 7 6,4
Quản lý cơ sở khám chữa
bệnh
6 5,5
Kỹ thuật viên 2 1,8
Khúc xạ viên 1 0,9
Trong 110 nhân viên y tế tham gia khảo sát có
79 bác sĩ (71,8%) và 15 bác sĩ nội trú (13,6%). Bác
sĩ chiếm đa số trong thành phần tham gia khảo sát
thể hiện sự quan tâm của các bác sĩ mắt đối với dịch
COVID-19.
3.2. Tuổi
Bảng 2: Độ tuổi
Độ tuổi n %
20-30 34 30,9
31-40 39 35,5
41-50 22 20,0
51-60 12 10,9
60+ 3 2,7
Nhóm tham gia khảo sát tương đối trẻ với độ
tuổi 31-40 chiếm 35,5%. Đây là nhóm tuổi cập nhật
mạng xã hội thường xuyên và tiếp xúc với nhiều
bệnh nhân trong quá trình xảy ra dịch bệnh.
Conclusion: The COVID-19 epidemic has had a great impact on the clinical eye care. Medical workers
were concerned about this epidemic, many epidemic prevention measures have been put in place and
implemented effectively.
Key words: COVID-19 epidemic, clinical eye care
Dịch COVID-19 và chăm sóc mắt
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 35
Bệnh viện Trung ương Huế
3.3. Nơi làm việc
Bảng 3 : Nơi làm việc
Nơi làm việc n %
Tuyến trung ương 25 22,7
Tuyến tỉnh 39 35,5
Tuyến huyện/ quận 19 17,3
Bệnh viện tư/ Phòng mạch tư nhân 27 24,5
Đối tượng tham gia khảo sát làm việc chủ yếu tại tuyến tỉnh trở lên, sau đó là tuyến trung ương thể hiện
sự quan tâm của các nhân viên y tế tuyến trên đối với dịch bệnh.
3.4. Chuyên ngành
Biểu đồ 1 : Chuyên ngành
Đối tượng tham gia khảo sát làm trong lĩnh vực nhãn khoa tổng quát chiếm đa số nên số lượng bệnh
nhân sẽ tiếp xúc ban đầu sẽ lớn.
3.5. Thông tin về dịch bệnh COVID-19
3.5.1. Nguồn thông tin về COVID-19
Bảng 4: Nguồn thông tin phòng chống COVID-19
Nguồn thông tin n %
Bộ Y tế 95 43,6
Bệnh viện đang công tác 74 33,9
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 25 11,5
Hội Nhãn khoa Việt Nam (VOS) 10 4,6
Hội Nhãn khoa Hoa Kỳ (AAO) 8 3,7
TV, báo, đài 3 1,4
Sở Y tế 2 0,9
Bạn bè 1 0,4
Trước tình hình dịch bệnh toàn cầu, cập nhật thông tin về COVID-19 là một trong những hoạt động thiết
thực của Chính phủ, Bộ Y tế, các Tổ chức Y tế, bệnh viện và các Ban phòng chống dịch. Qua khảo sát thì
có đa số người tham gia khảo sát nhận được khuyến cáo từ nhiều nguồn thông tin khác nhau nhưng chiếm
đa số là Bộ Y tế, rồi đến Bệnh viện đang công tác, Tổ chức Y tế Thế giới...
3.5.2. Nguồn thông tin về nhãn khoa liên quan đến COVID-19
Cập nhật thông tin một cách liên tục thông qua các hội Nhãn khoa trong và ngoài nước như VOS (Hội
Nhãn khoa Việt Nam), AAO (Hội Nhãn khoa Hoa Kỳ) có 55 người thông qua các trang web này.
36 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
Biểu đồ 2: Nguồn thông tin về nhãn khoa liên quan đến COVID-19
3.6. Tình hình điều trị trong dịch bệnh
COVID-19
3.6.1. Tình hình tư vấn cho các bệnh nhân nội trú
Có 81,8% có tham gia tư vấn cho bệnh nhân
nội trú, đây là hành động thiết yếu để cùng chung
tay phòng chống và kiểm soát dịch. Tư vấn giúp
cho bệnh nhân hiểu đúng về dịch, biện pháp phòng
ngừa hữu hiệu. Nhưng có 18,2% không có tham gia
tư vấn, có thể đây là những người tham gia phòng
khám tư hoặc công tác ở nơi không có giường bệnh
nội trú.
Khảo sát của Đại học Saint Louis cho kết quả là
tỷ lệ không tư vấn bệnh nhân nội trú lên tới 42% [5],
vì tình hình dịch bệnh quá phức tạp ở các quốc gia
khác dẫn tới việc không đủ nhân lực, thời gian để tư
vấn bệnh nhân.
3.6.2. Tỷ lệ bệnh nhân đến khám trong 2 tuần
đầu khi dịch xảy ra
Bảng 5: Tỷ lệ bệnh nhân đến khám trong 2 tuần qua
Bệnh nhân đến khám n %
Không có bệnh nhân đến khám 3 2,7
<25% 39 35,5
25-50% 44 40,0
50-75% 20 18,2
75-100% 4 3,6
Thực hiện chủ trương của Thủ tướng Chính phủ
giãn cách nên số lượng bệnh nhân đến khám giảm
nhiều, có nơi giảm dưới 25%, nhưng đa số giảm
trên 50%.
Khảo sát từ Đại học Saint Louis cho kết quả tỷ lệ
bệnh nhân đến khám <25% so với bình thường lên
tới 56% [5].
Trong thời gian dịch bệnh thì đa số chỉ giải quyết
những trường hợp cấp cứu với 85 lựa chọn, những
bệnh nhân tái khám định kỳ có 78 lựa chọn, những
bệnh lý cấp cứu ở mắt như glocom có 71 lựa chọn
và chấn thương, những bệnh cần theo dõi sau phẫu
thuật... còn những bệnh không nguy hại đến tình
trạng chung thì có thể trì hoãn hoặc được tư vấn
khám bệnh từ xa.
3.7. Các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh
3.7.1. Dụng cụ bảo hộ được cung cấp đầy đủ
khi khám trực tiếp bệnh nhân có nguy cơ mắc/đã
mắc COVID-19
82% người tham gia khảo sát đánh giá cơ sở
khám chữa bệnh cung cấp đầy đủ thiết bị bảo hộ:
khẩu trang, mặt nạ chắn giọt bắn, nước rửa tay. 18%
không được cung cấp bảo hộ đầy đủ.
3.7.2. Các biện pháp phòng ngừa nguy cơ lây lan
Hạn chế số lượng người nhà vào thăm bệnh,
tiến hành sàng lọc bệnh nhân, yêu cầu bệnh nhân
và người nhà giữ khoảng cách thích hợp khi đến
khám, giảm số lượng nhân viên, sử dụng đồ bảo hộ
là những lựa chọn mà các cơ sở y tế lựa chọn phòng
chống dịch, bảo vệ cộng đồng và bản thân.
Bên cạnh đó có một số lượng rất ít lại có phương
án không sử dụng biện pháp phòng ngừa nào. Có
quá chủ quan khi không sử dụng biện pháp để phòng
ngừa lây lan? Đây là câu hỏi có thể trả lời nhiều
phương án nên có thể họ thuộc vào nhóm đóng cửa
cơ sở khám chữa bệnh nên không sử dụng biện pháp
phòng chống nào.
3.7.3. Giải pháp khám từ xa cho bệnh nhân
Khi giãn cách xã hội thì lựa chọn giải pháp khám
bệnh từ xa là một giải pháp an toàn và hợp lý, vừa theo
dõi sơ bộ được tình hình sức khỏe hiện tại của bệnh
Dịch COVID-19 và chăm sóc mắt
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 37
Bệnh viện Trung ương Huế
nhân. Việc này cần phối hợp chặt chẽ giữa nhân viên y
tế và người nhà bệnh nhân. 64% là có thực hiện khám
và có kế hoạch tư vấn từ xa và 36% không có kế hoạch
cho giải pháp khám từ xa cho bệnh nhân.
Khảo sát từ Đại học Saint Louis cho kết quả
tương tự với tỷ lệ có khám và có kế hoạch khám từ
xa là 67% [5].
3.8. Thái độ của nhân viên y tế đối với dịch bệnh
3.8.1. Mức độ lo lắng về đại dịch COVID-19
Trong thang điểm từ 1-5 về mức độ lo lắng thì có
24% số người tham gia lo lắng tình hình dịch bệnh,
và có 3% hầu như không lo lắng gì về dịch bệnh.
Nhưng đứng trong bối cảnh thế giới thì chúng ta rất
đang lo lắng tình hình dịch bệnh, nhưng Việt Nam
chúng ta đã có phương án phòng chống dịch hợp lý.
Với lòng tin tưởng đó nên có 3% người tham gia
khảo sát không lo lắng về dịch bệnh đang xảy ra.
Khảo sát từ Đại học Saint Louis cho kết quả mức
độ lo lắng từ 1 đến 5 lần lượt là 9%, 8%, 21%, 34%
và 28%. [5]. Mức độ lo lắng về dịch bệnh của mọi
người là khá cao ở Việt Nam và trên thế giới.
3.8.2. Vấn đề lo lắng trong 2 tuần đầu khi dịch
xảy ra
Biểu đồ 3: Nỗi lo chính khi đại dịch xảy ra
Khi xảy ra dịch bệnh, nỗi lo lắng của đa số người
tham gia khảo sát là sự lây nhiễm của bệnh cho bệnh
nhân hoặc gia đình. Vì bệnh tiếp tục lan truyền trong
cộng đồng là mối nguy hại không những cho sức
khỏe toàn dân mà còn ảnh hưởng đến văn hóa, kinh
tế, chính trị, giáo dục của toàn xã hội. Do không đi
làm trong quá trình dịch bệnh nên cũng có 38 người
lo lắng về tài chính.
3.8.3. Thái độ xử trí khi khám bệnh nhân nội
trú có nguy cơ mắc/đã mắc COVID-19
Bảng 6: Thái độ xử trí khi gặp bệnh nhân
nguy cơ mắc/đã mắc COVID-19
n %
Chưa gặp trường hợp này 102 92,7
Khám trực tiếp 6 5,5
Khám từ xa (qua điện thoại,) 2 1,8
Tính đến ngày 30/5 nước ta có 327 trường hợp
mắc bệnh [4], bệnh nhân sẽ được điều trị những
bệnh viện đa khoa, bệnh viện nhiệt đới... nên
những bệnh viện chuyên khoa mắt sẽ không có
bệnh đã mắc COVID-19, những trường hợp nguy
cơ mắc bệnh cũng đã được phân luồng cách ly,
theo dõi điều trị nên có đến 102 người tham gia
không tiếp xúc với bệnh nhân có nguy cơ mắc
hoặc đã mắc COVID-19. Có 6 người tham gia
khám trực tiếp và có 2 người có tham gia khám
qua điện thoại.
Khảo sát từ Đại học Saint Louis cho kết quả 184
người chưa gặp trường hợp nghi ngờ, 39 trường hợp
khám trực tiếp và 61 trường hợp khám từ xa (qua
điện thoại) [5]. Cần phải phổ biến thêm hình thức
khám bệnh từ xa qua điện thoại trong tình hình đại
dịch diễn biến phức tạp.
3.9. Cập nhật kiến thức chuyên môn trong
thời gian dịch bệnh
3.9.1. Nguồn cập nhật kiến thức chuyên môn
Trong thời gian dịch bệnh, hoạt động thiết thực
nhất là cập nhật kiến thức cho bản thân. Và tự cập
nhật kiến thức là sự lựa chọn chiếm số lượng lớn
người tham gia khảo sát. Bên cạnh đó giảng dạy
trực tuyến từ các Trường Đại học, các Bệnh viện
chuyên khoa mắt đầu ngành, hội thảo trực tuyến do
các công ty Dược, công ty vật tư trang thiết bị y tế
cũng diễn ra một cách kịp thời và thiết thực.
38 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020
......
Biểu đồ 4: Các hình thức cập nhật kiến thức chuyên môn
3.9.2. Các tổ chức tham gia giảng dạy trực tuyến
Có rất nhiều Trường Đại học, Bệnh viện tổ chức giảng dạy trực tuyến khắp cả nước. Nhưng đầu trong
công tác giảng dạy với số lượng tham gia cập nhật kiến thức lớn nhất là Đại học Y Hà Nội với 48 lựa chọn,
tiếp đến là các Công ty Dược, trang thiết bị y tế có 34 lựa chọn.
3.9.3. Mức độ hiệu quả của hình thức giảng dạy trực tuyến
Biểu đồ 5: Đánh giá mức độ hiệu quả của phương pháp giảng dạy trực tuyến
Cán bộ giảng dạy trực tuyến rất tích cực nhưng với thang điểm từ 1-10 thì giảng dạy trực tuyến không
được đánh giá cao. Lý do chủ yếu vì không có sự tương tác nên dễ gây chán, người nghe với tốc độ đều đều
nên dễ gây buồn ngủ, ngồi trước màn hình vi tính hay điện thoại thường gây mỏi mắt. Nên chỉ có 5 người
đánh giá cao giảng dạy trực tuyến.
3.10. Ý kiến đánh giá và đóng góp về đại dịch
3.10.1. Đánh giá về đại dịch
Biểu đồ 6: Đánh giá về các biện pháp phòng chống COVID-19
Khi dịch xảy ra thì việc chống dịch càng trở nên
quan trọng, những biện pháp can thiệp phù hợp với
tình hình thực tế càng quan trọng để khống chế dịch
bệnh xảy ra. Đa số những người tham gia là cảm
thấy biện pháp hiện tại của Chính phủ, Ban phòng
chống dịch Quốc gia là phù hợp. Một số ít là có ý
kiến cần có nhiều biện pháp can thiệp quy mô lớn
hơn và một số có cảm nhận là đại dịch này bị phản
Dịch COVID-19 và chăm sóc mắt
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 61/2020 39
Bệnh viện Trung ương Huế
ứng thái quá của truyền thông. Thật sự chúng ta
không thể chủ quan về đại dịch này, cần phải hiểu
tầm quan trọng và có cái nhìn đúng về đại dịch.
Kết quả từ một cuộc khảo sát tương tự của Đại
học Saint Louis cho thấy rằng, tỷ lệ người đánh giá
các biện pháp hiện tại phù hợp chỉ là 47% và cần
nhiều biện pháp hơn là 44% [5]. Chứng tỏ Việt Nam
có các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả và
được đánh giá cao.
3.10.2. Các ý kiến đóng góp
Rất có nhiều ý kiến nhận xét thiết thực giúp cho
quá trình phòng chống dịch cũng như giải pháp cho
giảng dạy trực tuyến, phòng chống dịch quy mô hơn
hay là đưa ra các ý kiến về Hội thảo của Câu lạc bộ
của Nhãn khoa như Hội thảo trực tuyến cũng được
đưa ra. Nhưng đa số mọi người vẫn muốn nhanh
chóng hết dịch để có thể Hội thảo trực tiếp, lúc đó
sẽ được trao đổi học tập hiệu quả hơn.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy đứng trước đại dịch
chúng ta vẫn ứng biến kịp thời những khó khăn mà
chúng ta sẽ gặp phải. Để cho một kết quả tốt nhất
trong điều kiện cơ sở vật chất không phải là hiện đại
nhất. So với các nước trên thế giới, Việt Nam đã và
đang được xem là một trong những nước có công
tác phòng chống dịch tốt nhất.
IV. KẾT LUẬN
Trước tình hình dịch bệnh COVID-19 chúng
ta thấy được tầm quan trọng của phòng ngừa dịch
bệnh, thái độ tiếp nhận, nhận thức của từng cá nhân
rất quan trọng. Nên chúng ta đã đưa ra những xử trí
để ứng biến kịp thời trước phức tạp của dịch bệnh,
vừa đảm bảo công tác khám chữa bệnh, công tác
phòng chống dịch, cập nhật kiến thức chuyên môn.
Đến thời điểm bây giờ dịch bệnh ở Việt Nam đang
tạm yên nhưng tình hình thế giới vẫn đang diễn biến
phức tạp. Chúng ta vẫn nên duy trì các biện pháp
phòng chống dịch tối thiểu có thể như khai báo y
tế, tấm chắn kính sinh hiển vi, đeo khẩu trang, rửa
tay,... để đảm bảo dịch không tái bùng phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Seah I. and Agrawal R. (2020), “Can the
Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) Affect
the Eyes? A Review of Coronaviruses and Ocular
Implications in Humans and Animals”, Ocular
Immunology and Inflammation, 28, pp. 391 - 395.
2. Guan W.J., Ni Z.Y., Hu Y., et al. (2020), “Clinical
Characteristics of Coronavirus Disease 2019 in
China”, N Engl J Med, 382, pp. 1708 - 1720.
3. Sidner S. (2020). Care home nurse tells of
sudden ways the virus struck her patients.
<https://edition.cnn.com/2020/03/23/health/
coronavirus-nurses-inside-washington-care-
home/index.html>, accessed: 05/30/2020.
4. Vi-rút corona (COVID-19) - Google Tin tức.
<https://news.google.com/covid19/map?
hl=vi&gl=VN&ceid=VN:vi>, accessed:
05/30/2020.
5. Ophthalmology practice in the time of
COVID-19. <https://docs.google.com/
forms/d/e/1FAIpQLScIQ_6nCOVR8KqbMZ
iVSXoYBWTJfd0gexkJkpGgtWmiEO9-fQ/
viewanalytics>, accessed: 05/30/2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dich_covid_19_va_cham_soc_mat.pdf