BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã tách Tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em của Điều 120 của BLHS năm
1999 thành 03 tội danh độc lập là Tội mua bán
người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh tráo
người dưới 01 tuổi (Điều 152) và Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153). Có thể
khẳng định, việc quy định tội danh ghép như
quy định tại Điều 120 của BLHS năm 1999
chưa phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội cũng như chưa đảm
bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Do vậy,
các điều 151,152 và 153 của BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017)đã quy định thành
03 tội danh độc lập với chính sách xử lý
khác nhau.
Để đảm bảo tính chất rõ ràng, dễ áp dụng,
pháp luật dần hoàn thiện, chi tiết hơn, phù hợp
với tinh thần của các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên tham gia, BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thay thế cụm từ
“tỷ lệ thương tật” thành “tỷ lệ tổn thương cơ thể”
để phù hợp với các văn bản chuyên ngành7; “trẻ
em” thành “người dưới 16 tuổi”8; “nhiều người”
thành “02 người trở lên”; “phạm tội nhiều lần”
thành “phạm tội từ 02 lần trở lên”; “gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”
thành “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ ” và “làm nạn nhân tự sát”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điểm mới của bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các tội xâm phạm nhân phẩm của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
16
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
(SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017) VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI
Lê Văn Lương1
Tóm tắt: Mọi hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của con người, của công dân đều
phải bị lên án kịp thời và xử lý phù hợp nhằm tạo lập trật tự pháp luật, duy trì sự ổn định của đời
sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân hoàn thiện và phát triển bản thân mình, được sáng
tạo và cống hiến không hạn chế. Nhằm tạo lập cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống các hành vi phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người, những giá trị thuộc về phẩm giá
của con người. Bài viết đưa ra một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về các tội xâm phạm nhân phẩm của con người để trao đổi cùng bạn đọc.
Từ khóa: Trách nhiệm hình sự; phòng ngừa tội phạm; xâm phạm nhân phẩm của con người.
Ngày nhận bài: 10/01/2018; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng:
30/1/2018.
Abstract: All acts of violating legitimate rights, interests of human, citizen must be timely
condemned and properly punished to protect social order, maintain the stability of social life, creating
favorable condition for individuals to perfect and develop themselves, create and contribute without
limitation. With the aim to set up legal ground for the activity of preventing and struggling against
the acts of violating dignity of human, values belonging to personal dignity. The article brings
forward some new points in the Criminal Code 2015 (amended, supplemented in 2017) on crimes
of violating dignity of human for discussion.
Keywords: Criminal responsibility; prevention of crime; violating human’s dignity
Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision: 18/01/2018; Date of approval: 30/1/2018.
Chúng ta biết rằng, công bằng, nhân đạo, dân
chủ, pháp chế là giá trị chung của nền văn minh
nhân loại, đồng thời, được coi là giá trị tự thân,
là các quan điểm, tư tưởng pháp lý tiến bộ trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thể chế
chính trị luôn coi các quyền và tự do của con
người là những giá trị xã hội cao quý nhất. Điều
20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm”2. Như vậy, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nhà nước mà ở đó pháp luật được
tôn trọng và đề cao, đã chính thức thừa nhận và
đảm bảo trên thực tế mọi quyền lợi và nghĩa vụ
của con người, của công dân. Bộ luật Hình sự
(BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
đã quy định tại chương XIV Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người (từ Điều 123 đến Điều 156), trong đó
Các tội xâm phạm nhân phẩm của con người
được quy định tại 12 điều luật bao gồm: Tội hiếp
dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm (Điều 143); Tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
(Điều 144); Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng
1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh, Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
17
người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
(Điều 147); Tội mua bán người (Điều 150); Tội
mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh
tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152); Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); Tội mua bán,
chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều
154) tạo điều kiện cho việc phát hiện, điều tra,
xử lý nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả đối với
nhóm tội phạm này trong thực tiễn.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá toàn diện bối
cảnh mới của tình hình hiện nay, nhằm thể chế
hóa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước
trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần
thứ XII của Đảng và các Nghị quyết của Bộ
Chính trị như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số
48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đặc biệt,
với sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con
người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp năm 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện các quy định của BLHS hiện hành để làm
cho các quyền này của người dân được thực hiện
trên thực tế3. Trên tinh thần quan điểm đó, sau
một thời gian chuẩn bị dự thảo BLHS, thẩm tra
dự án BLHS, lấy ý kiến nhân dân, các ban ngành,
đoàn thể, các Đại biểu Quốc hội về dự thảo
BLHS năm 2015 (sửa đổi), ngày 20/6/2017 tại
kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã chính thức
thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ
sung của BLHS số 100/2015/QH13 (sau đây gọi
tắt là BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Đặc biệt, liên quan đến các quy định về
các tội xâm phạm nhân phẩm của con người có
một số thay đổi cơ bản về vị trí của chương, kỹ
thuật lập pháp, hình sự hóa, phi hình sự hóa một
số trường hợp phạm tội xâm phạm nhân phẩm
của con người, bổ sung và thay đổi một số dấu
hiệu định tội, dấu hiệu định khung, sửa đổi quy
định về hình phạt đối với các tội xâm phạm nhân
phẩm của con người4. Cụ thể:
Thứ nhất, thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự
đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi
Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước
trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải
thể hiện tính khoan hồng và nhân đạo sâu sắc,
với ý nghĩa đó, việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người
dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở
thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi
trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm
tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải xác định khả năng
nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều
kiện gây ra tội phạm. Việc truy cứu trách nhiệm
hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất
của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về
nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội
phạm. Xuất phát từ quan điểm, mục tiêu nêu trên
tại Điều 12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
3 TS.Hoàng Minh Đức (2016), Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay và
phương hướng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
4 PGS. TS Nguyễn Thị Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.179-185.
TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.310-347.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
18
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143,
144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248,
249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290,
299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Như vậy, trong tương quan so sánh với
BLHS năm 1999 quy định về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã thu hẹp đáng kể phạm vi
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm nhân phẩm của con người của người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Theo đó, người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều 141 (Tội hiếp dâm), 142
(Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi), 143 (Tội
cưỡng dâm), 144 (Tội cưỡng dâm người tử đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi).
Thứ hai, quy định không xử lý về hình sự đối
với trường hợp chuẩn bị phạm tội xâm phạm
nhân phẩm của con người
Điều 14 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định:
“1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn
công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều
kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập,
tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành
lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại
Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một
trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114,
115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168,
169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ
luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều
168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm
hình sự.”.
Như vậy, thay vì người chuẩn bị phạm một
tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm
trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
định thực hiện, bất kể tội phạm đó là tội phạm gì
thuộc nhóm các tội xâm phạm nhân phẩm của
con người, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định theo hướng không xử lý về
hình sự đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội
xâm phạm nhân phẩm của con người.
Thứ ba, hình sự hóa một số hành vi phạm tội
xâm phạm nhân phẩm của con người
Hình sự hóa hành vi sử dụng người dưới 16
tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147). Thực
tiễn cho thấy, Điều 116 BLHS năm 1999 quy
định về tội dâm ô với trẻ em chưa bao quát hết
các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra
trong thời gian qua. Theo quy định của điều luật
này, thì hành vi dâm ô đối với trẻ em có thể
được thực hiện qua việc dùng tay (hoặc bất cứ
bộ phận nào của cơ thể) chạm, sờ, mó, hôn hít
(kích thích) vào những nơi nhạy cảm về tình
dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em làm ngược lại
đối với mình, dùng bộ phận sinh dục của mình
chạm vào bộ phận sinh dục của trẻ em (trừ hành
vi giao cấu). Tuy nhiên, nhiều trường hợp người
phạm tội ép buộc trẻ em phải biểu diễn các hành
vi khiêu dâm, đóng phim khiêu dâm hoặc buộc
trẻ em phải xem những hình ảnh khiêu dâm...
lại không bị xử lý hình sự do không có căn cứ
pháp lý. Xuất phát từ thực tế đó, BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định
người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ,
ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm
hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu
dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm.
Hình sự hóa hành vi, mua bán, chiếm đoạt
mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154). Theo
đó, người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ
phận cơ thể người khác, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm. Việc hình sự hóa các hành vi lợi
dụng quy định của pháp luật hiện nay cho phép
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
19
tự nguyện hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác người để thực hiện hành vi
mang tính chất thương mại hoặc dùng mọi thủ
đoạn để chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể
người vào các mục đích khác nhau gây nguy
hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác và
ảnh hưởng đến trật tự xã hội cần phải bị trừng trị
nghiêm khắc là phù hợp.
Bổ sung thêm dấu hiệu định tội: “Thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác” trong cấu thành
tội phạm của Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng
dâm (Điều 143); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
(Điều 146). Theo quy định của BLHS năm 1999
thì yếu tố bắt buộc để chứng minh một người
phạm tội hiếp dâm (hiếp dâm trẻ em) hoặc
cưỡng dâm (cưỡng dâm trẻ em) hoặc giao cấu
với trẻ em ở giai đoạn tội phạm hoàn thành là
việc thực hiện hành vi “giao cấu” với nạn nhân.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở
nước ta thời gian qua, hành vi “giao cấu” luôn
được hiểu theo nghĩa truyền thống, tại Bản tổng
kết và hướng dẫn đường lối xét xử về tội hiếp
dâm và một số tội phạm xâm phạm tình dục
khác số 329/HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án
nhân dân tối cao nêu: “Giao cấu là chỉ cần có
sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh
dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở
vào) với ý thức nhấn vào trong không kể sự xâm
nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể
có xuất tinh hay không là tội hiếp dâm được coi
hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm, danh dự của
người phụ nữ đã bị chà đạp”5. Như vậy, giao
cấu được hiểu là hành vi đưa bộ phận sinh dục
của nam giới vào âm hộ của nữ giới, với ý thức
ấn sâu vào bên trong. Việc hiểu hành vi giao cấu
như trên vô hình chung không bao hàm được
những trường hợp có hành vi quan hệ tình dục
giữa người đồng tính, song tính, chuyển giới
(LGBT) dẫn đến khó khăn trong thực tiễn công
tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự về tội
phạm xâm phạm tình dục của người khác.
Chính vì vậy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã bổ sung thêm dấu hiệu định
tội thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm
tình dục của người khác.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã bổ sung một số dấu hiệu định khung
như: “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức
khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của
nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ” ,
“Đối với người mà người phạm tội có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh”, “Phạm
tội có tổ chức” trong cấu thành tội phạm của
các tội thuộc nhóm các tội xâm phạm nhân
phẩm của con người.
Thứ tư, hoàn thiện về mặt nội dung pháp lý
và kỹ thuật lập pháp đối với nhóm các tội xâm
phạm nhân phẩm của con người
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã sửa đổi quy định về Tội mua bán
người (Điều 150) và Tội mua bán người dưới
16 tuổi (Điều 151). Trước đây, Điều 119 và
Điều 120 BLHS năm 1999 quy định về Tội
mua bán người và Tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em nhưng không quy định cụ thể
hành vi khách quan của tội phạm, do đó, thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự gặp phải những
khó khăn nhất định. Theo Thông tư liên tịch số
01/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BQP-BTPngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành
vi mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc
5 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử về tội hiếp dâm và một số tội phạm xâm phạm tình dục khác số
329/HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
20
chiếm đoạt trẻ em6, thì mua bán người là hành
vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất
khác để trao đổi người như một loại hàng hóa
thuộc trường hợp: Bán người cho người khác,
không phụ thuộc vào mục đích của người mua;
Mua người để bán lại cho người khác, không
phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người
mua sau này thế nào; Dùng người như là tài sản
để trao đổi, thanh toán; Mua người để bóc lột,
cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái
pháp luật khác. Mặc dù vậy, hướng dẫn này vẫn
chưa cụ thể, chưa thể chế hóa đầy đủ tinh thần
của Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. Chính vì thế, Tội
mua bán người (Điều 150) và Tội mua bán
người dưới 16 tuổi (Điều 151) BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được sửa đổi
phù họp hơn để khắc phục được những khó
khăn trong thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm theo hướng mô tả cụ thể hành
vi khách quan của tội phạm, bao gồm thủ
đoạn phạm tội, hành vi phạm tội và mục đích
phạm tội.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã tách Tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em của Điều 120 của BLHS năm
1999 thành 03 tội danh độc lập là Tội mua bán
người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh tráo
người dưới 01 tuổi (Điều 152) và Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153). Có thể
khẳng định, việc quy định tội danh ghép như
quy định tại Điều 120 của BLHS năm 1999
chưa phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội cũng như chưa đảm
bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Do vậy,
các điều 151,152 và 153 của BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017)đã quy định thành
03 tội danh độc lập với chính sách xử lý
khác nhau.
Để đảm bảo tính chất rõ ràng, dễ áp dụng,
pháp luật dần hoàn thiện, chi tiết hơn, phù hợp
với tinh thần của các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên tham gia, BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thay thế cụm từ
“tỷ lệ thương tật” thành “tỷ lệ tổn thương cơ thể”
để phù hợp với các văn bản chuyên ngành7; “trẻ
em” thành “người dưới 16 tuổi”8; “nhiều người”
thành “02 người trở lên”; “phạm tội nhiều lần”
thành “phạm tội từ 02 lần trở lên”; “gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”
thành “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân từ” và “làm nạn nhân tự sát”.
Thứ năm, sửa đổi quy định về hình phạt đối
với các tội xâm phạm nhân phẩm của con
người
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã điều chỉnh hình phạt ở một số tội
phạm cụ thể. Cụ thể, đối với Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi (Điều 142) củng với việc
quy định hành vi giao cấu với người dưới 13
tuổi về cấu thành tội phạm cơ bản của tội này,
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
giảm mức hình phạt đối với hành vi phạm tội,
khung hình phạt mới là từ 7 năm đến 15 năm;
đối với Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Điều 145), BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm
hình phạt bổ sung tại Khoản 4; đối với tội
cưỡng dâm đã tăng mức hình phạt tại Khoản 1
và Khoản 3.
(Xem tiếp trang 25)
6 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP của Tòa án Nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư Pháp ngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
7 Thông tư liên tịch 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013 của Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội quy định về tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp. Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày
12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp lý, giám định pháp y tâm thần.
8 Luật Trẻ em năm 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- diem_moi_cua_bo_luat_hinh_su_nam_2015_sua_doi_bo_sung_nam_20.pdf