Nhân dân phân công cho Toà án
thực hiện quyền tư pháp
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định
về chức năng, hệ thống và nhiệm vụ của
TAND. Về chức năng, khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định
TAND là cơ quan có chức năng xét xử. Xét
xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc; từ đó, Tòa án nhân danh
Nhà nước đưa ra phán quyết về tính hợp
pháp của vụ việc. Bản chất của xét xử là
việc giải quyết tranh chấp trong quá trình
thực hiện pháp luật. Trong bộ máy Nhà
nước ta, TAND là cơ quan duy nhất có chức
năng xét xử. Lần đầu tiên trong lịch sử lập
hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 xác
định rõ TAND là cơ quan “thực hiện quyền
tư pháp”. Bổ sung nội dung này nhằm thể
chế hóa quan điểm về phân công, phối hợp
và kiểm soát quyền lực nhà nước đã được
hiến định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm
2013. Với những quy định Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, lập pháp (Điều 69);
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
(Điều 94); TAND thực hiện quyền tư pháp
(Điều 102); Hiến pháp năm 2013 đã thể
hiện tư tưởng phân công quyền lực nhà
nước một cách triệt để hơn, rạch ròi hơn.
Điểm mới này còn có ý nghĩa quan trọng là
tạo ra nhận thức về quyền tư pháp theo
nghĩa hẹp, phù hợp với thông lệ quốc tế: chỉ
có Toà án mới thực hiện quyền tư pháp và
quyền tư pháp tập trung cho Toà án chứ
không chia sẻ cho các cơ quan khác như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát,. Toà án đã trở
thành một nhánh quyền lực thực sự và trở
nên độc lập hơn, mạnh mẽ hơn và có khả
năng “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”6.
Việc phân công quyền lực triệt để như thế là
cơ sở để Nhân dân kiểm soát việc thực hiện
quyền tư pháp mà Nhân dân đã uỷ quyền
cho Toà án thực hiện.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điểm mới trong hiến pháp năm 2013 về phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÀIÏÍM MÚÁI TRONG HIÏËN PHAÁP NÙM 2013 VÏÌ PHÊN CÖNG
QUYÏÌN LÛÅC GIÛÄA LÊÅP PHAÁP, HAÂNH PHAÁP VAÂ TÛ PHAÁP
NguyễN MạNH HùNg*
Võ HồNg Tú**
Bài viết tập trung phân tích những điểm mới của Hiến pháp năm 2013, làm sáng
tỏ tinh thần quyền lập hiến thuộc về Nhân dân và chính Nhân dân là người phân
công việc thực hiện quyền lực nhà nước. Bằng Hiến pháp năm 2013, Nhân dân
phân công cho Quốc hội thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp; Toà án thực hiện quyền tư pháp.
* ThS, Phó Trưởng khoa Luật hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** Giảng viên Luật Hiến pháp, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
1 Nguyễn Sĩ Dũng - “Hiến pháp năm 1946 với tư tưởng pháp quyền” - tại Hội thảo “Phát huy những giá trị lịch sử, chính
trị, pháp lý của Hiến pháp năm 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu
Khoa học, Văn phòng Quốc hội, tổ chức tháng 01/2007.
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1. Quyền lập hiến thuộc về Nhân dân theo
Hiến pháp năm 2013
Trong một xã hội dân chủ, để tình trạng
lạm quyền không xảy ra thì Hiến pháp phải
được đặt cao hơn nhà nước. Về mặt lý luận,
điều này có thể đạt được bằng hai cách: (i)
Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông
qua; (ii) hoặc Hiến pháp phải do toàn dân
thông qua. Hiến pháp năm 1946 là do một
Quốc hội lập hiến thông qua1. Sau khi thông
qua Hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ
chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện
nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến
pháp. Tư tưởng quyền lập hiến thuộc về
Nhân dân và lập hiến bằng con đường Quốc
hội lập hiến được thể hiện rõ trong Lời nói
đầu của Hiến pháp năm 1946: “Được quốc
dân trao cho trách nhiệm thảo bản hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Quốc hội nhận thấy rằng”. Vậy, chủ
thể của quyền lập hiến ở đây là quốc dân.
Quốc hội là chủ thể được quốc dân bầu ra
để đại diện quốc dân thực hiện quyền lập
hiến. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 có
chữ “Quốc hội”, trong Chương III có quy
định về “Nghị viện nhân dân”. Điều này cho
thấy có sự phân biệt giữa Quốc hội lập hiến
và Quốc hội lập pháp. “Quốc hội” ở Lời nói
đầu là để chỉ Quốc hội lập hiến. Còn “Nghị
viện nhân dân” ở Chương III là Quốc hội lập
pháp. Điều này được thể hiện rõ hơn khi quy
định về Nghị viện nhân dân, Hiến pháp chỉ
ấn định: “Nghị viện nhân dân có quyền đặt
ra các pháp luật” (Điều 23) tức là có
quyền lập pháp, chứ không có quyền lập
hiến. Sự phân biệt giữa quyền lập hiến và
quyền lập pháp dẫn đến việc phân cấp hiệu
lực pháp lý giữa Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác: Hiến pháp có hiệu lực pháp
lý tối cao, các văn bản pháp luật khác phải
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
hợp hiến2. Hiến pháp năm 1946 cũng thể
hiện tinh thần tối cao của một bản Hiến pháp
dân chủ ở chỗ: việc sửa đổi Hiến pháp cũng
phải được quyết định bởi Nhân dân. Theo
Điều 70 Hiến pháp năm 1946 thì chủ thể đề
nghị sửa đổi Hiến pháp được trao cho cơ
quan lập pháp. Tính chất đặc biệt so với việc
sửa đổi các văn bản luật khác là phải có 2/3
tổng số Nghị viên yêu cầu. Hiến pháp năm
1946 áp dụng phương thức Nhân dân trực
tiếp tham gia sửa đổi Hiến pháp. Cơ quan
lập pháp (Nghị viện nhân dân) đảm nhận
chức năng dự thảo sửa đổi Hiến pháp, sau
đó dự thảo này phải được đem ra Nhân dân
phúc quyết. Song, do hoàn cảnh chiến tranh,
nên việc bầu Nghị viện nhân dân chưa thực
hiện được. Quốc hội đã thảo luận và nhất trí
giao cho Ban thường trực Quốc hội phối hợp
với Chính phủ để quy định việc thi hành
Hiến pháp. Quốc hội tiếp tục hoạt động,
gánh vác trách nhiệm mới, làm nhiệm vụ lập
hiến và cả nhiệm vụ lập pháp.
Đồng thời, do hoàn cảnh lịch sử và chịu
ảnh hưởng của tư duy tập quyền XHCN nên
hệ quả tất yếu là chúng ta đã đề cao Quốc
hội: coi quyền lập hiến thuộc về Quốc hội,
không có sự tách bạch giữa lập hiến và lập
pháp, quyền phúc quyết về Hiến pháp của
Nhân dân không được thừa nhận trong các
bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992.
Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền lập
hiến thuộc về Nhân dân. Lời nói đầu của
Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ: “Nhân
dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ
Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bên
cạnh đó, nếu như Điều 146 Hiến pháp năm
1992 quy định: “Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là luật cơ bản của Nhà
nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn
bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp”; thì khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm
2013 sửa lại: “Hiến pháp là luật cơ bản của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật
khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành
vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”. Như
vậy, theo Hiến pháp năm 2013 thì Hiến pháp
không phải là luật cơ bản của Nhà nước mà
là luật cơ bản của nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam, tức là luật cơ bản của Nhân dân.
Lịch sử lập hiến của nhân loại đã cho
thấy, không thể quan niệm Hiến pháp là
công cụ trong tay của Nhà nước để quản lý
Nhân dân mà Hiến pháp phải là công cụ
trong tay của Nhân dân để kiểm soát Nhà
nước. Vì vậy, quyền lập hiến phải thuộc về
Nhân dân chứ không thuộc về Nhà nước.
Khẳng định quyền lập hiến thuộc về Nhân
dân là vấn đề cốt lõi nhất trong quy trình
lập hiến bởi vì từ đây sẽ xác định nhận
thức đúng đắn về bản chất và nội dung của
Hiến pháp; về thủ tục sửa đổi Hiến pháp;
về hiệu lực của Hiến pháp cũng như về cơ
chế bảo hiến.
Về thủ tục thông qua Hiến pháp, cơ bản
Hiến pháp năm 2013 quy định giống với
Hiến pháp năm 1992 là: “Hiến pháp được
thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số
đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 có bổ sung
thêm nội dung mới: “Việc trưng cầu ý dân
về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.
Trưng cầu ý dân trong quy trình lập hiến là
một xu hướng chung của nền lập hiến nhân
loại vì đây chính là phương thức thể hiện rõ
nét nhất tư tưởng quyền lập hiến thuộc về
Nhân dân. Tuy nhiên, để thực hiện được
trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như trình độ
dân trí, tiềm lực kinh tế, tình hình an ninh
của đất nước,... Trong điều kiện của nước ta
hiện nay, Hiến pháp năm 2013 giao cho
Quốc hội tuỳ từng trường hợp cụ thể mà
quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
Quy định này vừa có ý nghĩa đảm bảo quyền
lập hiến thuộc về Nhân dân, phù hợp với xu
hướng lập hiến chung ở nhiều quốc gia trên
thế giới; vừa phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh thực tế ở Việt Nam.
2 Nguyễn Mạnh Hùng, Nhân tố pháp quyền trong Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 7/2011.
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Về hiệu lực của Hiến pháp và cơ chế
bảo hiến, Hiến pháp năm 2013 không chỉ
quy định: “Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp” như Hiến pháp năm
1992 mà còn bổ sung thêm “Mọi hành vi vi
phạm Hiến pháp đều bị xử lý”. Hiến pháp
không chỉ có hiệu lực tối cao trong hệ thống
pháp luật mà còn có hiệu lực tối cao trong
đời sống xã hội. Lịch sử lập hiến gần 300
năm của nhân loại đã chỉ ra rằng, trong một
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh thì tất
cả các chủ thể đều phải tuân thủ Hiến pháp
và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp.
Không một chủ thể nào được đặt cao hơn
Hiến pháp, đặt ngang hàng với Hiến pháp
hay đặt ngoài Hiến pháp. Để Hiến pháp
thực sự “là luật cơ bản của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao
nhất” và để “Mọi văn bản pháp luật khác
phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi
vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” thì Hiến
pháp năm 2013 đã bổ sung thêm quy định
mới về cơ chế bảo hiến ở khoản 2 Điều
119: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân
(TAND), Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND), các cơ quan khác của Nhà nước
và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo
vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do
luật định”. Với tinh thần quyền lập hiến
thuộc về Nhân dân đã được nêu ra trong
Lời nói đầu thì trách nhiệm bảo vệ Hiến
pháp không chỉ thuộc về các cơ quan trong
bộ máy nhà nước mà còn thuộc về toàn thể
Nhân dân. Về phần mình, các cơ quan
trong bộ máy nhà nước không chỉ bảo vệ
Hiến pháp thông qua quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao
mà còn bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ chế
độc lập do luật định. Để triển khai thi hành
quy định này của Hiến pháp năm 2013, các
luật về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước phải thể hiện
được nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp của từng
cơ quan; thậm chí có ý kiến cho rằng, Quốc
hội nên ban hành một đạo luật về bảo hiến
chung cho tất cả các cơ quan trong bộ máy
nhà nước.
2. Với tư cách là chủ thể của quyền lực
nhà nước, Nhân dân phân công việc thực
hiện quyền lực nhà nước
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện
nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta là: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân”. Đây là nguyên tắc cơ bản phản
ánh bản chất dân chủ của Nhà nước ta và là
tư tưởng xuyên suốt trong các bản Hiến
pháp Việt Nam, nhưng do những điều kiện
hoàn cảnh khác nhau của lịch sử, các bản
Hiến pháp Việt Nam đã có sự diễn đạt khác
nhau về cùng ý tưởng này.
Hiến pháp năm 1946 được ban hành
trong hoàn cảnh “thù trong giặc ngoài” đang
tìm mọi cách để chống phá chính quyền
nhân dân non trẻ. Do vậy, một trong những
nguyên tắc quan trọng chi phối nội dung các
quy định của Hiến pháp năm 1946 là “Đoàn
kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái
trai, giai cấp, tôn giáo” nhằm hướng tới bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ quan trọng là
“bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn
và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân
chủ”. Vì vậy, Điều 1 Hiến pháp năm 1946
quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”. Hiến pháp năm 1959 vẫn tiếp
tục quy định Nhà nước ta là Nhà nước “dân
chủ nhân dân”, mặc dù trên thực tế cách
mạng Việt Nam đã chuyển sang làm nhiệm
vụ chuyên chính vô sản. Tính giai cấp vô sản
thể hiện ở Lời nói đầu của Hiến pháp: “Nhà
nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”. Hiến pháp năm
1980 đã công khai bản chất chuyên chính vô
sản của Nhà nước trong Điều 2 “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước
chuyên chính vô sản”. Điều 2 Hiến pháp
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy
định về bản chất nhà nước: “Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
đội ngũ trí thức”. Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 1992 đã bổ sung
vào Điều 2 nội dung “Nhà nước pháp quyền
XHCN” nhằm thể chế hoá quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Báo cáo
chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX. Trong
Nhà nước pháp quyền, pháp luật ngự trị và
chi phối mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Hoạt động của Nhà nước cũng như mọi thiết
chế, mọi thành viên trong xã hội đều chịu sự
ràng buộc của pháp luật. Do đó, Nhà nước
pháp quyền phải là Nhà nước có hệ thống
pháp luật hoàn thiện, bảo đảm được những
yêu cầu của sự điều chỉnh bằng pháp luật.
Có thể nói, xây dựng Nhà nước pháp quyền
là xu thế tất yếu của các quốc gia dân chủ.
Việc bổ sung nội dung “Nhà nước pháp
quyền XHCN” vào Điều 2 là nhằm làm rõ
hơn bản chất của Nhà nước ta, “pháp quyền”
ở đây được sử dụng với tư cách là một tính
từ đứng ngay bên cạnh tính từ “XHCN” bổ
sung cho nhau làm nổi bật bản chất “Nhà
nước của dân, do dân và vì dân” của Nhà
nước ta. Việc đặt thành mục tiêu, nhiệm vụ
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
chính là để bảo đảm hơn nữa khả năng thực
tế Nhân dân có thể được hưởng đầy đủ các
quyền dân chủ tự do, bình đẳng trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã
hội
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân. Nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”. Với việc viết hoa hai chữ “Nhân
dân” (để khẳng định “Nhân dân” mới là chủ
thể thực sự của quyền lực nhà nước) và bổ
sung thêm đoạn “Nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam do Nhân dân làm chủ” đã làm sâu
sắc và đầy đủ hơn bản chất dân chủ của Nhà
nước ta. Với tư cách là người chủ thực sự
của đất nước thì hệ quả tất yếu là chính
Nhân dân mới là chủ thể phân công việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Và bản Hiến
pháp năm 2013 chính là công cụ trong tay
của Nhân dân để phân công và kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước.
3. Bằng Hiến pháp năm 2013, Nhân dân
phân công cho Quốc hội thực hiện quyền
lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp; Toà án thực hiện quyền tư
pháp
3.1. Nhân dân phân công cho Quốc
hội thực hiện quyền lập pháp
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định
về vị trí và tính chất pháp lý của Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Về cơ
bản, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 vẫn quy
định Quốc hội có hai tính chất là “cơ quan
đại biểu cao nhất của Nhân dân” và là “cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Tuy nhiên, so
với Điều 83 Hiến pháp năm 1992 thì Điều
69 Hiến pháp năm 2013 có hai điểm mới cơ
bản sau đây:
Một là, Điều 69 Hiến pháp năm 2013
không quy định “Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp” mà chỉ
quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp” (bỏ đi hai từ “duy
nhất”). Với việc bỏ đi hai từ “duy nhất”, một
mặt Hiến pháp năm 2013 khẳng định lập
hiến là một quy trình phức tạp nên cần có sự
tham gia của nhiều chủ thể vào nhiều giai
đoạn khác nhau của quy trình này3; mặt
khác, diễn đạt như thế là phù hợp với tinh
thần của Hiến pháp năm 2013: quyền lập
hiến thuộc về Nhân dân. Trong điều kiện của
nước ta hiện nay thì Nhân dân ủy quyền cho
Quốc hội thay mặt Nhân dân thực hiện
quyền lập hiến.
Hai là, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 có
sự phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền
lập pháp (Hiến pháp năm 1992 coi quyền
lập hiến và lập pháp là một quyền). Đây là
một bước tiến cơ bản về mặt nhận thức vì
trong cơ chế tập quyền XHCN thì toàn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân;
nhưng thông qua bầu cử, Nhân dân đã trao
toàn bộ quyền lực đó cho Quốc hội. Từ đây
3 Xem Điều 120 Hiến pháp năm 2013.
4 Trần Ngọc Đường, Chế định Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013, Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2014, tr. 309.
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
đã dẫn đến nhận thức là Quốc hội phải có
toàn quyền: Quốc hội vừa có quyền lập hiến,
vừa có quyền lập pháp và chính Quốc hội
đứng ra phân công việc thực hiện quyền lực
nhà nước, các cơ quan nhà nước khác chỉ là
cơ quan phái sinh từ Quốc hội mà thôi. Vì
thế, trong cơ chế tập quyền XHCN thì Hiến
pháp bị đặt ở một hệ cấp tương đương với
thường luật, đều do Quốc hội ban hành và
đều là công cụ trong tay của Nhà nước để
quản lý. Việc phân biệt giữa quyền lập hiến
và quyền lập pháp là một trong những yêu
cầu cốt lõi của dân chủ pháp quyền. Trong
Nhà nước pháp quyền dân chủ thì quyền lập
hiến phải thuộc về Nhân dân. Nhân dân sử
dụng quyền lập hiến để thiết lập quyền lực
nhà nước, trong đó có quyền lập pháp4. Do
đó, quyền lập hiến phải đặt cao hơn quyền
lập pháp và Hiến pháp phải là văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất, là công cụ trong
tay của Nhân dân để kiểm soát Nhà nước.
3.2. Nhân dân phân công cho Chính
phủ thực hiện quyền hành pháp
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định
về vị trí, tính chất và chế độ trách nhiệm của
Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam. Các bản Hiến pháp trong lịch sử lập
hiến Việt Nam có sự khác nhau khi quy định
về vị trí, tính chất pháp lý của Chính phủ:
Hiến pháp năm 1946 quy định “Chính phủ
là cơ quan hành chính cao nhất của toàn
quốc”. Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp
năm 1959 được xác định là “Cơ quan chấp
hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Điều 104 Hiến pháp năm 1980 quy định:
“Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cơ quan chấp
hành và hành chính nhà nước cao nhất của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Điều
này có nghĩa là Chính phủ mới thực sự là cơ
quan hành chính cao nhất, tính hành chính
của Hội đồng Bộ trưởng khá mờ nhạt. Hội
đồng Bộ trưởng không có sự độc lập và lệ
thuộc vào Quốc hội ngay trong lĩnh vực
quản lý. Điều 109 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung 2001) quy định: “Chính phủ là
cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Quy định này
cho thấy tính hành chính của Chính phủ
được chú trọng và nhấn mạnh trở lại. Trong
lĩnh vực quản lý, Chính phủ được chủ động
và độc lập hơn so với Hiến pháp năm 1980.
Điều này phản ánh khá rõ nét tư duy phân
công rành mạch giữa lập pháp và hành pháp.
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước”.
So với Điều 109 Hiến pháp năm 1992
thì Điều 94 Hiến pháp năm 2013 có hai
điểm mới sau đây: Thứ nhất, Điều 94 Hiến
pháp năm 2013 đặt tính “hành chính cao
nhất” của Chính phủ lên trước tính “chấp
hành”, điều này cho thấy Chính phủ phải
được nhận thức là cơ quan được lập ra trước
hết là để thực hiện chức năng điều hành,
quản lý trên cơ sở chấp hành đường lối, chủ
trương trong Hiến pháp, luật và nghị quyết
của Quốc hội chứ không phải là cơ quan
được lập ra chỉ để phục tùng và báo cáo
công tác trước Quốc hội. Thứ hai, lần đầu
tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Điều
94 Hiến pháp năm 2013 chính thức quy định
Chính phủ “thực hiện quyền hành pháp”.
Khi nói Chính phủ “thực hiện quyền hành
pháp” thì người ta thường nghĩ ngay đây là
cơ quan có nhiệm vụ thi hành pháp luật.
Nhưng thực tế thì thi hành pháp luật chỉ là
một nội dung cơ bản của quyền hành pháp.
5 Kiều Đình Thụ, Chế định Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2014, tr. 431.
6 Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 12(316) T6/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Theo nghĩa hiện đại thì “thực hiện quyền
hành pháp” bao gồm các hoạt động chủ yếu
sau: 1. Tham gia hoạch định chính sách
quốc gia; 2. Dự thảo và trình Quốc hội các
dự án luật; 3. Ban hành kế hoạch, chính sách
cụ thể, những văn bản dưới luật để thực thi
các chủ trương, chính sách, luật đã được
Quốc hội thông qua; 4. Chỉ đạo, hướng dẫn,
điều hành và giám sát việc thực hiện các kế
hoạch, chủ trương, chính sách; 5. Thiết lập
trật tự hành chính trên cơ sở của luật; 6. Phát
hiện, xác minh, xử lý các vi phạm theo thẩm
quyền hoặc chuyển cho TAND xét xử theo
trình tự, thủ tục tư pháp5. Quy định mới này
thể hiện tư duy phân công rạch ròi giữa các
nhánh quyền lực, Chính phủ nắm một loại
quyền lực thực sự chứ không còn là thân
phận “phái sinh” từ Quốc hội. Với tư cách
là cơ quan thực hiện một loại quyền lực nhà
nước - quyền hành pháp - Chính phủ được
độc lập, chủ động và trách nhiệm hơn trong
việc điều hành, quản lý đất nước. Sở dĩ
Hiến pháp năm 2013 quy định cho Chính
phủ vị trí và thân phận như thế là bởi Chính
phủ trực tiếp nhận “quyền hành pháp” từ
Nhân dân, chính Nhân dân mới phân công
Chính phủ thực hiện “quyền hành pháp” chứ
không phải là Quốc hội như nhận thức trong
cơ chế tập quyền XHCN trước đây.
3.3. Nhân dân phân công cho Toà án
thực hiện quyền tư pháp
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định
về chức năng, hệ thống và nhiệm vụ của
TAND. Về chức năng, khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định
TAND là cơ quan có chức năng xét xử. Xét
xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất
pháp lý của vụ việc; từ đó, Tòa án nhân danh
Nhà nước đưa ra phán quyết về tính hợp
pháp của vụ việc. Bản chất của xét xử là
việc giải quyết tranh chấp trong quá trình
thực hiện pháp luật. Trong bộ máy Nhà
nước ta, TAND là cơ quan duy nhất có chức
năng xét xử. Lần đầu tiên trong lịch sử lập
hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 xác
định rõ TAND là cơ quan “thực hiện quyền
tư pháp”. Bổ sung nội dung này nhằm thể
chế hóa quan điểm về phân công, phối hợp
và kiểm soát quyền lực nhà nước đã được
hiến định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm
2013. Với những quy định Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, lập pháp (Điều 69);
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
(Điều 94); TAND thực hiện quyền tư pháp
(Điều 102); Hiến pháp năm 2013 đã thể
hiện tư tưởng phân công quyền lực nhà
nước một cách triệt để hơn, rạch ròi hơn.
Điểm mới này còn có ý nghĩa quan trọng là
tạo ra nhận thức về quyền tư pháp theo
nghĩa hẹp, phù hợp với thông lệ quốc tế: chỉ
có Toà án mới thực hiện quyền tư pháp và
quyền tư pháp tập trung cho Toà án chứ
không chia sẻ cho các cơ quan khác như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát,... Toà án đã trở
thành một nhánh quyền lực thực sự và trở
nên độc lập hơn, mạnh mẽ hơn và có khả
năng “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”6.
Việc phân công quyền lực triệt để như thế là
cơ sở để Nhân dân kiểm soát việc thực hiện
quyền tư pháp mà Nhân dân đã uỷ quyền
cho Toà án thực hiện.
Điều 126 Hiến pháp năm 1992 quy định
cả TAND và VKSND đều có chung nhiệm
vụ là “bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế
độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân”. Quy định này đã
không thể hiện được tính đặc thù và sự khác
biệt trong hoạt động của TAND và VKSND.
Rút kinh nghiệm này, Hiến pháp năm 2013
đã quy định nhiệm vụ của TAND trong một
điều riêng biệt tại khoản 3 Điều 102; hoàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- diem_moi_trong_hien_phap_nam_2013_ve_phan_cong_quyen_luc_giu.pdf