Thời gian nằm viện trung bình là 3,30 ± 0,92
ngày. Bệnh nhân của chúng tôi được ưu tiên cho
xuất viện sớm tùy thuộc vào mức độ đau sau mổ.
Theo Bobrzynski và cs (2001), thời gian nằm viện của
TAPP là 2,2 ngày [3]. Thời gian nằm viện ngắn góp
phần giúp giảm chi phí cho người bệnh và giúp họ
nhanh chóng trở về làm việc. Đây cũng là một ưu
điểm mà phẫu thuật nội soi từ khi ra đời đã chứng
minh với ưu thế là phẫu thuật xâm nhập tối thiểu.
Chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp biến chứng
sớm sau mổ. Theo Bobrzynski và cs (2001), tỷ lệ tụ
dịch sau mổ ở nhóm TAPP là 6,9% so với TEP 9,4%
[3]. Pokorny H. và cs (2008) đánh giá trên 365 bệnh
nhân thoát vị bẹn từ 1998 đến 2002, tỷ lệ tụ dịch
ở TEP là 1/35 bệnh nhân so với TAPP là 7/84 bệnh
nhân [9].
Sau tái khám 7 ngày, 1 tháng và 3 tháng, chúng
tôi chưa phát hiện các biến chứng như đau mạn
tính, tái phát, hay tụ dịch.
Winslow E.R. và cs (2004) ghi nhận tỷ lệ đau
mạn tính sau mổ 3 tháng ở nhóm mổ mở là 5,3%
so với nhóm TEP 1,4%, tuy nhiên không có sự khác
biệt ý nghĩa [13]. Theo HerniaSurge, tỷ lệ biến chứng
chung của TEP là 12,5% (1,3%-50,3%), TAPP 11,4%
(1,23%-49%). Tỷ lệ tái phát của TEP 0,6% (0%-16,7%)
và TAPP 2,3% (0%-25%) [2]. Theo Bobrzynski và cs
(2001), tỷ lệ tái phát của nhóm TAPP 1,14% so với
TEP 0,98% [3].
Đánh giá chất lượng cuộc sống sau mổ 1-3 tháng:
90-100% bệnh nhân của chúng tôi không đau hoặc
rất ít, 100% không cảm giác tấm lưới hoặc rất ít, và
100% không gặp hạn chế vận động do phẫu thuật.
Gitelis M. và cs theo dõi bệnh nhân trong 2 năm, cho
tỷ lệ tương ứng là 95%, 98% và 97% [5].
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị thoát vị bẹn nghẹt bằng phẫu thuật nội soi đặt lưới trước phúc mạc qua đường vào ổ bụng (TAPP), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
181
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Đình Khôi, email: truongdinhkhoi@gmail.com 
Ngày nhận bài: 17/10/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/11/2019.; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Điều trị thoát vị bẹn nghẹt bằng phẫu thuật nội soi đặt lưới trước 
phúc mạc qua đường vào ổ bụng (TAPP)
 Trương Đình Khôi1, Nguyễn Minh Thảo2, Phạm Anh Vũ3
(1) Nghiên cứu sinh trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, chuyên ngành Ngoại tiêu hóa
(2) Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
(3) Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn nghẹt bằng phẫu thuật TAPP. Đối tượng và phương pháp 
nghiên cứu: Bệnh nhân được chẩn đoán thoát vị bẹn nghẹt từ tháng 05/2016 đến 03/2019. Nghiên cứu mô 
tả, tiến cứu. Kết quả: 20 trường hợp, 19 nam, 01 nữ. Tuổi trung bình: 46,65 ± 19,76 tuổi. Thời gian mổ trung 
bình: 56,25 ± 16,05 phút. Chuyển mổ hở: 1 trường hợp (5%). Sau mổ 24 giờ, 80% VAS ≤ 3. Sau mổ 48 giờ, 90% 
VAS ≤ 2. Thời gian nằm viện trung bình: 3,30 ± 0,92 ngày. Không có biến chứng sớm sau mổ. Kết quả tái khám 
sau mổ tốt, không có tái phát. Đánh giá chất lượng cuộc sống sau 1-3 tháng tốt. Kết luận: Điều trị thoát vị bẹn 
nghẹt bằng phẫu thuật nội soi đặt lưới trước phúc mạc qua đường vào ổ bụng (TAPP) an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: thoát vị bẹn; nghẹt; phẫu thuật nội soi; TAPP
Abstract
Laparoscopic trans-abdominal pre-peritoneal (TAPP) approach for 
strangulated inguinal hernia repair
Truong Dinh Khoi1, Nguyen Minh Thao2, Pham Anh Vu3
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(3) Dept. of Surgery, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objectives: To evaluate the clinical results of incarcerated inguinal hernia with TAPP repairs. Patients and 
methods: Prospective descriptive study. From May 2016 to Mars 2016, 20 patients of incarcerated inguinal 
hernia were operated by TAPP repairs at Hue Central Hospital and Hue University Hospital. Results: 20 
patients, 19 men and 01 woman. The average age was 46.65 ± 19.76 year-old. The average time of operation 
was 56.25 ± 16.05 minutes. Only one was converted to open repair (Lichtenstein repair). At 24 postoperative 
hours, 80% of VAS ≤ 3 . At 48 postoperative hours, 90% of VAS ≤ 2. The average hospitalized time was 3.30 ± 
0.92 days. There were’nt any early postoperative complications. There were no recurrences with follow-up 
time of 1 week, 1 month and 3 months. The evaluation of QoL after 01 and 03 months were good. Conclusion: 
The clinical results of TAPP repair for incarcerated inguinal hernia were safe, effective and feasible.
Key words: inguinal hernia; incarcerated; strangulated; laparoscopic repair; TAPP
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.27
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là thoát vị thành bụng thường gặp 
thường gặp (75%) [7]. Mỗi năm trên thế giới, ước 
tính khoảng 20 triệu ca mổ thoát vị bẹn. Khoảng 
30% thoát vị bẹn không có triệu chứng, chỉ 3% có có 
biến chứng nghẹt do tạng trong ổ bụng (ruột non, 
mạc nối lớn) chui qua lỗ thoát vị bị thắt nghẹt gây 
tắc ruột cơ học, hoại tử tạng. Phẫu thuật cấp cứu 
thoát vị bẹn nghẹt chiếm từ 5-10% số ca mổ thoát 
vị bẹn [6].
Từ khi Bassini đưa ra kỹ thuật mổ phục hồi thành 
bẹn bằng mô tự thân năm 1887, hơn 70 kỹ thuật tái 
tạo thành bẹn bằng mô tự thân đã được báo cáo 
trong y văn. Thập niên 1970, kỹ thuật của Shouldice 
với ưu điểm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát xuống đáng 
kể đã nhanh chóng trở thành phẫu thuật được lựa 
chọn điều trị. Cuối thế kỷ 20, với sự ra đời và ứng 
dụng của miếng ghép, các kỹ thuật tái tạo thành bẹn 
không áp lực (tension-free repairs) được sử dụng 
rộng rãi, điển hình nhất là kỹ thuật của Lichtenstein. 
Cùng với sự phát triển của phẫu thuật nội soi và 
đầu thập niên 1990, Arregui và cộng sự đã báo cáo 
ca mổ thoát vị bẹn nội soi đầu tiên năm 1992, đặt 
lưới vào khoang trước phúc mạc. Từ đó, các phẫu 
thuật viên trên thế giới đã ứng dụng phẫu thuật nội 
soi trong điều trị thoát vị bẹn nhằm giảm đau sau 
182
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
mổ, giúp bệnh nhân hồi phục sớm. Hai kỹ thuật nội 
soi phổ biến nhất hiện nay trong điều trị thoát vị 
bẹn là: hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP: total extra-
peritoneal) và trước phúc mạc qua ổ bụng (TAPP: 
trans-abdominal pre-peritoneal) [6].
Phẫu thuật nội soi đặt lưới trước phúc mạc 
qua đường vào ổ bụng (TAPP) có ưu điểm hơn so 
với TEP: dễ thực hiện và đào tạo do tiếp cận phẫu 
trường quen thuộc, cũng như có thể quan sát đánh 
giá toàn bộ ổ phúc mạc nhờ đó có thể đánh giá tình 
trạng tạng thoát vị, phát hiện thoát vị đồng thời đối 
bên. Do đó, TAPP được ứng dụng trong điều trị cấp 
cứu thoát vị bẹn nghẹt.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Điều trị thoát 
vị bẹn nghẹt bằng phẫu thuật nội soi đặt lưới trước 
phúc mạc qua đường vào ổ bụng (TAPP)” nhằm 
đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn nghẹt bằng 
phẫu thuật TAPP.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán thoát vị bẹn nghẹt 
tại Trung tâm điều trị theo yêu cầu và quốc tế - Bệnh 
viện Trung ương Huế và Bệnh viện Đại học Y Dược 
Huế từ tháng 05/2016 đến 03/2019.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: 
- bệnh nhân ≥ 18 tuổi
- thoát vị bẹn tiên phát nghẹt 
- thoát vị bẹn tái phát nghẹt sau khi đã mổ hở 
thoát vị bẹn
Tiêu chuẩn loại trừ:
- bệnh nhân đến muộn (từ lúc khởi phát ≥ 12 giờ)
- ASA ≥ 4
- bệnh nhân chống chỉ định mê nội khí quản
- bệnh nhân có tiền sử dính ruột hoặc phẫu thuật 
lớn vùng thành bụng trước hoặc phẫu thuật ổ bụng
- bệnh nhân báng bụng hoặc có đặt catheter 
thẩm phân phúc mạc
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Bệnh nhân được chẩn đoán và chỉ định mổ cấp 
cứu giải phóng tạng thoát vị và phục hồi thành bẹn 
bằng phẫu thuật nội soi đặt lưới trước phúc mạc 
qua đường vào ổ bụng (TAPP):
- sử dụng 3 tro-ca thường quy: 1 tro-ca 10mm ở 
rốn, 2 tro-ca 5mm ở 2 bên rốn.
- sử dụng miếng ghép Polypropylene 7,5cm x 
15cm
- dụng cụ cố định nội soi Protack® 5mm (hãng 
Medtronic, USA).
Các thông số nghiên cứu:
Tuổi, giới, tính chất nghề nghiệp
Đau sau mổ: đánh giá theo thang điểm VAS sau 
mổ 24 giờ và 48 giờ.
Điểm 0 không đau
Điểm 1-3 đau ít
Điểm 4-5 đau trung bình
Điểm 6-7 đau nhiều
Điểm > 7 đau dữ dội
Thời gian mổ, tỷ lệ chuyển mổ hở, mức độ bảo 
tồn tạng, thời gian nằm viện.
Biến chứng sớm: nhiễm trùng lưới, nhiễm trùng 
lỗ trocarts, chảy máu, tái phát.
Tái khám sau xuất viện 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng: 
tái phát hay không, tụ dịch bìu, nhiễm trùng lưới
Tái khám sau 1 tháng, 3 tháng: tái phát, đánh 
giá chất lượng cuộc sống theo bảng điểm Carolinas 
(CCS: Carolinas Comfort Scale) [6].
Bảng điểm Carolina (CCS) đánh giá bệnh nhân 
sau mổ thoát vị bẹn có tấm lưới trên 3 phương diện: 
đau sau mổ, cảm giác tấm lưới và hạn chế vận động. 
Bệnh nhân được hỏi và đánh giá theo các mức điểm 
từ 0 đến 5.
0 : không triệu chứng
1 : có triệu chứng nhẹ, không gây khó chịu
2 : có triệu chứng nhẹ, có gây khó chịu
3 : có triệu chứng mức độ trung bình hoặc 
thường xuyên
4 : có triệu chứng nặng
5 : ảnh hưởng sinh hoạt nghiêm trọng
Chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê MedCalc 
version 12.3.0.0.
183
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2019, chúng tôi đã phẫu thuật cấp cứu 20 trường hợp thoát vị bẹn nghẹt 
bằng phẫu thuật TAPP (5 trường hợp tại Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế, 15 trường hợp tại Trung tâm 
điều trị theo yêu cầu và quốc tế - BVTƯ Huế). Kết quả đạt được như sau:
3.1. Đặc điểm chung
Giới: 19 nam (95%), 1 nữ (5%).
Tuổi: cao nhất: 83; nhỏ nhất: 19; trung bình: 46,65 ± 19,76.
Tính chất công việc: lao động nặng: 80%.
Thời gian từ lúc khởi phát nghẹt đến lúc chẩn đoán xác định: sớm nhất: 2 giờ; muộn nhất: 7 giờ; trung 
bình: 3,7 ± 1,26 giờ.
3.2. Kết quả điều trị
Vị trí và loại thoát vị
Bảng 1. Vị trí và loại thoát vị
Loại thoát vị
Vị trí
Thoát vị bẹn Thoát vị đùi Tổng cộng
Trái 5 (25%) 1 (5%) 6 (30%)
Phải 14 (70%) 0 (0%) 14 (70%)
Tổng cộng 19 (95%) 1 (5%) 20 (100%)
Tạng thoát vị: ruột non: 14 (70%), mạc nối lớn: 6 (30%).
Thời gian mổ: ngắn nhất: 35 phút; dài nhất: 90 phút; trung bình: 56,25 ± 16,05 phút.
Chuyển mổ hở: 1 trường hợp (5%), do tạng thoát vị là mạc nối lớn dính quá chặt, không thể kéo về 
ổ bụng qua nội soi, nguy cơ chảy máu. Chuyển mổ hở đường bẹn và phục hồi thành bẹn phương pháp 
Lichtenstein.
Không có bệnh nhân nào phải cắt đoạn ruột non do hoại tử.
Đánh giá đau sau mổ:
- điểm VAS sau mổ 24 giờ: 2 điểm: 6 (30%); 3 điểm: 10 (50%); 4 điểm: 4 (20%); trung bình: 2,9 ± 0,72.
1
10
VA
S_
24
1
10
V
A
S
_4
8
Biểu đồ 1. VAS sau mổ
- điểm VAS sau mổ 48 giờ: 1 điểm: 11 (55%); 2 điểm: 7 (35%); 4 điểm: 2 (10%); trung bình: 1,55 ± 0,69.
Không có biến chứng sớm sau mổ trong thời gian nằm viện.
Thời gian nằm viện: ngắn nhất: 2 ngày; dài nhất: 5 ngày; trung bình: 3,30 ± 0,92 ngày.
Tái khám sau xuất viện 01 tuần: chưa ghi nhận biến chứng muộn.
Tái khám sau 01 tháng và 03 tháng:
- Không biến chứng
- Đánh giá chất lượng sống theo CCS:
Bảng 2. Đánh giá chất lượng sống sau mổ thoát vị bẹn
Tái khám
CCS
Sau 1 tháng Sau 3 tháng
Đau
Cảm giác 
tấm lưới
Hạn chế 
vận động
Đau
Cảm giác 
tấm lưới
Hạn chế 
vận động
0 25% 40% 100% 80% 75% 100%
184
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
1 65% 60% 20% 25%
2 10%
Sau 01 tháng, 90% bệnh nhân không đau hoặc rất nhẹ, 100% cảm giác tấm lưới rất ít, 100% không bị ảnh 
hưởng vận động.
Sau 03 tháng, 100% bệnh nhân không đau hoặc rất nhẹ, 100% cảm giác tấm lưới rất ít, 100% không bị 
ảnh hưởng vận động.
4. BÀN LUẬN
Từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2013, chúng tôi đã 
phẫu thuật 20 trường hợp thoát vị bẹn nghẹt, thực 
hiện được 19 trường hợp (95%), chỉ 1 trường hợp 
phải chuyển mổ hở (5%). 
Hiện nay các hiệp hội thoát vị bẹn trên thế giới 
đều xuất bản những hướng dẫn riêng. Năm 2009, 
Hiệp hội thoát vị châu Âu (EHS) đưa ra phác đồ điều 
trị thoát vị bẹn ở người lớn, phác đồ này được cập 
nhật vào năm 2013 [11]. Hiệp hội nội soi thoát vị 
thế giới (IEHS) đưa ra phác đồ về nội soi thoát vị 
năm 2011. Năm 2013, Tổ chức châu Âu phẫu thuật 
nội soi (EAES=European Association for Endoscopic 
Surgery) lại đưa ra hướng dẫn riêng cho phẫu thuật 
nội soi trong đó có thoát vị bẹn [2]. Các hiệp hội 
này đã nhóm họp vào năm 2014 và thành lập dự 
án HerniaSurge nhằm đưa ra một hướng dẫn thống 
nhất phạm vi toàn thế giới đối với thoát vị bẹn. Năm 
2018, các hiệp hội đã thống nhất Hướng dẫn thế giới 
điều trị thoát vị bẹn. Phẫu thuật nội soi thoát vị bẹn 
đã có sự phát triển nhanh chóng: Úc (55%), Thụy Sĩ 
(45%), Hà Lan (45%) và Thụy Điển (28%), Đức (TAPP 
39%, TEP 25%, Lichtenstein 24%, Plug 3%, Shouldice 
2,6%, Gilbert PHS 2,5% và Bassini 0,2%) [12]. 
19 trường hợp (95%) là thoát vị bẹn gián tiếp.1 
trường hợp (5%) chẩn đoán trước mổ là thoát vị bẹn 
nghẹt, trong mổ được xác định là thoát vị đùi nghẹt, 
bệnh nhân là nữ 69 tuổi. 19 trường hợp là nam, 
chỉ 1 trường hợp nữ. Điều này cũng phù hợp với y 
văn cũng như cơ chế sinh bệnh và cấu tạo giải phẫu. 
Do vùng chậu hông nữ giới rộng hơn năm và không 
có quá trình đi xuống của tinh hoàn trong giai đoạn 
bào thai nên thoát vị thường gặp là thoát vị đùi hoặc 
thoát vị lỗ bịt [7].
Theo y văn, tần suất mắc bệnh ở nam gấp 8 lần 
nữ, chiếm khoảng 90% thoát vị bẹn [6]
Biểu đồ 2. Tần suất mắc thoát vị bẹn theo tuổi ở nam và nữ [6]
Nghiên cứu của Phạm Hữu Thông và cộng sự (cs) 
năm 2006 trên 67 bệnh nhân thì nam chiếm 100% 
[8].
80% trường hợp có công việc là lao động tay 
chân nặng. Đây cũng là yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ 
thoát vị bẹn mắc phải do tăng áp lực ổ bụng thường 
xuyên.
Thoát vị bẹn bên phải chiếm 70%. Kết quả này 
tương tự y văn và hiện nay chưa có giả thuyết nào 
cho cơ chế bệnh sinh này.
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 46,65 ± 
19,76 tuổi. Theo y văn, tần suất thoát vị ở tất cả độ 
tuổi là 1,7%, ở độ tuổi trên 45 là 4% [7].
Tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của 
chúng tôi đều được chẩn đoán và phẫu thuật sớm 
với thời gian trung bình từ lúc khởi phát là 3,7 ± 1,26 
185
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
giờ. Điều này giúp tỷ lệ phẫu thuật TAPP thành công 
cao (95%). Không có trường hợp nào phải cắt nối 
ống tiêu hóa do hoại tử. Tạng thoát vị nghẹt chủ yếu 
là ruột non (70%) và mạc nối lớn (30%), phù hợp với 
giải phẫu và y văn.
Thời gian mổ trung bình của chúng tôi là 56,25 
± 16,05 phút bao gồm thì giải phóng tạng và phục 
hồi thành bẹn bằng lưới trước phúc mạc. Ca mổ kéo 
dài nhất là 90 phút, là trường hợp chuyển mổ giải 
phóng mạc nối và phục hồi thành bẹn phương pháp 
Lichtestein. Phạm Hữu Thông và cs (2006) cũng có 
1/67 bệnh nhân chuyển mổ hở [8].
Antoniou S.A. và cs (2013), TAPP 60,0 phút so 
với TEP 66,0 phút, không có sự khác biệt (p=0,41) 
[1]. Bobrzynski và cs (2001), TAPP 41 (25-95) phút so 
với TEP 46 (15-275) phút [3]. Phạm Hữu Thông và cs 
(2006), đánh giá kết quả thoát vị bẹn nội soi ngoài 
phúc mạc (TEP), ghi nhận thời gian mổ trung bình là 
81,7 phút [8]. Theo The HerniaSurge Group, qua 22 
nghiên cứu, thời gian mổ trung bình TAPP 57 phút 
(34,5-104,5) và TEP 62,3 phút (32,5-110) [12].
24 giờ sau mổ, 80% bệnh nhân đau ít (VAS ≤ 3), 
trung bình chỉ 2,9 ± 0,72 điểm. 48 giờ sau mổ, 90% 
bệnh nhân đau ít (VAS ≤ 2), trung bình chỉ 1,55 ± 
0,69 điểm. Như vậy, mức độ đau sau mổ thoát vị nội 
soi ở nhóm nghiên cứu của chúng tôi rất thấp. Phẫu 
thuật nội soi đã chứng minh ưu điểm ít xâm lấn, ít 
đau sau mổ so với phương pháp mổ mở kinh điển 
bằng miếng ghép Lichtenstein.
Thời gian nằm viện trung bình là 3,30 ± 0,92 
ngày. Bệnh nhân của chúng tôi được ưu tiên cho 
xuất viện sớm tùy thuộc vào mức độ đau sau mổ. 
Theo Bobrzynski và cs (2001), thời gian nằm viện của 
TAPP là 2,2 ngày [3]. Thời gian nằm viện ngắn góp 
phần giúp giảm chi phí cho người bệnh và giúp họ 
nhanh chóng trở về làm việc. Đây cũng là một ưu 
điểm mà phẫu thuật nội soi từ khi ra đời đã chứng 
minh với ưu thế là phẫu thuật xâm nhập tối thiểu.
Chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp biến chứng 
sớm sau mổ. Theo Bobrzynski và cs (2001), tỷ lệ tụ 
dịch sau mổ ở nhóm TAPP là 6,9% so với TEP 9,4% 
[3]. Pokorny H. và cs (2008) đánh giá trên 365 bệnh 
nhân thoát vị bẹn từ 1998 đến 2002, tỷ lệ tụ dịch 
ở TEP là 1/35 bệnh nhân so với TAPP là 7/84 bệnh 
nhân [9].
Sau tái khám 7 ngày, 1 tháng và 3 tháng, chúng 
tôi chưa phát hiện các biến chứng như đau mạn 
tính, tái phát, hay tụ dịch.
Winslow E.R. và cs (2004) ghi nhận tỷ lệ đau 
mạn tính sau mổ 3 tháng ở nhóm mổ mở là 5,3% 
so với nhóm TEP 1,4%, tuy nhiên không có sự khác 
biệt ý nghĩa [13]. Theo HerniaSurge, tỷ lệ biến chứng 
chung của TEP là 12,5% (1,3%-50,3%), TAPP 11,4% 
(1,23%-49%). Tỷ lệ tái phát của TEP 0,6% (0%-16,7%) 
và TAPP 2,3% (0%-25%) [2]. Theo Bobrzynski và cs 
(2001), tỷ lệ tái phát của nhóm TAPP 1,14% so với 
TEP 0,98% [3].
Đánh giá chất lượng cuộc sống sau mổ 1-3 tháng: 
90-100% bệnh nhân của chúng tôi không đau hoặc 
rất ít, 100% không cảm giác tấm lưới hoặc rất ít, và 
100% không gặp hạn chế vận động do phẫu thuật. 
Gitelis M. và cs theo dõi bệnh nhân trong 2 năm, cho 
tỷ lệ tương ứng là 95%, 98% và 97% [5]. 
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 20 trường hợp thoát vị bẹn 
nghẹt được phẫu thuật TAPP từ tháng 5/2016 đến 
tháng 3/2019, chúng tôi rút ra những kết luận sau:
- Thời gian phẫu thuật trung bình là 56,25 ± 
16,05 phút.
- Thời gian nằm viện trung bình là 3,30 ± 0,92 
ngày.
- Điểm đau trung bình sau mổ: 24 giờ: 2,9 ± 0,72, 
48 giờ: 1,55 ± 0,69.
- Không có trường hợp biến chứng sớm sau mổ.
- Không có biến chứng khi tái khám sau xuất viện 
1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.
- Đánh giá chất lượng cuộc sống sau mổ tốt.
Như vậy, điều trị thoát vị bẹn nghẹt bằng phẫu 
thuật nội soi đặt lưới trước phúc mạc qua đường 
vào ổ bụng (TAPP) có kết quả tốt: ít đau sau mổ, thời 
gian nằm viện ngắn, chưa có biến chứng, chưa phát 
hiện tái phát, chất lượng cuộc sống sau mổ tốt.
Kết quả bước đầu là hiệu quả, an toàn và có thể 
ứng dụng thường quy đối với điều trị thoát vị bẹn 
nghẹt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antoniou SA, Antoniou GA, Bartsch DK, 
Fendrich V, Koch OO, Pointner R, Granderath FA 
(2013), “Transabdominal preperitoneal versus totally 
extraperitoneal repair of inguinal hernia: a meta-analysis 
of randomized studies”, Am J Surg., 206(2), pp. 245-252.
2. Bittner R, Arregui ME, Bisgaard T, Dudai M, Ferzli GS, 
Fitzgibbons RJ, Fortelny RH, Klinge U, Kockerling F, Kuhry E, 
Kukleta J, Lomanto D, Misra MC, Montgomery A, Morales-
186
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Conde S, Reinpold W, Rosenberg J, Sauerland S, Schug-
Pass C, Singh K, Timoney M, Weyhe D, Chowbey P (2011), 
“Guidelines for laparoscopic (TAPP) and endoscopic (TEP) 
treatment of inguinal hernia [International Endohernia 
Society (IEHS)]”, Surg Endosc., 25(9), pp. 2773-2843. 
3. Bobrzynski A, Budzynski A, Biesiada Z, Kowalczyk 
M, Lubikowski J, Sienko J (2001), “Experience-the key 
factor in successful laparoscopic total extraperitoneal and 
transabdominal preperitoneal hernia repair”, Hernia, 5(2), 
pp. 80-83.
4. Campanelli G. (2017), Inguinal Hernia Surgery, 
Springer, Italia.
5. Gitelis M.E., Patel L., Deasis F., Joehl R., Lapin 
B., Linn J., Haggerty S., Denham W., Ujiki M.B. (2016), 
“Laparoscopic Totally Extraperitoneal Groin Hernia Repair 
and Quality of Life at 2-Year Follow-Up”, J Am Coll Surg, 
223(1), pp. 153-161.
6. Hope W.W., Cobb W.S., Adrales G.L. (2017), Textbook 
of Hernia, Springer, Switzerland.
7. Jenkins J., O’Dwyer P.J. (2008), “Inguinal Hernias”, 
BMJ, 336 (7638), pp. 269-272.
8. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình Công, Bùi Văn Ninh, 
Nguyễn Đức Thuận, Huỳnh Văn Chương (2006), “Kết quả 
phẫu thuật đặt mảnh ghép qua ngã nội soi hoàn toàn 
ngoài phúc mạc trong điều trị thoát vị bẹn”, Y học TP. Hồ 
Chí Minh, 10(4), 103-108.
9. Pokorny H, Klingler A, Schmid T, Fortelny R, Hollinsky 
C, Kawji R, Steiner E, Pernthaler H, Függer R, Scheyer M 
(2008), “Recurrence and complications after laparoscopic 
versus open inguinal hernia repair: results of a prospective 
randomized multicenter trial”, Hernia, 12(4), pp. 385-389.
10. Roy P., Bangia V., Asrivastav S., Singh A., Kumar 
H., Pushp A. (2016), “Quality Of Life Assessment after 
Laparoscopic Mesh Hernioplasty for Inguinal Hernia”, 
IOSR Journal of Dental and Medical Sciences, 15 (4), pp. 
59-61.
11. Simons MP, Aufenacker T, Bay-Nielsen M, 
Bouillot JL, Campanelli G, Conze J, de Lange D, Fortelny 
R, Heikkinen T, Kingsnorth A, Kukleta J, Morales-Conde 
S, Nordin P, Schumpelick V, Smedberg S, Smietanski M, 
Weber G, Miserez M (2009), “European Hernia Society 
guidelines on the treatment of inguinal hernia in adult 
patients”, Hernia, 13(4), pp. 343-403.
12. The HerniaSurge Group (2018), “International 
guidelines for groin hernia management”, Hernia, 22, pp. 
1-165.
13. Winslow ER, Quasebarth M, Brunt LM (2004), 
“Perioperative outcomes and complications of open vs 
laparoscopic extraperitoneal inguinal hernia repair in a 
mature surgical practice”, Surg Endosc., 18(2), pp. 221-227.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
dieu_tri_thoat_vi_ben_nghet_bang_phau_thuat_noi_soi_dat_luoi.pdf