Định hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong tình hình mới của tổ chức y tế thế giới

Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế t nhân trong chăm sóc sức khỏe sinh sản tơng đối phổ biến. Theo kết quả của điều tra nhân khẩu học và y tế (DHS) năm 2002 thì có tới 14% các phơng tiện tránh thai đợc cung ứng bởi khu vực khu vực t nhân. Số liệu từ nghiên cứu của Tổng cục Dân số năm 2011 cho thấy, mặc dù đặt dụng cụ tử cung thờng đợc thực hiện tại các cơ sở y tếnhà nớc (hơn 80% ở trạm y tế xã), tuy nhiên tỷ lệ y tế t nhân tham gia đặt dụng cụ tử cung chiếm tới 7,2%. ở thành thị, phụ nữ sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình ở khu vực y tế t nhân với giá thành tơng đối cao với 175.000đ/ca hút điều hòa kinh nguyệt tại Cao Bằng (số liệu từ nghiên cứu hồi cứu về các yếu tố quyết định về nạo hút thai ở phụ nữ Việt Nam, 2000). Tuy nhiên, họ sẵn sàng chấp nhận vì theo họ đây là nơi có bác sĩ chuyên môn cao trong tỉnh, mặt khác sử dụng dịch vụ t nhân tốn ít thời gian chờ đợi và đợc phục vụ tận tình. Phụ nữ nông thôn sử dụng y tế t nhân để khám chữa bệnh khi bị ốm chiếm 23%, trong khi đó, lựa chọn trạm y tế xã chỉ chiếm 13,8% (Số liệu từ nghiên cứu của Lê Thị Hồng Thơm (2006) về tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho phụ nữ nông thôn). Qua đây có thể thấy rằng, bên cạnh các dịch vụ y tế của nhà nớc thì y tế t nhân đóng vai trò không nhỏ trong lựa chọn của ngời phụ nữ khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong tình hình mới của tổ chức y tế thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
52 heo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới tại Tuyên ngôn Alma-Ata, Chăm sóc sức khỏe T ban đầu (CSSKBĐ) là sự chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật thực tiễn, có cơ sở khoa học và được chấp nhận về mặt xã hội, phổ biến đến từng cá nhân và gia đình trong cộng đồng, qua sự tham gia tích cực của họ với một chi phí mà cộng đồng và quốc gia có thể đài thọ được ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, trên tinh thần tự lực và tự quyết. Nó là một bộ phận hợp thành vừa của hệ thống y tế Nhà nước mà trong đó, nó giữ vai trò trọng tâm và là tiêu điểm chính, vừa của sự phát triển chung về kinh tế xã hội và của cộng đồng. Nó là nơi tiếp xúc đầu tiên của người dân với hệ thống y tế, đưa sự chăm sóc sức khỏe đến càng gần càng tốt nơi người dân sống và lao động, trở thành yếu tố đầu tiên của một quá trình chăm sóc 2 sức khỏe lâu dài . CSSKBĐ đã trở thành một chính sách then chốt của Tổ chức Y tế Thế giới từ năm 1978 với Chương trình “Sức khoẻ cho mọi người đến năm 2000” nhằm cải thiện sức khỏe Định hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong tình hình mới của Tổ chức Y tế Thế giới 1 TS. Trần Thị Mai Oanh Bảng 1: So sánh những quan điểm của CSSKBĐ giai đoạn trước đây và 3 quan điểm mới trong CSSKBĐ hiện nay toàn cầu, đặc biệt đối với nhân dân các nước nghèo. Năm 1998, Tổ chức Y tế Thế giới đã điều chỉnh nội dung của chính sách này và đổi thành chương trình “Sức khỏe cho mọi người trong thế kỷ 21”, trong đó đã khẳng định tiếp tục phát triển CSSKBĐ. Trong mọi thời kỳ, các nước luôn coi CSSKBĐ như là một chính sách nền tảng của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Nâng cao dịch vụ CSSKBĐ cũng là một trong những hoạt động để củng cố hệ thống chăm sóc sức khỏe. Sau hơn 30 năm thực hiện Tuyên ngôn Alma- Ata về sức khỏe cho mọi người và CSSKBĐ, đến nay trên thế giới đã có nhiều sự thay đổi lớn, tạo ra những thách thức mới đối với CSSKBĐ. Đó là sự thay đổi về mô hình bệnh tật, cơ cấu dân số, môi trường kinh tế xã hội, sự mong đợi nhiều hơn của người dân về vấn đề công bằng trong chăm sóc sức khỏe và tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng. Trước những thay đổi này, vào năm 2008, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra định hướng mới về thực hiện CSSKBĐ trong tình hình mới, với những quan điểm tóm tắt trong bảng dưới đây. Diễn đàn chính sách Những quan tâm đổi mới CSSKBĐ hiện nayCSSKBĐ trước đây Mở rộng sự tiếp cận gói can thiệp y tế cơ bản và thuốc thiết yếu cho người nghèo ở vùng nông thôn Chuyển đổi và điều chỉnh hệ thống y tế hiện có nhằm mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho toàn dân và chương trình bảo đảm an sinh sức khỏe Giải quyết vấn đề sức khỏe cho mọi người dân trong cộng đồng Chú trọng tới sức khỏe bà mẹ và trẻ em 1 Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 2 Tuyên ngôn Hội nghị Alma- Ata "Sức khỏe cho mọi người từ nay đến năm 2000 và chăm sóc sức khỏe ban đầu", 12/09. 1978. 3 The World Health Report 2008: Primary Health Care Now More Than Ever 53 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí Trong Báo cáo sức khỏe thế giới 2008, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra bốn nội dung cải cách của CSSKBĐ, cụ thể là: (1) Cải cách về bao phủ toàn dân: nhằm nâng cao công bằng trong CSSK. Đây là những cải cách đảm bảo cho hệ thống y tế hoạt động công bằng mà trước hết là sự dịch chuyển của một hệ thống y tế hướng tới tiếp cận toàn dân, được thể hiện qua việc đảm bảo tính sẵn có của dịch vụ y tế, loại trừ được các rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế của người dân và thực hiện bảo đảm an sinh sức khỏe. (2) Cải cách cung ứng dịch vụ y tế: làm cho hệ thống y tế hướng tới con người. Đây là cải cách, tổ chức lại hệ thống cung ứng dịch vụ y tế, trong đó chú trọng tới các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu hướng tới nhu cầu và mong đợi của người dân; làm cho dịch vụ y tế phù hợp hơn và mang tính xã hội; có tính đáp ứng hơn đối với bối cảnh thay đổi của toàn cầu mà kết quả đầu ra của nó là mang lại sức khỏe tốt hơn cho mọi người dân. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo mạng lưới CSSKBĐ cần được tổ chức lại theo cách: (i) mang dịch vụ y tế đến gần hơn với người dân; (ii) mạng lưới CSSKBĐ đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của từng nhóm dân cư; (iii) nhóm cán bộ tham gia cung cấp các dịch vụ CSSKBĐ chính là trung tâm của sự điều phối, đảm bảo sự thành công của hệ thống y tế quốc gia. (3) Cải cách chính sách công cộng: nhằm tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao sức khỏe của cộng đồng, bảo đảm cộng đồng khỏe mạnh hơn thông qua việc lồng ghép các hoạt Tuyên truyền lối sống khỏe mạnh và làm giảm tác động tới sức khỏe của những rủi ro về môi trường và xã hội Cải thiện môi trường vệ sinh, nước, hệ thống xử lý rác thải và giáo dục sức khỏe ở tuyến thôn bản Sử dụng các kỹ thuật đơn giản đối với đối tượng tình nguyện viên và nhân viên y tế cộng đồng không chuyên nghiệp Tạo điều kiện cho đội ngũ nhân viên y tế tiếp cận và sử dụng các kỹ thuật phù hợp và thuốc phù hợp Thể chế hóa sự tham gia của tổ chức dân sự xã hội trong xây dựng chính sách và thể chế hóa cơ chế trách nhiệm giải trình Sự tham gia dưới góc độ huy động nguồn lực địa phương và quản lý trung tâm y tế thông qua Ban sức khỏe địa phương Các dịch vụ y tế do Nhà nước cung ứng và đảm bảo nguồn tài chính, quản lý tập trung Hệ thống y tế phức hợp hoạt động trong bối cảnh toàn cầu Quản lý trong hoàn cảnh nguồn lực khan hiếm Huy động tăng nguồn lực cho y tế, hướng tới bao phủ toàn dân Viện trợ và hỗ trợ kỹ thuật song phương Sự đoàn kết toàn cầu và học hỏi kinh nghiệm Chăm sóc sức khỏe ban đầu có vai trò điều phối chăm sóc sức khỏe toàn diện ở tất cả các tuyến Chăm sóc ban đầu là đối lập với chăm sóc bệnh viện CSSKBĐ là tốn kém, đòi hỏi đầu tư đáng kể, nhưng mang lại hiệu quả cao hơn so với giải pháp khác. CSSKBĐ rẻ, chỉ cần mức đầu tư vừa phải Tập trung vào một số bệnh, chủ yếu bệnh nhiễm trùng và bệnh cấp tính Đáp ứng một cách toàn diện đối với những mong đợi và nhu cầu từ phía người dân, mở rộng phạm vi chăm sóc tới các nguy cơ và căn nguyên gây bệnh 54 động y tế công cộng với CSSKBĐ và hướng tới các chính sách công cộng có lợi cho sức khỏe mang tính liên ngành. (4) Cải cách sự lãnh đạo: thay thế hình thức lãnh đạo kiểu hành chính mệnh lệnh hoặc hình thức phó mặc cho tư nhân tự kinh doanh trong thị trường y tế bằng hình thức lãnh đạo toàn diện, dân chủ, dựa trên đàm phán (inclusive, participatory and negotiation-based leadership). Như vậy, cải cách lãnh đạo trong CSSKBĐ xác định vai trò và trách nhiệm chủ yếu của nhà nước, chuyển từ sự lãnh đạo bằng mệnh lệnh sang lãnh đạo thực hiện các chính sách được xây dựng có sự tham gia của cộng đồng và có sự đàm phán với các bên liên quan. Cải cách lãnh đạo CSSKBĐ đòi hỏi cân đối được nguồn tài chính để đầu tư nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý hệ thống y tế. Có thể nói, nhan đề của Báo cáo sức khỏe thế giới 2008 của WHO “Primary health care - 4 Now more than ever” đã thể hiện một cách súc tích quan điểm của tổ chức này đối với chính sách CSSKBĐ. Để tiếp tục duy trì vai trò nền tảng của CSSKBĐ trong hệ thống y tế Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay, Báo cáo sức khỏe thế giới 2008 của WHO là một trong những tài liệu tham khảo quan trọng đối với những người làm công tác hoạch định chính sách y tế. 4 Tạm dịch: “Chăm sóc sức khỏe ban đầu - hãy nhiều hơn nữa” Diễn đàn chính sách 55 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí Năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ Sự phát triển và vai trò của y tế tư nhân trong chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam 1 Nguyễn Thị Thắng nghĩa. Đây là giai đoạn mở đầu cho những cải cách về y tế, trong đó có việc ban hành các chính sách liên quan đến sự hình thành và phát triển của khu vực y tế tư nhân. Năm 1993, với sự ra đời của Pháp lệnh số 26/PL/CTN/1993 về Hành nghề y dược tư nhân, y tế tư nhân chính thức được công nhận là một bộ phận hoạt động trong hệ thống y tế nước ta. Để mở rộng các loại hình hoạt động tạo đà cho khu vực y tế tư nhân phát triển, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa cho phép thành lập bệnh viện bán công, bệnh viện tư, bệnh viện liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tới năm 1999, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP tiếp tục được Chính phủ ban hành nhằm kêu gọi và khuyến khích các tổ chức tư nhân và các cá nhân cùng tham gia đầu tư cho y tế với điều kiện là không vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên vấn đề đánh giá và kiểm soát mục đích đầu tư không vì lợi nhuận theo qui định của Nghị định thì chưa được qui định cụ thể trong văn bản. Sau 10 năm triển khai Pháp lệnh số 26/PL/CTN/1993, năm 2003, Pháp lệnh số 07/2003/PL - UBTVQH11 được ban hành thay thế cho Pháp lệnh 26 nhằm bổ sung, sửa đổi một số điều cho phù hợp với điều kiện thực tế của sự phát triển kinh tế xã hội. Để tạo điều kiện khuyến khích sự tham gia của y tế tư nhân trong hệ thống y tế nhằm cung ứng dịch vụ tốt hơn cho người dân, ngày 22/3/2005, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 46- 1 Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế ới hầu hết các quốc gia trên thế giới, y tế tư nhân là một cấu phần quan trọng trong V việc chia sẻ công tác chăm sóc sức khỏe người dân với hệ thống y tế công lập thông qua cung cấp các dịch vụ y tế. ở một số nước, y tế tư nhân còn tham gia vào quá trình xây dựng chính sách với vai trò của các hội nghề nghiệp. Tại Việt Nam, y tế tư nhân đã hình thành từ những năm cuối của thập niên 80 và chính thức được hợp pháp hóa vào những năm đầu của thập niên 90. Với các loại hình hoạt động bao gồm bệnh viện đa khoa / chuyên khoa, phòng khám đa khoa / chuyên khoa, nhà hộ sinh, cơ sở dịch vụ y tế, cơ sở vận chuyển người bệnh trong nước và ra nước ngoài..., y tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một bộ phận của hệ thống y tế, đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày càng đa dạng và nâng cao của người dân. Là một bộ phận của hệ thống y tế, y tế tư nhân đã từng bước phát huy vai trò của mình trong công tác khám chữa bệnh ban đầu, tư vấn sức khỏe, chăm sóc y tế và tham gia phát hiện dịch bệnh sớm. Với sự có mặt của y tế tư nhân, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân được cải thiện. Bên cạnh đó y tế tư nhân phần nào tạo ra sự cạnh tranh với hệ thống y tế công trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ, nâng cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ cao và nâng cao vấn đề y đức trong công tác khám chữa bệnh. Các chính sách của nhà nước đối với sự phát triển của y tế tư nhân 56 NQ-TW với định hướng phát triển khu vực y tế tư nhân một cách rõ ràng hơn “Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích phát triển các cơ sở y tế tư nhân. Các cá nhân hoặc tổ chức tư nhân được phép đăng ký thành lập cơ sở hành nghề y dược, đặc biệt là các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tư nhân”[5]. Để Nghị quyết 46 đi vào thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về khuyến khích xã hội hóa trong các hoạt động giáo dục, nghề nghiệp, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Theo tinh thần của Nghị định này, các nhà đầu tư thành lập bệnh viện sẽ được cấp hay cho thuê đất miễn phí và được hưởng các ưu đãi về thuế... Như vậy, có thể nói các chính sách của Nhà nước đã tạo nên một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển khối bệnh viện tư nhân để tham gia vào hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh chung. Năm 2009, Pháp lệnh số 07/2003/PL- UBTVQH11 đã được thay thế bởi Luật số 40/2009/QH12 về Khám và Chữa bệnh. Theo quy định của Luật, Bộ Y tế vẫn là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm kiểm định, cấp phép hoạt động cho khối bệnh viện tư nhân và phân cấp cho các Sở Y tế địa phương kiểm định và cấp phép hoạt động cho các phòng khám đa khoa và chuyên khoa. Trong Luật Khám và chữa bệnh cũng như các văn bản pháp luật trước đó thì vai trò của các hội nghề nghiệp, hội chuyên môn trong các quy trình thành lập, kiểm định, cấp phép đối với các cơ sở y tế tư nhân vẫn chưa được đề cập. Sự phát triển của y tế tư nhân Trải qua hai mươi năm hình thành và phát triển, y tế tư nhân Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và loại hình, cung cấp một lượng không nhỏ dịch vụ y tế cho người dân. Số cơ sở YTTN qua các năm 65000 30820 27400 19836 0 10000 20000 30000 40000 50000 60000 70000 1998 2001 2005 2007 (Nguồn số liệu: Báo cáo JARH 2006 và báo cáo đánh giá hoạt động YTTN Vụ Điều trị 2007) Nhìn vào số liệu trên biểu đồ có thể thấy số lượng các cơ sở y tế tư nhân tăng khá nhanh. Trong vòng 10 năm số cơ sở y tế tư nhân đã tăng gấp hơn 3 lần từ 19.836 cơ sở (năm 1998) lên tới 65.000 cơ sở (năm 2007). Bên cạnh tăng về số lượng thì loại hình cũng ngày một đa dạng hơn. Năm 2001 trong số các cơ sở y tế tư nhân mới chỉ bao gồm loại hình bệnh viện (14), phòng khám đa khoa (1.139), phòng khám chuyên khoa (16.900) và cơ sở dịch vụ y tế (7.793) thì tới năm 2005 số bệnh viện đã lên tới 48 bệnh viện, 3.020 phòng khám đa khoa, 27.665 phòng khám chuyên khoa/dịch vụ y tế và 87 nhà hộ sinh. Bệnh viện tư phát triển tương đối nhanh cả về số lượng và qui mô giường bệnh. Năm 1995, cả nước mới có 1 bệnh viện với 50 giường bệnh nhưng chỉ sau 5 năm (2000) số bệnh viện đã Diễn đàn chính sách 57 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí tăng lên là 12 với tổng số giường là 749. Tới 2005, số bệnh viện đã tăng gấp đôi (48 bệnh viện) và số giường bệnh tăng gấp hơn 4 lần (3.245 giường) so với năm 2000. Hai năm sau (2007), số bệnh viện tư đã lên tới 92 với tổng số giường bệnh là 5.934 [3,4]. Theo số liệu của Cục Quản lý Khám chữa bệnh, năm 2010 số bệnh viện tư là 121 (gấp 1,3 lần so với năm 2007) và số giường bệnh là 6.920. Tuy số bệnh viện tư tăng tương đối nhanh qua các năm, nhưng qui mô còn hạn chế. Theo số liệu về hoạt động y tế tư nhân năm 2009 của Bộ Y tế thì trung bình bệnh viện tư có khoảng 79 giường bệnh, trong đó bệnh viện có số giường ít nhất là 10 và bệnh viện có số giường cao nhất là 500 giường bệnh. Tỷ lệ bệnh viện tư so với bệnh viện công lập chiếm 8,6% (92/1.063) và tỷ lệ tổng số giường bệnh tư nhân so với tổng số giường bệnh công lập năm 2007 chiếm khoảng 9,3% (5.934/129.082 giường). Tất cả các bệnh viện tư đều có các khoa cơ bản như khoa khám bệnh, khoa cấp cứu, khoa cận lâm sàng và khoa dược. Trung bình mỗi bệnh viện có 6 khoa (nhiều nhất là 12 khoa). So sánh với bệnh viện tư ở các nước trong khu vực thì qui mô bệnh viện tư ở nước ta còn nhỏ. Đây có thể là do hạn chế về nguồn vốn đầu tư vào loại hình này. Do đặc thù là kinh doanh, nên các cơ sở y tế tư nhân đều có xu hướng tập trung ở những vùng thành thị, đông dân, điều kiện kinh tế xã hội khá và khả năng thu lợi nhuận cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy các bệnh viện tư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội (15/92) và Hồ Chí Minh (30/92). Các tỉnh miền núi phía Bắc (Yên Bái) và Tây Nguyên (Đăk Lăk), mỗi tỉnh chỉ có 1 bệnh viện tư. Với sự phát triển tương đối nhanh về số lượng và các loại hình, y tế tư nhân đã có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên với đặc điểm là loại hình kinh doanh vì lợi nhuận nên khu vực Vai trò của y tế tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế này chủ yếu cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú cho các bệnh nhân ở mức độ bệnh nhẹ. Kết quả từ nghiên cứu về Điều tra y tế quốc gia 2001-2002 và Điều tra mức sống dân cư 2006 cho thấy y tế tư nhân cung cấp khoảng từ 60-75% các dịch vụ y tế khám và điều trị ngoại trú và chỉ khoảng 4% dịch vụ nội trú [2]. Bên cạnh đó, do sự phân bổ tập trung ở khu vực đô thị nên tỷ lệ sử dụng khám chữa bệnh ngoại trú ở khu vực này cao hơn so với khu vực nông thôn lần lượt là 42.4% và 36.7% (Kết quả từ VLSS 2008). Tình hình sử dụng dịch vụ y tế tư nhân của người dân có xu hướng tăng. Kết quả từ các nghiên cứu về sử dụng dịch vụ y tế tư nhân của người dân trong khoảng thời gian 10 năm qua cho thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ ở khu vực này dao động theo chiều hướng tăng từ 19,6% - 38,9% tùy phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Theo phát hiện từ nghiên cứu của Đơn vị nghiên cứu sức khỏe cộng đồng - Bộ Y tế thì thấy rằng tỷ lệ người đến y tế tư nhân là 19,6% và mua thuốc về tự chữa là 32,8%. Nghiên cứu của Trương Việt Dũng tại 4 xã Quảng Ninh phát hiện tỷ lệ đến thầy thuốc tư chiếm 28%, và tỷ lệ tự điều trị là 22%. Hoặc kết quả nghiên cứu về khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK tại 5 huyện của Thừa Thiên Huế cho thấy tỷ lệ sử dụng y tế tư nhân là 38,9% và tự điều trị là 18,3%. Một nghiên cứu mới đây về sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại Chí Linh, Hải Dương năm 2011 lại cho kết quả khá cao với tỷ lệ người dân tự mua thuốc về điều trị (54%), tiếp đến là đi KCB ngoại trú (34,8%). Tỷ lệ người ốm tự đi mua thuốc và KCB ngoại trú cao như vậy cho thấy xu hướng lựa chọn lĩnh vực y tế tư nhân ngày một nhiều hơn [6]. Khi nhắc tới y tế tư nhân, người ta liên tưởng tới đối tượng sử dụng thường là người có thu nhập cao (người giàu). Thực tế thì không hẳn như vậy. Số liệu từ các nghiên cứu cho thấy đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, đối tượng sử dụng y tế tư nhân tương đối đa dạng bao gồm cả những nhóm yếm thế trong xã hội 58 Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo đánh giá công tác khám chữa bệnh năm 2004 và kế hoạch năm 2005. 2. Báo cáo điều tra y tế quốc gia, 2001-2002. 3. Bộ Y tế, (2005), Báo cáo đánh giá hệ thống y tế 2006. 4. Bộ y tế, (2009), Báo cáo hoạt động y tế tư nhân. 5. Cương Đ.V, Oanh T.T.M và cộng sự, 2007, Báo cáo đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe người nghèo tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên, Phái đoàn ủy ban châu Âu tại Việt Nam. như người già, người nghèo, phụ nữ và trẻ em... Số liệu từ nghiên cứu của Trần Thị Mai Oanh về mô hình ốm đau và hành vi tìm kiếm sức khỏe của người cao tuổi ở một vùng nông thôn Việt Nam cho thấy tỷ lệ người trên 60 tuổi đến thầy thuốc tư để KCB cho bệnh cấp tính chiếm 33,5% và 20,3% là mua thuốc tự điều trị. Tỷ lệ này tương đối cao so với tỷ lệ sử dụng trạm y tế xã (18%) [7]. Phát hiện từ báo cáo đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe người nghèo tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Viện Chiến lược và Chính sách Y tế tiến hành năm 2007 thấy rằng có từ 30-40% người nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc và 20% ở Tây Nguyên tự điều trị khi ốm đau mặc dù có bảo hiểm y tế [5]. Như vậy có thể thấy rằng, y tế tư nhân có khả năng cung cấp các gói dịch vụ khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế tư nhân trong chăm sóc sức khỏe sinh sản tương đối phổ biến. Theo kết quả của điều tra nhân khẩu học và y tế (DHS) năm 2002 thì có tới 14% các phương tiện tránh thai được cung ứng bởi khu vực khu vực tư nhân. Số liệu từ nghiên cứu của Tổng cục Dân số năm 2011 cho thấy, mặc dù đặt dụng cụ tử cung thường được thực hiện tại các cơ sở y tế nhà nước (hơn 80% ở trạm y tế xã), tuy nhiên tỷ lệ y tế tư nhân tham gia đặt dụng cụ tử cung chiếm tới 7,2%. ở thành thị, phụ nữ sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình ở khu vực y tế tư nhân với giá thành tương đối cao với 175.000đ/ca hút điều hòa kinh nguyệt tại Cao Bằng (số liệu từ nghiên cứu hồi cứu về các yếu tố quyết định về nạo hút thai ở phụ nữ Việt Nam, 2000). Tuy nhiên, họ sẵn sàng chấp nhận vì theo họ đây là nơi có bác sĩ chuyên môn cao trong tỉnh, mặt khác sử dụng dịch vụ tư nhân tốn ít thời gian chờ đợi và được phục vụ tận tình. Phụ nữ nông thôn sử dụng y tế tư nhân để khám chữa bệnh khi bị ốm chiếm 23%, trong khi đó, lựa chọn trạm y tế xã chỉ chiếm 13,8% (Số liệu từ nghiên cứu của Lê Thị Hồng Thơm (2006) về tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho phụ nữ nông thôn). Qua đây có thể thấy rằng, bên cạnh các dịch vụ y tế của nhà nước thì y tế tư nhân đóng vai trò không nhỏ trong lựa chọn của người phụ nữ khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tóm lại, y tế tư nhân đã có những đóng góp đáng kể trong công tác chăm sóc sức khỏe người dân. Báo cáo hệ thống y tế Việt Nam 2006 cũng chỉ rõ vai trò không thể thiếu của y tế tư nhân trong đáp ứng yêu cầu cấp bách về khám, chữa bệnh của nhân dân, từ đó phần nào giúp giảm tải cho các bệnh viện công các tuyến. Sự có mặt của y tế tư nhân đã giúp người dân có thêm lựa chọn khi khám chữa bệnh, tiếp cận dịch vụ nhanh hơn và tiết kiệm thời gian chờ đợi ...[3]. Nhà nước đã có chủ trương và chính sách nhằm tăng cường vai trò và sự gắn kết của y tế tư nhân trong hệ thống y tế , tạo đà cho y tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên để khu vực y tế tư nhân phát triển bền vững và đúng định hướng công bằng và hiệu quả thì các công cụ chính sách cần được tiếp tục bổ sung một cách kịp thời và phù hợp. Diễn đàn chính sách 59 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí 6. Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB, (2011): Thực trạng và một số đề xuất. Website 7. Trần Thị Mai Oanh, (2002). Mô hình ốm đau và hành vi tìm kiếm của người cao tuổi ở một vùng nông thôn Việt Nam. Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng. 8. Thủ tướng Chính phủ, (2005), Chương trình hành động của Chính phủ, thực hiện Nghị quyết số 46- NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. 9. Vụ Điều trị, (2007), Báo cáo đánh giá hoạt động y tế tư nhân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdinh_huong_cham_soc_suc_khoe_ban_dau_trong_tinh_hinh_moi_cua.pdf
Tài liệu liên quan