Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế t nhân trong
chăm sóc sức khỏe sinh sản tơng đối phổ biến.
Theo kết quả của điều tra nhân khẩu học và y tế
(DHS) năm 2002 thì có tới 14% các phơng tiện
tránh thai đợc cung ứng bởi khu vực khu vực t
nhân. Số liệu từ nghiên cứu của Tổng cục Dân số
năm 2011 cho thấy, mặc dù đặt dụng cụ tử cung
thờng đợc thực hiện tại các cơ sở y tếnhà nớc
(hơn 80% ở trạm y tế xã), tuy nhiên tỷ lệ y tế t
nhân tham gia đặt dụng cụ tử cung chiếm tới
7,2%. ở thành thị, phụ nữ sử dụng biện pháp kế
hoạch hóa gia đình ở khu vực y tế t nhân với giá
thành tơng đối cao với 175.000đ/ca hút điều
hòa kinh nguyệt tại Cao Bằng (số liệu từ nghiên
cứu hồi cứu về các yếu tố quyết định về nạo hút
thai ở phụ nữ Việt Nam, 2000). Tuy nhiên, họ
sẵn sàng chấp nhận vì theo họ đây là nơi có bác
sĩ chuyên môn cao trong tỉnh, mặt khác sử dụng
dịch vụ t nhân tốn ít thời gian chờ đợi và đợc
phục vụ tận tình. Phụ nữ nông thôn sử dụng y tế
t nhân để khám chữa bệnh khi bị ốm chiếm
23%, trong khi đó, lựa chọn trạm y tế xã chỉ
chiếm 13,8% (Số liệu từ nghiên cứu của Lê Thị
Hồng Thơm (2006) về tiếp cận và sử dụng dịch
vụ y tế cho phụ nữ nông thôn). Qua đây có thể
thấy rằng, bên cạnh các dịch vụ y tế của nhà
nớc thì y tế t nhân đóng vai trò không nhỏ
trong lựa chọn của ngời phụ nữ khi sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong tình hình mới của tổ chức y tế thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
52
heo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới tại
Tuyên ngôn Alma-Ata, Chăm sóc sức khỏe T
ban đầu (CSSKBĐ) là sự chăm sóc sức khỏe
thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ
thuật thực tiễn, có cơ sở khoa học và được chấp
nhận về mặt xã hội, phổ biến đến từng cá nhân và
gia đình trong cộng đồng, qua sự tham gia tích
cực của họ với một chi phí mà cộng đồng và
quốc gia có thể đài thọ được ở bất cứ giai đoạn
phát triển nào, trên tinh thần tự lực và tự quyết.
Nó là một bộ phận hợp thành vừa của hệ thống y
tế Nhà nước mà trong đó, nó giữ vai trò trọng tâm
và là tiêu điểm chính, vừa của sự phát triển
chung về kinh tế xã hội và của cộng đồng. Nó là
nơi tiếp xúc đầu tiên của người dân với hệ thống
y tế, đưa sự chăm sóc sức khỏe đến càng gần
càng tốt nơi người dân sống và lao động, trở
thành yếu tố đầu tiên của một quá trình chăm sóc
2
sức khỏe lâu dài . CSSKBĐ đã trở thành một
chính sách then chốt của Tổ chức Y tế Thế giới từ
năm 1978 với Chương trình “Sức khoẻ cho mọi
người đến năm 2000” nhằm cải thiện sức khỏe
Định hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong
tình hình mới của Tổ chức Y tế Thế giới
1
TS. Trần Thị Mai Oanh
Bảng 1: So sánh những quan điểm của CSSKBĐ giai đoạn trước đây và
3
quan điểm mới trong CSSKBĐ hiện nay
toàn cầu, đặc biệt đối với nhân dân các nước
nghèo. Năm 1998, Tổ chức Y tế Thế giới đã điều
chỉnh nội dung của chính sách này và đổi thành
chương trình “Sức khỏe cho mọi người trong thế
kỷ 21”, trong đó đã khẳng định tiếp tục phát
triển CSSKBĐ. Trong mọi thời kỳ, các nước luôn
coi CSSKBĐ như là một chính sách nền tảng của
hệ thống chăm sóc sức khỏe. Nâng cao dịch vụ
CSSKBĐ cũng là một trong những hoạt động để
củng cố hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Sau hơn 30 năm thực hiện Tuyên ngôn Alma-
Ata về sức khỏe cho mọi người và CSSKBĐ, đến
nay trên thế giới đã có nhiều sự thay đổi lớn, tạo
ra những thách thức mới đối với CSSKBĐ. Đó là
sự thay đổi về mô hình bệnh tật, cơ cấu dân số,
môi trường kinh tế xã hội, sự mong đợi nhiều hơn
của người dân về vấn đề công bằng trong chăm
sóc sức khỏe và tiếp cận dịch vụ y tế có chất
lượng. Trước những thay đổi này, vào năm 2008,
Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra định hướng mới
về thực hiện CSSKBĐ trong tình hình mới, với
những quan điểm tóm tắt trong bảng dưới đây.
Diễn đàn chính sách
Những quan tâm đổi mới CSSKBĐ hiện nayCSSKBĐ trước đây
Mở rộng sự tiếp cận gói can thiệp y tế cơ bản và
thuốc thiết yếu cho người nghèo ở vùng nông thôn
Chuyển đổi và điều chỉnh hệ thống y tế hiện có
nhằm mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho toàn dân và
chương trình bảo đảm an sinh sức khỏe
Giải quyết vấn đề sức khỏe cho mọi người dân
trong cộng đồng
Chú trọng tới sức khỏe bà mẹ và trẻ em
1
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
2
Tuyên ngôn Hội nghị Alma- Ata "Sức khỏe cho mọi người từ nay đến năm 2000 và chăm sóc sức khỏe ban đầu", 12/09. 1978.
3
The World Health Report 2008: Primary Health Care Now More Than Ever
53
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Trong Báo cáo sức khỏe thế giới 2008, Tổ
chức Y tế Thế giới đã đưa ra bốn nội dung cải
cách của CSSKBĐ, cụ thể là:
(1) Cải cách về bao phủ toàn dân: nhằm
nâng cao công bằng trong CSSK. Đây là những
cải cách đảm bảo cho hệ thống y tế hoạt động
công bằng mà trước hết là sự dịch chuyển của
một hệ thống y tế hướng tới tiếp cận toàn dân,
được thể hiện qua việc đảm bảo tính sẵn có của
dịch vụ y tế, loại trừ được các rào cản trong tiếp
cận dịch vụ y tế của người dân và thực hiện bảo
đảm an sinh sức khỏe.
(2) Cải cách cung ứng dịch vụ y tế: làm cho
hệ thống y tế hướng tới con người. Đây là cải
cách, tổ chức lại hệ thống cung ứng dịch vụ y tế,
trong đó chú trọng tới các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu hướng tới nhu cầu và mong đợi
của người dân; làm cho dịch vụ y tế phù hợp hơn
và mang tính xã hội; có tính đáp ứng hơn đối với
bối cảnh thay đổi của toàn cầu mà kết quả đầu ra
của nó là mang lại sức khỏe tốt hơn cho mọi
người dân. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo
mạng lưới CSSKBĐ cần được tổ chức lại theo
cách: (i) mang dịch vụ y tế đến gần hơn với
người dân; (ii) mạng lưới CSSKBĐ đáp ứng
được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của từng nhóm
dân cư; (iii) nhóm cán bộ tham gia cung cấp các
dịch vụ CSSKBĐ chính là trung tâm của sự điều
phối, đảm bảo sự thành công của hệ thống y tế
quốc gia.
(3) Cải cách chính sách công cộng: nhằm
tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao sức
khỏe của cộng đồng, bảo đảm cộng đồng khỏe
mạnh hơn thông qua việc lồng ghép các hoạt
Tuyên truyền lối sống khỏe mạnh và làm giảm tác
động tới sức khỏe của những rủi ro về môi trường
và xã hội
Cải thiện môi trường vệ sinh, nước, hệ thống xử lý
rác thải và giáo dục sức khỏe ở tuyến thôn bản
Sử dụng các kỹ thuật đơn giản đối với đối tượng
tình nguyện viên và nhân viên y tế cộng đồng
không chuyên nghiệp
Tạo điều kiện cho đội ngũ nhân viên y tế tiếp cận
và sử dụng các kỹ thuật phù hợp và thuốc phù hợp
Thể chế hóa sự tham gia của tổ chức dân sự xã hội
trong xây dựng chính sách và thể chế hóa cơ chế
trách nhiệm giải trình
Sự tham gia dưới góc độ huy động nguồn lực địa
phương và quản lý trung tâm y tế thông qua Ban
sức khỏe địa phương
Các dịch vụ y tế do Nhà nước cung ứng và đảm
bảo nguồn tài chính, quản lý tập trung
Hệ thống y tế phức hợp hoạt động trong bối cảnh
toàn cầu
Quản lý trong hoàn cảnh nguồn lực khan hiếm Huy động tăng nguồn lực cho y tế, hướng tới bao
phủ toàn dân
Viện trợ và hỗ trợ kỹ thuật song phương Sự đoàn kết toàn cầu và học hỏi kinh nghiệm
Chăm sóc sức khỏe ban đầu có vai trò điều phối
chăm sóc sức khỏe toàn diện ở tất cả các tuyến
Chăm sóc ban đầu là đối lập với chăm sóc bệnh
viện
CSSKBĐ là tốn kém, đòi hỏi đầu tư đáng kể,
nhưng mang lại hiệu quả cao hơn so với giải pháp
khác.
CSSKBĐ rẻ, chỉ cần mức đầu tư vừa phải
Tập trung vào một số bệnh, chủ yếu bệnh nhiễm
trùng và bệnh cấp tính
Đáp ứng một cách toàn diện đối với những mong
đợi và nhu cầu từ phía người dân, mở rộng phạm vi
chăm sóc tới các nguy cơ và căn nguyên gây bệnh
54
động y tế công cộng với CSSKBĐ và hướng tới
các chính sách công cộng có lợi cho sức khỏe
mang tính liên ngành.
(4) Cải cách sự lãnh đạo: thay thế hình thức
lãnh đạo kiểu hành chính mệnh lệnh hoặc hình
thức phó mặc cho tư nhân tự kinh doanh trong thị
trường y tế bằng hình thức lãnh đạo toàn diện, dân
chủ, dựa trên đàm phán (inclusive, participatory
and negotiation-based leadership). Như vậy, cải
cách lãnh đạo trong CSSKBĐ xác định vai trò và
trách nhiệm chủ yếu của nhà nước, chuyển từ sự
lãnh đạo bằng mệnh lệnh sang lãnh đạo thực hiện
các chính sách được xây dựng có sự tham gia của
cộng đồng và có sự đàm phán với các bên liên
quan. Cải cách lãnh đạo CSSKBĐ đòi hỏi cân đối
được nguồn tài chính để đầu tư nâng cao năng lực
lãnh đạo và quản lý hệ thống y tế.
Có thể nói, nhan đề của Báo cáo sức khỏe thế
giới 2008 của WHO “Primary health care -
4
Now more than ever” đã thể hiện một cách súc
tích quan điểm của tổ chức này đối với chính
sách CSSKBĐ. Để tiếp tục duy trì vai trò nền
tảng của CSSKBĐ trong hệ thống y tế Việt Nam
trong hoàn cảnh hiện nay, Báo cáo sức khỏe thế
giới 2008 của WHO là một trong những tài liệu
tham khảo quan trọng đối với những người làm
công tác hoạch định chính sách y tế.
4
Tạm dịch: “Chăm sóc sức khỏe ban đầu - hãy nhiều hơn
nữa”
Diễn đàn chính sách
55
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc
Đổi mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
Sự phát triển và vai trò của y tế tư nhân trong
chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
1
Nguyễn Thị Thắng
nghĩa. Đây là giai đoạn mở đầu cho những cải
cách về y tế, trong đó có việc ban hành các chính
sách liên quan đến sự hình thành và phát triển
của khu vực y tế tư nhân. Năm 1993, với sự ra
đời của Pháp lệnh số 26/PL/CTN/1993 về Hành
nghề y dược tư nhân, y tế tư nhân chính thức
được công nhận là một bộ phận hoạt động trong
hệ thống y tế nước ta. Để mở rộng các loại hình
hoạt động tạo đà cho khu vực y tế tư nhân phát
triển, Chính phủ đã ra Nghị quyết số
90/1997/NQ-CP về phương hướng và chủ
trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hóa cho phép thành lập bệnh viện bán công,
bệnh viện tư, bệnh viện liên doanh hoặc 100%
vốn đầu tư nước ngoài. Tới năm 1999, Nghị định
số 73/1999/NĐ-CP tiếp tục được Chính phủ ban
hành nhằm kêu gọi và khuyến khích các tổ chức
tư nhân và các cá nhân cùng tham gia đầu tư cho
y tế với điều kiện là không vì mục đích lợi
nhuận. Tuy nhiên vấn đề đánh giá và kiểm soát
mục đích đầu tư không vì lợi nhuận theo qui
định của Nghị định thì chưa được qui định cụ thể
trong văn bản.
Sau 10 năm triển khai Pháp lệnh số
26/PL/CTN/1993, năm 2003, Pháp lệnh số
07/2003/PL - UBTVQH11 được ban hành thay
thế cho Pháp lệnh 26 nhằm bổ sung, sửa đổi một
số điều cho phù hợp với điều kiện thực tế của sự
phát triển kinh tế xã hội. Để tạo điều kiện
khuyến khích sự tham gia của y tế tư nhân trong
hệ thống y tế nhằm cung ứng dịch vụ tốt hơn cho
người dân, ngày 22/3/2005, Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 46-
1
Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế
ới hầu hết các quốc gia trên thế giới, y tế tư
nhân là một cấu phần quan trọng trong V
việc chia sẻ công tác chăm sóc sức khỏe người
dân với hệ thống y tế công lập thông qua cung
cấp các dịch vụ y tế. ở một số nước, y tế tư nhân
còn tham gia vào quá trình xây dựng chính sách
với vai trò của các hội nghề nghiệp. Tại Việt
Nam, y tế tư nhân đã hình thành từ những năm
cuối của thập niên 80 và chính thức được hợp
pháp hóa vào những năm đầu của thập niên 90.
Với các loại hình hoạt động bao gồm bệnh viện
đa khoa / chuyên khoa, phòng khám đa khoa /
chuyên khoa, nhà hộ sinh, cơ sở dịch vụ y tế, cơ
sở vận chuyển người bệnh trong nước và ra nước
ngoài..., y tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ và
trở thành một bộ phận của hệ thống y tế, đáp ứng
nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày càng đa
dạng và nâng cao của người dân.
Là một bộ phận của hệ thống y tế, y tế tư nhân
đã từng bước phát huy vai trò của mình trong
công tác khám chữa bệnh ban đầu, tư vấn sức
khỏe, chăm sóc y tế và tham gia phát hiện dịch
bệnh sớm. Với sự có mặt của y tế tư nhân, khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân được cải
thiện. Bên cạnh đó y tế tư nhân phần nào tạo ra sự
cạnh tranh với hệ thống y tế công trong việc cải
thiện chất lượng dịch vụ, nâng cấp trang thiết bị,
cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ cao và nâng
cao vấn đề y đức trong công tác khám chữa bệnh.
Các chính sách của nhà nước đối với sự
phát triển của y tế tư nhân
56
NQ-TW với định hướng phát triển khu vực y tế
tư nhân một cách rõ ràng hơn “Nhà nước tạo
điều kiện và khuyến khích phát triển các cơ sở y
tế tư nhân. Các cá nhân hoặc tổ chức tư nhân
được phép đăng ký thành lập cơ sở hành nghề y
dược, đặc biệt là các bệnh viện đa khoa, chuyên
khoa tư nhân”[5]. Để Nghị quyết 46 đi vào
thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
69/2008/NĐ-CP về khuyến khích xã hội hóa
trong các hoạt động giáo dục, nghề nghiệp, y tế,
văn hóa, thể thao và môi trường. Theo tinh thần
của Nghị định này, các nhà đầu tư thành lập
bệnh viện sẽ được cấp hay cho thuê đất miễn phí
và được hưởng các ưu đãi về thuế... Như vậy, có
thể nói các chính sách của Nhà nước đã tạo nên
một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư
phát triển khối bệnh viện tư nhân để tham gia
vào hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh
chung.
Năm 2009, Pháp lệnh số 07/2003/PL-
UBTVQH11 đã được thay thế bởi Luật số
40/2009/QH12 về Khám và Chữa bệnh. Theo
quy định của Luật, Bộ Y tế vẫn là cơ quan duy
nhất chịu trách nhiệm kiểm định, cấp phép hoạt
động cho khối bệnh viện tư nhân và phân cấp
cho các Sở Y tế địa phương kiểm định và cấp
phép hoạt động cho các phòng khám đa khoa và
chuyên khoa. Trong Luật Khám và chữa bệnh
cũng như các văn bản pháp luật trước đó thì vai
trò của các hội nghề nghiệp, hội chuyên môn
trong các quy trình thành lập, kiểm định, cấp
phép đối với các cơ sở y tế tư nhân vẫn chưa được
đề cập.
Sự phát triển của y tế tư nhân
Trải qua hai mươi năm hình thành và phát
triển, y tế tư nhân Việt Nam đã phát triển nhanh
chóng cả về số lượng và loại hình, cung cấp một
lượng không nhỏ dịch vụ y tế cho người dân.
Số cơ sở YTTN qua các năm
65000
30820
27400
19836
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
1998 2001 2005 2007
(Nguồn số liệu: Báo cáo JARH 2006 và báo cáo đánh giá hoạt động YTTN Vụ Điều trị 2007)
Nhìn vào số liệu trên biểu đồ có thể thấy số
lượng các cơ sở y tế tư nhân tăng khá nhanh.
Trong vòng 10 năm số cơ sở y tế tư nhân đã tăng
gấp hơn 3 lần từ 19.836 cơ sở (năm 1998) lên tới
65.000 cơ sở (năm 2007). Bên cạnh tăng về số
lượng thì loại hình cũng ngày một đa dạng hơn.
Năm 2001 trong số các cơ sở y tế tư nhân mới
chỉ bao gồm loại hình bệnh viện (14), phòng
khám đa khoa (1.139), phòng khám chuyên
khoa (16.900) và cơ sở dịch vụ y tế (7.793) thì
tới năm 2005 số bệnh viện đã lên tới 48 bệnh
viện, 3.020 phòng khám đa khoa, 27.665 phòng
khám chuyên khoa/dịch vụ y tế và 87 nhà hộ
sinh.
Bệnh viện tư phát triển tương đối nhanh cả về
số lượng và qui mô giường bệnh. Năm 1995, cả
nước mới có 1 bệnh viện với 50 giường bệnh
nhưng chỉ sau 5 năm (2000) số bệnh viện đã
Diễn đàn chính sách
57
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
tăng lên là 12 với tổng số giường là 749. Tới
2005, số bệnh viện đã tăng gấp đôi (48 bệnh
viện) và số giường bệnh tăng gấp hơn 4 lần
(3.245 giường) so với năm 2000. Hai năm sau
(2007), số bệnh viện tư đã lên tới 92 với tổng số
giường bệnh là 5.934 [3,4]. Theo số liệu của Cục
Quản lý Khám chữa bệnh, năm 2010 số bệnh
viện tư là 121 (gấp 1,3 lần so với năm 2007) và
số giường bệnh là 6.920.
Tuy số bệnh viện tư tăng tương đối nhanh qua
các năm, nhưng qui mô còn hạn chế. Theo số
liệu về hoạt động y tế tư nhân năm 2009 của Bộ
Y tế thì trung bình bệnh viện tư có khoảng 79
giường bệnh, trong đó bệnh viện có số giường ít
nhất là 10 và bệnh viện có số giường cao nhất là
500 giường bệnh. Tỷ lệ bệnh viện tư so với bệnh
viện công lập chiếm 8,6% (92/1.063) và tỷ lệ
tổng số giường bệnh tư nhân so với tổng số
giường bệnh công lập năm 2007 chiếm khoảng
9,3% (5.934/129.082 giường). Tất cả các bệnh
viện tư đều có các khoa cơ bản như khoa khám
bệnh, khoa cấp cứu, khoa cận lâm sàng và khoa
dược. Trung bình mỗi bệnh viện có 6 khoa
(nhiều nhất là 12 khoa). So sánh với bệnh viện tư
ở các nước trong khu vực thì qui mô bệnh viện tư
ở nước ta còn nhỏ. Đây có thể là do hạn chế về
nguồn vốn đầu tư vào loại hình này.
Do đặc thù là kinh doanh, nên các cơ sở y tế
tư nhân đều có xu hướng tập trung ở những vùng
thành thị, đông dân, điều kiện kinh tế xã hội khá
và khả năng thu lợi nhuận cao. Số liệu thống kê
của Bộ Y tế cho thấy các bệnh viện tư chủ yếu
tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội
(15/92) và Hồ Chí Minh (30/92). Các tỉnh miền
núi phía Bắc (Yên Bái) và Tây Nguyên (Đăk
Lăk), mỗi tỉnh chỉ có 1 bệnh viện tư.
Với sự phát triển tương đối nhanh về số lượng
và các loại hình, y tế tư nhân đã có những đóng
góp nhất định trong sự nghiệp chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên với đặc điểm là
loại hình kinh doanh vì lợi nhuận nên khu vực
Vai trò của y tế tư nhân trong cung ứng
dịch vụ y tế
này chủ yếu cung cấp các dịch vụ khám chữa
bệnh ngoại trú cho các bệnh nhân ở mức độ
bệnh nhẹ. Kết quả từ nghiên cứu về Điều tra y tế
quốc gia 2001-2002 và Điều tra mức sống dân
cư 2006 cho thấy y tế tư nhân cung cấp khoảng
từ 60-75% các dịch vụ y tế khám và điều trị
ngoại trú và chỉ khoảng 4% dịch vụ nội trú [2].
Bên cạnh đó, do sự phân bổ tập trung ở khu vực
đô thị nên tỷ lệ sử dụng khám chữa bệnh ngoại
trú ở khu vực này cao hơn so với khu vực nông
thôn lần lượt là 42.4% và 36.7% (Kết quả từ
VLSS 2008).
Tình hình sử dụng dịch vụ y tế tư nhân của
người dân có xu hướng tăng. Kết quả từ các
nghiên cứu về sử dụng dịch vụ y tế tư nhân của
người dân trong khoảng thời gian 10 năm qua
cho thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ ở khu vực này dao
động theo chiều hướng tăng từ 19,6% - 38,9%
tùy phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Theo phát
hiện từ nghiên cứu của Đơn vị nghiên cứu sức
khỏe cộng đồng - Bộ Y tế thì thấy rằng tỷ lệ
người đến y tế tư nhân là 19,6% và mua thuốc về
tự chữa là 32,8%. Nghiên cứu của Trương Việt
Dũng tại 4 xã Quảng Ninh phát hiện tỷ lệ đến
thầy thuốc tư chiếm 28%, và tỷ lệ tự điều trị là
22%. Hoặc kết quả nghiên cứu về khả năng tiếp
cận các dịch vụ CSSK tại 5 huyện của Thừa
Thiên Huế cho thấy tỷ lệ sử dụng y tế tư nhân là
38,9% và tự điều trị là 18,3%. Một nghiên cứu
mới đây về sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của
người dân tại Chí Linh, Hải Dương năm 2011 lại
cho kết quả khá cao với tỷ lệ người dân tự mua
thuốc về điều trị (54%), tiếp đến là đi KCB
ngoại trú (34,8%). Tỷ lệ người ốm tự đi mua
thuốc và KCB ngoại trú cao như vậy cho thấy xu
hướng lựa chọn lĩnh vực y tế tư nhân ngày một
nhiều hơn [6].
Khi nhắc tới y tế tư nhân, người ta liên tưởng
tới đối tượng sử dụng thường là người có thu
nhập cao (người giàu). Thực tế thì không hẳn
như vậy. Số liệu từ các nghiên cứu cho thấy đối
với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, đối
tượng sử dụng y tế tư nhân tương đối đa dạng
bao gồm cả những nhóm yếm thế trong xã hội
58
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo đánh giá công tác khám chữa bệnh năm 2004 và kế hoạch năm 2005.
2. Báo cáo điều tra y tế quốc gia, 2001-2002.
3. Bộ Y tế, (2005), Báo cáo đánh giá hệ thống y tế 2006.
4. Bộ y tế, (2009), Báo cáo hoạt động y tế tư nhân.
5. Cương Đ.V, Oanh T.T.M và cộng sự, 2007, Báo cáo đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe người
nghèo tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên, Phái đoàn ủy ban châu Âu tại Việt Nam.
như người già, người nghèo, phụ nữ và trẻ em...
Số liệu từ nghiên cứu của Trần Thị Mai Oanh
về mô hình ốm đau và hành vi tìm kiếm sức khỏe
của người cao tuổi ở một vùng nông thôn Việt
Nam cho thấy tỷ lệ người trên 60 tuổi đến thầy
thuốc tư để KCB cho bệnh cấp tính chiếm
33,5% và 20,3% là mua thuốc tự điều trị. Tỷ lệ
này tương đối cao so với tỷ lệ sử dụng trạm y tế
xã (18%) [7]. Phát hiện từ báo cáo đánh giá tình
hình chăm sóc sức khỏe người nghèo tại 5 tỉnh
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế tiến hành năm
2007 thấy rằng có từ 30-40% người nghèo ở các
tỉnh miền núi phía Bắc và 20% ở Tây Nguyên tự
điều trị khi ốm đau mặc dù có bảo hiểm y tế [5].
Như vậy có thể thấy rằng, y tế tư nhân có khả
năng cung cấp các gói dịch vụ khác nhau cho
các đối tượng khác nhau.
Phụ nữ sử dụng dịch vụ y tế tư nhân trong
chăm sóc sức khỏe sinh sản tương đối phổ biến.
Theo kết quả của điều tra nhân khẩu học và y tế
(DHS) năm 2002 thì có tới 14% các phương tiện
tránh thai được cung ứng bởi khu vực khu vực tư
nhân. Số liệu từ nghiên cứu của Tổng cục Dân số
năm 2011 cho thấy, mặc dù đặt dụng cụ tử cung
thường được thực hiện tại các cơ sở y tế nhà nước
(hơn 80% ở trạm y tế xã), tuy nhiên tỷ lệ y tế tư
nhân tham gia đặt dụng cụ tử cung chiếm tới
7,2%. ở thành thị, phụ nữ sử dụng biện pháp kế
hoạch hóa gia đình ở khu vực y tế tư nhân với giá
thành tương đối cao với 175.000đ/ca hút điều
hòa kinh nguyệt tại Cao Bằng (số liệu từ nghiên
cứu hồi cứu về các yếu tố quyết định về nạo hút
thai ở phụ nữ Việt Nam, 2000). Tuy nhiên, họ
sẵn sàng chấp nhận vì theo họ đây là nơi có bác
sĩ chuyên môn cao trong tỉnh, mặt khác sử dụng
dịch vụ tư nhân tốn ít thời gian chờ đợi và được
phục vụ tận tình. Phụ nữ nông thôn sử dụng y tế
tư nhân để khám chữa bệnh khi bị ốm chiếm
23%, trong khi đó, lựa chọn trạm y tế xã chỉ
chiếm 13,8% (Số liệu từ nghiên cứu của Lê Thị
Hồng Thơm (2006) về tiếp cận và sử dụng dịch
vụ y tế cho phụ nữ nông thôn). Qua đây có thể
thấy rằng, bên cạnh các dịch vụ y tế của nhà
nước thì y tế tư nhân đóng vai trò không nhỏ
trong lựa chọn của người phụ nữ khi sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Tóm lại, y tế tư nhân đã có những đóng góp
đáng kể trong công tác chăm sóc sức khỏe người
dân. Báo cáo hệ thống y tế Việt Nam 2006 cũng
chỉ rõ vai trò không thể thiếu của y tế tư nhân
trong đáp ứng yêu cầu cấp bách về khám, chữa
bệnh của nhân dân, từ đó phần nào giúp giảm tải
cho các bệnh viện công các tuyến. Sự có mặt của
y tế tư nhân đã giúp người dân có thêm lựa chọn
khi khám chữa bệnh, tiếp cận dịch vụ nhanh hơn
và tiết kiệm thời gian chờ đợi ...[3]. Nhà nước đã
có chủ trương và chính sách nhằm tăng cường
vai trò và sự gắn kết của y tế tư nhân trong hệ
thống y tế , tạo đà cho y tế tư nhân phát triển. Tuy
nhiên để khu vực y tế tư nhân phát triển bền
vững và đúng định hướng công bằng và hiệu quả
thì các công cụ chính sách cần được tiếp tục bổ
sung một cách kịp thời và phù hợp.
Diễn đàn chính sách
59
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
6. Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB, (2011): Thực trạng và một số đề xuất.
Website
7. Trần Thị Mai Oanh, (2002). Mô hình ốm đau và hành vi tìm kiếm của người cao tuổi ở một vùng nông
thôn Việt Nam. Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng.
8. Thủ tướng Chính phủ, (2005), Chương trình hành động của Chính phủ, thực hiện Nghị quyết số 46-
NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân trong tình hình mới.
9. Vụ Điều trị, (2007), Báo cáo đánh giá hoạt động y tế tư nhân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dinh_huong_cham_soc_suc_khoe_ban_dau_trong_tinh_hinh_moi_cua.pdf