hứ hai, doanh nghiệp tư nhân có thể
kinh doanh trong mọi lĩnh vực kinh doanh
mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên, sẽ là hiệu
quả và phù hợp hơn khi loại hình doanh
nghiệp này chỉ nên kinh doanh trong các lĩnh
vực đòi hỏi sự chịu trách nhiệm cao về mặt
pháp lý và tài sản. Trên thực tế, có khá nhiều
ngành nghề kinh doanh có thể gây rủi ro rất
lớn đối với đời sống xã hội (tư vấn pháp lý,
khám, chữa bệnh, thiết kế kiến trúc ). Vì
thế, nếu để những người chủ kinh doanh
dưới hình thức các công ty được chịu trách
nhiệm hữu hạn về tài sản thì rất dễ xảy ra rủi
ro, tổn thất cho khách hàng vì sự chủ quan,
thiếu tinh thần trách nhiệm. Bởi lẽ, những
người kinh doanh luôn được xác định trước
sẽ chỉ phải chịu những hậu quả trong phạm
vi số vốn góp. Trước đây, pháp luật đã từng
có quy định, khi kinh doanh các dịch vụ
pháp lý thì bắt buộc phải kinh doanh dưới
hình thức là các văn phòng luật hoặc phải
thành lập theo mô hình công ty luật hợp danh
và mô hình này được tổ chức gần như theo
mô hình công ty hợp danh trong luật Doanh
nghiệp14. Hoặc quy định hiện nay, đối với
Văn phòng Thừa phát lại nếu do một thừa
phát lại thành lập thì được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân15.
Từ đó, có thể thấy rằng, pháp luật cũng đã
cố gắng hạn chế phần nào rủi ro, tổn thất cho
xã hội. Chính vì vậy, quy định những ngành
nghề kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ
và luôn đòi hỏi trách nhiệm cao về mặt pháp
lý thì phải bắt buộc đăng ký hoạt động dưới
mô hình của loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Việc quy định này có thể góp phần định
hướng các ngành nghề kinh doanh đi theo
đúng trật tự, hoạt động an toàn, hiệu quả và
phù hợp với thế mạnh của loại hình doanh
nghiệp tư nhân.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 159 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Doanh nghiệp tư nhân và sự phù hợp với môi trường thương mại tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
11
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ SỰ PHÙ HỢP VỚI MÔI TRƯỜNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Vinh Hưng1
1. Dẫn nhập
Đối với các quốc gia phát triển, thành phần
kinh tế tư nhân luôn giữ vai trò rất quan trọng
và là thành phần kinh tế chủ đạo. Kinh tế nhà
nước chỉ giữ vai trò đầu tàu, định hướng cho sự
phát triển của cả hệ thống kinh tế. Nhận thức
được điều này, trong những lần sửa đổi, bổ
sung và ban hành mới của luật Doanh nghiệp,
loại hình doanh nghiệp tư nhân vẫn tiếp tục
được pháp luật quy định. Tuy nhiên, kể từ khi
Việt Nam tham gia các sân chơi kinh tế như
ASEAN, AFTA, APEC, WTO, TPP thì sức
cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với các
loại hình công ty khác ngày càng giảm sút. Mặt
khác, trải qua một thời gian triển khai tương
đối dài, doanh nghiệp tư nhân ngày càng bộc lộ
nhiều hạn chế. Bởi vậy, sự phù hợp giữa doanh
nghiệp tư nhân với nền kinh tế, thương mại tại
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế
đang là vấn đề rất cần có sự nghiên cứu. Bởi lẽ,
qua việc nghiên cứu có thể tìm ra các giải pháp
và định hướng cho sự phát triển của loại hình
doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập quốc tế.
2. Ưu điểm của doanh nghiệp tư nhân
Theo Điều 183 của luật Doanh nghiệp năm
2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp
do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp”. Với định nghĩa như
vậy, thực chất, doanh nghiệp tư nhân là loại
hình công ty một chủ sở hữu tương tự như
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Tuy nhiên, căn cứ quy định về doanh nghiệp
tư nhân, loại hình doanh nghiệp này có những
đặc điểm để phân biệt với các loại hình doanh
nghiệp khác như: doanh nghiệp tư nhân chỉ có
duy nhất một chủ sở hữu và phải là cá nhân
(pháp nhân không được phép thành lập doanh
nghiệp tư nhân); doanh nghiệp tư nhân không
có tư cách pháp nhân; mỗi cá nhân chỉ được
quyền thành lập duy nhất một doanh nghiệp tư
nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa vụ tài sản của
1 Tiến sỹ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt tiếng Việt: Doanh nghiệp tư nhân là một trong những mô hình doanh nghiệp xuất
hiện sớm nhất tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Cùng với luật Công ty năm 1990, luật Doanh
nghiệp tư nhân năm 1990 được ban hành và đây vốn là loại hình doanh nghiệp được Nhà nước
định hướng phát triển nhằm phát huy mọi tiềm năng của các cá nhân, xã hội để góp phần vào
sự nghiệp đổi mới kinh tế. Mặc dù vậy, cho đến nay, doanh nghiệp tư nhân vẫn gần như không
phát triển tại Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu về sự phù hợp giữa doanh nghiệp tư nhân với
môi trường thương mại tại Việt Nam là rất cần thiết.
Từ khóa: Doanh nghiệp tư nhân, luật Doanh nghiệp, kinh tế thị trường, môi trường thương
mại, hội nhập quốc tế.
Nhận bài: 01/01/2017; Hoàn thành biên tập: 02/2/2017; Duyệt đăng: 03/3/2017
Tóm tắt tiếng Anh:
Abstract: Private enterprise is one of the forms of enterprise which exists earliest in the
renovation of Vietnam. Law on Private Enterprise 1990, along with Law on Company 1990,
was promulgated by Vietnam State in order to define the form of private enterprise for purpose
of promoting all potentials and resource of individuals and society to make contribution in the
process of economic renovation. However, until now, the form of private enterprise has almost
made no further development in Vietnam. Thus, study on suitability of private enterprise to
commercial environment of Vietnam is essential.
Keywords: Private enterprise, law on Enterprise, market-oriented economy, trading
environment, international integration.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
12
doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không
được quyền phát hành chứng khoán các loại2.
Từ các đặc điểm trên có thể rút ra mấy vấn đề
về ưu điểm của doanh nghiệp tư nhân sau đây:
Thứ nhất, khả năng chủ động, quyết đoán
trong kinh doanh:
Cơ sở kinh doanh một chủ (sole
proprietorship hay sole trader) là hình thức
kinh doanh mà người chủ cũng đồng thời là
người quản lý - điều hành cơ sở kinh doanh
trên danh nghĩa của chính họ, không có sự
phân tách về quyền sở hữu tài sản của người
chủ và cơ sở kinh doanh3. Điều này mang lại sự
chủ động trong công việc kinh doanh khi người
chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ
thông tin, chia sẻ quyền lực với các thành viên
khác. Mặt khác, điểm thuận lợi của nó còn cho
phép chủ doanh nghiệp tư nhân luôn có thể kịp
thời, linh hoạt, quyết đoán trước các biến động
kinh doanh một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp tư nhân còn có
một số quyền năng khá đặc thù như: quyền cho
thuê doanh nghiệp, quyền bán doanh nghiệp4.
Tùy theo tình hình cụ thể của từng giai đoạn, các
quyền hạn này giúp cho chủ sở hữu doanh nghiệp
có thêm sự lựa chọn và góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động cho doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, mọi lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh thuộc về người chủ sở hữu:
Căn cứ khoản 1, Điều 185 của luật Doanh
nghiệp năm 2014 thì chủ doanh nghiệp tư nhân
có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật. Do là loại hình doanh nghiệp một chủ sở
hữu nên mọi khoản lời từ kinh doanh của doanh
nghiệp, đương nhiên sẽ chỉ có chủ sở hữu là
người duy nhất được thụ hưởng. Như vậy, chủ
sở hữu luôn phải tự có ý thức cao trong mọi
công việc của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì
chính các quyết định hàng ngày của doanh
nghiệp sẽ trực tiếp tác động đến lợi ích của chủ
sở hữu. Khi xem xét dưới chiều hướng thuận
lợi của chế độ chịu trách nhiệm vô hạn về tài
sản của chủ doanh nghiệp tư nhân thì đây lại là
một ưu thế mà doanh nghiệp này có thể dễ dàng
vay mượn các khoản tín dụng lớn từ ngân hàng
hay các chủ nợ. Bởi lẽ, toàn bộ “tài sản của chủ
doanh nghiệp là một bảo đảm cho việc thanh
toán các khoản nợ của doanh nghiệp”5.
Thứ ba, quản trị điều hành doanh nghiệp
tư nhân khá đơn giản và hiệu quả:
Căn cứ Điều 185 của luật Doanh nghiệp
năm 2014, chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn
quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, trực tiếp hoặc thuê
người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh
doanh và đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Điều này xuất phát bởi lý do đây là loại
hình doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu nên
chủ doanh nghiệp tư nhân không phải san sẻ
quyền lực với bất kỳ ai. Mặt thuận lợi của các
doanh nghiệp một chủ sở hữu chính là chủ sở
hữu luôn có toàn quyền tự quyết định mọi vấn
đề khác nhau của doanh nghiệp mà không cần
phải có sự đồng ý của bất kỳ thành viên khác.
3. Hạn chế của doanh nghiệp tư nhân
Bên cạnh những điểm mạnh, doanh nghiệp
tư nhân còn tồn tại những hạn chế như:
Thứ nhất, vấn đề tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp tư nhân:
Trong tất cả các loại hình doanh nghiệp của
luật Doanh nghiệp 2014, chỉ có doanh nghiệp
tư nhân là không có tư cách pháp nhân. Trước
đây, đã có ý kiến cho rằng “việc không phải là
pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân cũng gặp
phải một số khó khăn nhất định và bị hạn chế
ít nhiều trong hoạt động thương mại”6. Từ thực
tế kinh doanh cũng cho thấy, một doanh nghiệp
không có tư cách pháp nhân thường bị hạn chế
hoạt động vì một số lĩnh vực kinh doanh yêu
cầu các tổ chức tham gia bắt buộc phải có tư
cách pháp nhân. Nói cách khác, việc không
phải là pháp nhân, khiến cho doanh nghiệp tư
nhân gặp nhiều hạn chế khi tham gia vào các
quan hệ thương mại như: “khi muốn tham gia
vào quỹ thành viên của loại hình quỹ đầu tư
chứng khoán bắt buộc tất cả các thành viên góp
2 Điều 183, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
3 Bùi Xuân Hải, Pháp luật doanh nghiệp và đầu tư với vấn đề hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01/2008, tr. 37.
4 Nguyễn Viết Tý (chủ biên 2011), Giáo trình Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Tập I, tr. 94 - 97.
5 Nguyễn Như Phát và Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 195.
6 Bùi Ngọc Cường (chủ biên 2010), Giáo trình Luật thương mại, Nxb giáo dục Việt Nam, Tập I. tr. 25.
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
13
vốn phải là pháp nhân. Vốn của quỹ loại hình
này, không phải do công chúng đầu tư đóng
góp mà do các thành viên của quỹ, gồm những
tổ chức có tư cách pháp nhân đóng góp”7.
Thứ hai, về khả năng huy động vốn và việc
mở rộng quy mô của doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân không được phát
hành chứng khoán các loại khi cần huy động
vốn. Mặt khác, doanh nghiệp tư nhân cũng
không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua
cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh,
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần8. Với quy định này thì nguồn vốn hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân chỉ giới hạn
trong phạm vi số vốn có được của người chủ
doanh nghiệp tư nhân. Hơn thế nữa, chủ doanh
nghiệp tư nhân còn phải chịu tự trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân. Cũng chính vì
vậy, để hạn chế bớt rủi ro, pháp luật không cho
phép doanh nghiệp tư nhân được quyền góp
vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp
trong các loại hình công ty khác. Từ đó, càng
làm cho doanh nghiệp tư nhân bị hạn chế trong
phạm vi kinh doanh nhỏ, lẻ và gặp rất nhiều
khó khăn khi cần huy động vốn hoặc muốn mở
rộng quy mô. Đến khi có nhu cầu mở rộng
phạm vi doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư
nhân chỉ có thể chuyển đổi thành công ty trách
nhiệm hữu hạn9, hoặc phải bán lại toàn bộ
doanh nghiệp tư nhân cho một cá nhân khác.
Thứ ba, chủ doanh nghiệp tư nhân phải
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của
doanh nghiệp:
Nguyên tắc pháp định, chủ doanh nghiệp tư
nhân giống thành viên hợp danh của công ty
hợp danh phải tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy
định thêm các điều kiện đối với chủ doanh
nghiệp tư nhân: mỗi cá nhân chỉ được quyền
thành lập một doanh nghiệp tư nhân và chủ
doanh nghiệp tư nhân cũng không được đồng
thời là chủ hộ kinh doanh hay thành viên của
công ty hợp danh10. Với các quy định như vậy,
luật Doanh nghiệp đã đặt chủ doanh nghiệp tư
nhân vào tình trạng khá bất lợi. Trách nhiệm vô
hạn là bảo đảm an toàn pháp lý rất lớn đối với
khách hàng, chủ nợ của doanh nghiệp nhưng lại
là bất lợi không nhỏ đối với các cá nhân phải
chịu loại nghĩa vụ này. Như vậy, doanh nghiệp
tư nhân cũng giống như loại hình công ty hợp
danh khi không có sự tách biệt tài sản góp vào
công ty với tài sản dân sự khác của người chủ
sở hữu, thành viên của nó. Nói cách khác, chủ
doanh nghiệp tư nhân phải tự mình chịu trách
nhiệm vô hạn về các khoản nợ của doanh
nghiệp. Điều này đã tạo ra áp lực, trở ngại và
làm kìm hãm các sáng kiến kinh doanh hoặc
khả năng chấp nhận đầu tư vào các lĩnh vực có
hệ số rủi ro. Bởi không có sự an toàn về mặt tài
chính cho chủ doanh nghiệp tư nhân.
4. Sự phù hợp giữa doanh nghiệp tư
nhân với môi trường thương mại tại Việt
Nam hiện nay
Qua nghiên cứu, bắt đầu từ năm 2005, các
nhà đầu tư lựa chọn thành lập loại hình doanh
nghiệp tư nhân đã có chiều hướng giảm dần để
nhường thị phần cho công ty trách nhiệm hữu
hạn trong cơ cấu chung các loại hình doanh
nghiệp. Xu hướng này càng thể hiện rõ nét ở
những năm gần đây. Căn cứ cơ cấu chung của
các loại hình doanh nghiệp, công ty trách nhiệm
hữu hạn có chiều hướng gia tăng và là sự lựa
chọn của nhiều người. Đến năm 2007, luật
Chứng khoán ra đời càng tạo điều kiện cho nhu
cầu huy động vốn của các nhà đầu tư. Công ty
cổ phần đang ngày càng phát triển để đáp ứng
nhu cầu đó. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân giờ
đây không còn là sự lựa chọn của các nhà đầu
tư. Nếu xét dưới góc độ cá nhân đầu tư thành
lập doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân và
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là
cá nhân sẽ được xem xét lựa chọn11. Đây thực
sự là những tín hiệu không mấy khả quan đối
với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp tư
nhân tại Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu sự
không phù hợp của doanh nghiệp tư nhân với
môi trường thương mại tại Việt Nam cho thấy
đó là kết quả từ các nguyên nhân cơ bản sau:
7 Phạm Thị Giang Thu (chủ biên 2012), Giáo trình Luật Chứng khoán, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, tr. 272.
8 Khoản 2 và 4, Điều 183, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
9 Điều 199, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
10 Khoản 3, Điều 183, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
11 Trương Vĩnh Xuân, Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài Nhà nước, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số (191), 3/2011.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
14
Trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
hiện nay, mô hình công ty một chủ sở hữu
dường như không thật sự hiệu quả nên được ít
nhà đầu tư quan tâm chọn lựa vì khá nhiều lý
do. Xu hướng chung, trong khi các nhà kinh
doanh tại Việt Nam thường có nhu cầu hợp tác,
liên kết, mở rộng quan hệ, đồng thời mong
muốn san sẻ bớt rủi ro kinh doanh thì chủ doanh
nghiệp tư nhân luôn bị đặt vào tình trạng rất bất
lợi so với nhà quản lý một doanh nghiệp. Bởi
chủ doanh nghiệp tư nhân luôn phải tự gánh
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của
doanh nghiệp tư nhân. Vì thế, chủ doanh nghiệp
tư nhân thường không dám đầu tư vào các khu
vực rủi ro cao hoặc không có nhiều sáng kiến,
quyết định kinh doanh táo bạo để phát triển
doanh nghiệp tư nhân. Thực tiễn kinh doanh tại
Việt Nam trong một số năm gần đây cho thấy,
nếu so sánh với loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên khi chủ sở hữu công ty
này luôn chỉ phải chịu rủi ro trong phạm vi số
vốn góp vào công ty thì doanh nghiệp tư nhân
lại càng tỏ ra kém hiệu quả và thiếu an toàn cho
chính người chủ của nó. Vì thế, số lượng công
ty được thành lập dưới hình thức của công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên luôn chiếm
áp đảo so với số lượng doanh nghiệp tư nhân.
Một yếu tố khác làm cho ít nhà đầu tư lựa
chọn mô hình doanh nghiệp tư nhân còn là
“người chủ có thể phải chịu hai lần thuế đối với
từng đồng lãi kiếm được. Lần thứ nhất doanh
nghiệp tư nhân phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp như công ty; lần thứ hai phần lợi tức
thu về cho người chủ có thể được xem là thu
nhập cá nhân và thuộc đối tượng phải đóng
thuế thu nhập cá nhân”12.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường luôn đòi
hòi sự cạnh tranh khốc liệt đến từ tất cả các loại
hình doanh nghiệp. Chính vì vậy, nguồn vốn và
khả năng huy động vốn rộng rãi là những lợi thế
cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Bất cứ nhà
kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp đều
mong muốn có thể dễ dàng mở rộng quy mô với
khả năng thu hút vốn rộng rãi cho doanh nghiệp
khi cần thiết. Nên cũng chính vì thế, với việc
thành lập một loại hình công ty có sự tham gia
của nhiều thành viên thì bên cạnh sự san sẻ rủi
ro kinh doanh còn là khả năng huy động nguồn
vốn của nhiều thành viên khác nhau. Đây là lợi
thế và là khả năng hấp dẫn của các doanh nghiệp
nhiều thành viên. Tuy nhiên, như đã trình bày,
nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu
chỉ được trông chờ từ sự đóng góp của chủ sở
hữu doanh nghiệp này. Vì vậy, có thể nói, đây lại
là sự khó khăn, hạn chế của doanh nghiệp tư
nhân. Đồng thời đây còn là sự kém hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường là nền kinh
tế tự do kinh doanh, tự do hoạt động. Chính vì
vậy, trong nền kinh tế thị trường thì sự bình đẳng
của các loại hình doanh nghiệp là một yếu tố hết
sức quan trọng và cần thiết để thúc đẩy các
doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Tuy nhiên, hạn
chế rất lớn của doanh nghiệp tư nhân là không có
tư cách pháp nhân nên đương nhiên khả năng
cạnh tranh sẽ yếu hơn so với các loại công ty có
tư cách pháp nhân. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân
vẫn thường bị xem là không bình đẳng với các
loại hình doanh nghiệp khác khi tham gia đầu tư,
kinh doanh. Ít nhiều điều này đã ảnh hưởng lên
tâm lý của các nhà đầu tư khi dự định lựa chọn
kinh doanh dưới hình thức của doanh nghiệp tư
nhân. Từ đó, có thể đi đến khẳng định, doanh
nghiệp tư nhân là hình thức kinh doanh chỉ có
quy mô nhỏ, lẻ và khép kín nên không mang lại
nhiều đóng góp cho nền kinh tế quốc gia.
5. Kiến nghị
Để loại hình doanh nghiệp tư nhân có thể
phát triển mạnh mẽ và phù hợp với môi
trường thương mại tại Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập quốc tế thì cần thiết xem xét
các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần quy định doanh nghiệp tư
nhân có tư cách pháp nhân. Bởi như đã trình
bày, kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị
trường hội nhập quốc tế luôn đòi hỏi các
doanh nghiệp tham gia phải đáp ứng những
điều kiện về mặt pháp lý nhất định. Việc
không phải là pháp nhân làm cho doanh
nghiệp tư nhân gặp khá nhiều khó khăn khi
tham gia các loại hình kinh doanh đòi hỏi tư
cách pháp nhân13. Vì thế, rõ ràng, quy định tư
12 Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp: Tình huống - phân tích - bình luận, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr,50.
13 Thông tư của Bộ xây dựng số 01/BXD-CSXD ngày 15/4/1997 về “tổ chức tư vấn, thiết kế thực hiện công trình
của dự án đầu tư phải có tư cách pháp nhân”; Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và tại Quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng về “Nhà thầu tham dự đấu thầu xây lắp phải có tư cách pháp nhân”.
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
15
cách pháp nhân cho doanh nghiệp tư nhân sẽ
tạo thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này
để đầu tư kinh doanh tại nhiều lĩnh vực luôn
đòi hỏi doanh nghiệp tham gia phải có tư cách
pháp nhân. Điều này, còn góp phần để doanh
nghiệp tư nhân có thêm khả năng cạnh tranh
và tạo sự bình đẳng trong kinh doanh với các
loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân có thể
kinh doanh trong mọi lĩnh vực kinh doanh
mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên, sẽ là hiệu
quả và phù hợp hơn khi loại hình doanh
nghiệp này chỉ nên kinh doanh trong các lĩnh
vực đòi hỏi sự chịu trách nhiệm cao về mặt
pháp lý và tài sản. Trên thực tế, có khá nhiều
ngành nghề kinh doanh có thể gây rủi ro rất
lớn đối với đời sống xã hội (tư vấn pháp lý,
khám, chữa bệnh, thiết kế kiến trúc). Vì
thế, nếu để những người chủ kinh doanh
dưới hình thức các công ty được chịu trách
nhiệm hữu hạn về tài sản thì rất dễ xảy ra rủi
ro, tổn thất cho khách hàng vì sự chủ quan,
thiếu tinh thần trách nhiệm. Bởi lẽ, những
người kinh doanh luôn được xác định trước
sẽ chỉ phải chịu những hậu quả trong phạm
vi số vốn góp. Trước đây, pháp luật đã từng
có quy định, khi kinh doanh các dịch vụ
pháp lý thì bắt buộc phải kinh doanh dưới
hình thức là các văn phòng luật hoặc phải
thành lập theo mô hình công ty luật hợp danh
và mô hình này được tổ chức gần như theo
mô hình công ty hợp danh trong luật Doanh
nghiệp14. Hoặc quy định hiện nay, đối với
Văn phòng Thừa phát lại nếu do một thừa
phát lại thành lập thì được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân15.
Từ đó, có thể thấy rằng, pháp luật cũng đã
cố gắng hạn chế phần nào rủi ro, tổn thất cho
xã hội. Chính vì vậy, quy định những ngành
nghề kinh doanh với quy mô vừa hoặc nhỏ
và luôn đòi hỏi trách nhiệm cao về mặt pháp
lý thì phải bắt buộc đăng ký hoạt động dưới
mô hình của loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Việc quy định này có thể góp phần định
hướng các ngành nghề kinh doanh đi theo
đúng trật tự, hoạt động an toàn, hiệu quả và
phù hợp với thế mạnh của loại hình doanh
nghiệp tư nhân./.
14 Điều 17 và Điều 19, Pháp lệnh luật sư năm 2001.
15 Khoản 4, Điều 1, Quyết định 224/QĐ-TTg ngày 19/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt đề án “Thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh”.
ii) Người lao động chủ động xin chấm dứt hợp
đồng lao động và được người sử dụng lao động
chấp nhận (hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp
đồng lao động xuất phát từ nguyện vọng của
người lao động). Những trường hợp sau đây
người lao động không phải hoàn trả chi phí đào
tạo: i) Hợp đồng lao động chấm dứt do ý chí
của người sử dụng lao động (người sử dụng lao
động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
theo Điều 38 Bộ luật lao động, người sử dụng
lao động xử lý kỷ luật sa thải người lao
động theo Điều 126 Bộ luật lao động, người sử
dụng lao động cho người lao động thôi việc
theo Điều 44 và Điều 45 Bộ luật lao động...);
ii) Người sử dụng lao động đề nghị chấm dứt
hợp đồng lao động và người lao động chấp
nhận (hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng
lao động xuất phát từ nguyện vọng của người
sử dụng lao động); iii) Hợp đồng lao động
chấm dứt do ý chí của người thứ ba (người lao
động bị kết án tù giam, bị kết án tử hình hoặc
bị cấm làm công việc theo hợp đồng lao động
theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của tòa án; người lao động bị tòa án tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sư, mất tích hoặc
đã chết); iv) Hợp đồng lao động hết hạn; v)
Hợp đồng lao động chấm dứt do sự biến pháp
lý (người lao động chết). Áp dụng pháp luật
theo hướng này mới đảm bảo tính hợp lý của
quy định người lao động phải hoàn trả chi phí
đào tạo khi người lao động không làm việc hết
thời hạn đã cam kết với người sử dụng lao
động trước khi được đi đào tạo bằng nguồn
kinh phí của người sử dụng lao động./.
XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN...
(Tiếp theo trang 10)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doanh_nghiep_tu_nhan_va_su_phu_hop_voi_moi_truong_thuong_mai.pdf