Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng đạt được ở HS
Kiểm tra và đánh giá là khâu then chốt của quá trình dạy học. Đánh giá vừa nhằm mục đích xác định mức độ năng lực và kiến thức được hình thành ở người học, vừa giúp người thầy điều chỉnh hoạt động dạy của mình. Sự đánh giá của thầy về kết quả học của trò dần phải chuyển sang thành kĩ năng tự đánh giá ở trò. Sự tự đánh giá giúp cho sự phát triển khả năng tự học của HS. Đánh giá phải theo những mục tiêu bài dạy đã đề ra và theo đúng cấp độ năng lực.
3.6 Những điều kiện và giải pháp để thực hiện đổi mới PPDH thành công
- Chương trình và sách giáo khoa (SGK) Chương trình và SGK cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với mục tiêu giáo dục và dạy học: Giảm bớt khối lượng kiến thức mang tính nhồi nhét, tinh lọc những thông tin cơ bản để thầy trò có đủ thời gian hoạt động biến chúng thành năng lực thực tiễn, giảm bớt những câu hỏi kiểm tra trí nhớ thuần tuý, tăng câu hỏi phân tích, khám phá, tự nghiên cứu.
- Phương tiện và điều kiện dạy học
Cần đổi mới trang thiết bị dạy học để có thể phát huy tối đa chức năng của các PPDH tích cực. Sử dụng phương tiện dạy học hợp lí sẽ giảm đi những thời gian “chết” của lớp học, thí dụ HS không phải chờ GV viết bảng quá lâu hay vẽ một hình ảnh nào đó. Lớp học đủ rộng để thầy trò dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập như hoạt động nhóm, trò chơi.
12 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
A. Lí thuyết chuyên đề
I. LỜI NÓI ĐẦU
Chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh” nhằm cung cấp cho giáo viên những kiến thức và kĩ năng về đổi mới phương pháp dạy học.
Sau khi được bồi dưỡng theo chuyên đề, giáo viên sẽ :
a) Hình thành và phát triển những tri thức về phương pháp dạy học (PPDH) phát huy tính tích cực của học sinh (HS) tiểu học trong từng môn học.
b) Vận dụng được những kĩ năng dạy học tích cực vào dạy học các môn học ở trường tiểu học.
c) Tích cực và biết tổ chức tốt các hoạt động dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường tiểu học trong từng môn học.
II - Nội dung
1) Những vấn đề chung của PPDH phát huy tính tích cực của HS
2) Vận dụng phương pháp phát huy tính tích cực của HS vào việc dạy học các môn học ở Tiểu học
Phần một
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
I - MỤC TIÊU
1. Kiến thức
- Quán triệt những định hướng đổi mới của PPDH hiện nay.
- Phân tích được cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đổi mới PPDH.
- Liệt kê được những đặc trưng cơ bản của PPDH phát huy tính tích cực, so sánh với PPDH không phát huy tính tích cực.
- Đánh giá được PPDH như thế nào được coi là PPDH phát huy tính tích cực.
- Biết cách vận dụng PPDH phát huy tính tích cực vào dạy các môn học ở Tiểu học.
2. Kĩ năng
- Vận dụng được cơ sở lí luận vào thiết kế bài học theo PPDH phát huy tính tích cực.
- Lựa chọn được PPDH phát huy tính tích cực, tài liệu học tập cũng như phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài dạy.
- Triển khai thực hành một số PPDH phát huy tính tích cực trong quá trình dạy học của bản thân.
- Có kĩ năng lập kế hoạch bài học và đánh giá giờ dạy của đồng nghiệp.
3. Thái độ
- Tự tin trong việc thực hiện PPDH phát huy tính tích cực.
- Quyết tâm đổi mới cách thực hiện PPDH.
II - NỘI DUNG
Nội dung 1: Cơ sở thực tiễn và lí luận của đổi mới PPDH
1.1. Cơ sở lí luận của đổi mới PPDH
* Đổi mới PPDH được hiểu như thế nào?
Đổi mới PPDH thực chất không phải là sự thay thế các PPDH cũ bằng một loạt các PPDH mới. Về mặt bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Như vậy, mục đích cuối cùng của đổi mới PPDH là làm thế nào để HS phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
Những PPDH thường được sử dụng trước đây mà người ta vẫn gọi là PPDH truyền thống, thí dụ phương pháp thuyết trình, phương pháp hỏi - đáp, vẫn đang được thực hiện trong tất cả các giờ dạy của GV hiện nay. Nhưng nếu các phương pháp này vẫn được tiến hành theo cái cách mà ở những thập niên trước sử dụng thì chắc chắn nó trở nên kém hiệu quả. GV nên tập trung vào việc tổ chức quá trình lĩnh hội kiến thức. Phương pháp thuyết trình sẽ trở nên tích cực khi GV thuyết trình trong một lượng thời gian phù hợp và biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn, hợp lí và khoa học với các phương pháp khác để làm sao HS thích thú và hào hứng hoạt động.
Những phương pháp có thể kết hợp với thuyết trình như: phương pháp minh hoạ bằng sơ đồ biểu bảng hay vật thật, phương pháp hỏi - đáp với các câu hỏi kích thích được tư duy người học, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp tình huống,... Tuy nhiên nếu những PPDH này không được tiến hành theo đúng ý nghĩa và chức năng của nó thì chúng cũng không được gọi là PPDH tích cực.
Như vậy, đổi mới PPDH không phải là sự thay thế các phương pháp quen thuộc hiện có bằng những phương pháp mới lạ. Thực chất chúng ta phải hiểu lại cho đúng cách làm, cách
tiến hành các PPDH, và cách linh hoạt sáng tạo trong sử dụng nó ở những hoàn cảnh và tình huống khác nhau để những PPDH có tác động tích cực đến người học. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của phương tiện dạy học, một số PPDH hiện đại cần được bổ sung vào PPDH của GV.
1.2 Cơ sở thực tiễn của đổi mới PPDH
a) Sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Sự cần thiết đổi mới trong giáo dục đã được ghi trong Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông và thể hiện trong Chỉ thị 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội.
Sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.
Thế giới đã chuyển sang thời kì kinh tế tri thức, cho nên đầu tư vào chất xám sẽ là cách đầu tư hiệu quả nhất cho sự hưng thịnh của mỗi quốc gia. Cũng vì lí do này mà nhu cầu học tập của người dân ngày càng nhiều, trình độ dân trí ngày một tăng, xã hội học tập đang hình thành và phát triển...
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mở ra những khả năng và điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng phương tiện công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Việc sử dụng có tính sư phạm những thành quả của khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi hiệu quả của quá trình dạy học, hiệu quả của việc sử dụng các PPDH.
b) Chương trình tiểu học
• Về nội dung
Nội dung chương trình Tiểu học được soạn thảo hiện đại, tinh giản, thiết thực và cập nhật sự phát triển của khoa học – công nghệ, kinh tế – xã hội, tăng cường thực hành vận dụng, gắn bó với thực tiễn Việt Nam tiến kịp trình độ phát triển chung của chương trình giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và quốc tế. Hơn nữa nội dung chương trình và sách giáo khoa có tính thống nhất cao, phù hợp với trình độ phát triển chung của số đông HS, tạo cơ hội và điều kiện học tập cho mọi HS, phát triển năng lực của từng đối tượng HS, góp phần phát hiện và bồi dưỡng những HS có năng lực đặc biệt. Cụ thể là :
- Tập trung vào các kĩ năng cơ bản : nghe, đọc, nói, viết và tính toán. Xác định Tiếng Việt và Toán là các môn học chủ chốt, chuẩn bị công cụ (kĩ năng và phương pháp tư duy) để học tập các môn học khác và để phát triển năng lực cá nhân.
- Coi trọng đúng mức các kĩ năng sống trong cộng đồng, thích ứng với những đổi mới diễn ra hằng ngày...
- Hình thành và phát triển các phẩm chất của người lao động Việt Nam như cần cù, cẩn thận, có trách nhiệm, có lòng yêu thương nhân ái...
• Về phương pháp dạy học
Như vậy trước thực tiễn đổi mới của mục tiêu, nội dung chương trình Tiểu học, và cách đánh giá kết quả học tập của HS, PPDH cũng buộc phải thay đổi theo. Đổi mới PPDH là nội dung hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, bởi vì :
- Thầy dạy thế nào để đạt được mục tiêu dạy học cụ thể đã đề ra và thầy có thể đo được kết quả ấy ;
- Thầy dạy thế nào để hình thành được năng lực cho HS ;
- Thầy dạy thế nào để HS hứng thú với mọi hiện tượng xung quanh mình ;
- Thầy dạy thế nào để HS tìm được sự hữu dụng từ các kiến thức đã học ;
- Thầy dạy thế nào để HS có khả năng hợp tác, chia sẻ trong công việc, để biết cùng chung
sống và thích ứng dần với cuộc sống luôn biến động ;
- Thầy dạy thế nào để HS phát huy hết tiềm năng và sự sáng tạo của bản thân;
- Thầy dạy thế nào để HS có khả năng tự học, tự đánh giá ;
- Và thầy dạy thế nào để HS biết yêu cuộc sống, quê hương đất nước...
Trong giáo dục tiểu học – bậc học cơ sở của giáo dục phổ thông, việc học tập của HS phụ thuộc rất nhiều vào việc dạy của thầy. Nếu chúng ta trả lời được các câu hỏi trên cũng là chúng ta thực hiện được mục tiêu giáo dục tiểu học đặt ra, tức là “giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để HS tiếp tục học trung học cơ sở”.
Tóm lại, với sự thay đổi của chương trình tiểu học buộc chúng ta phải đổi mới PPDH để thực hiện được mục tiêu của cấp học đề ra.
1.3. Một số đặc điểm tâm lí của HS tiểu học
1) Những thay đổi của trẻ bắt đầu đi học
Đặc điểm của chế độ học tập : phải thức dậy đúng giờ, không được bỏ học, phải ngồi yên lặng, phải thực hiện đúng hạn bài tập ở nhà... Tính chất quan hệ qua lại giữa GV với trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với gia đình cũng thay đổi, điều này gây cho trẻ những khó khăn trong việc thích ứng với môi trường mới trong giai đoạn đầu của giáo dục phổ thông. Đại đa số trẻ em được chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lí để đến trường phổ thông. Chúng muốn đến trường để xem nhà trường có gì khác so với ở nhà. Do trẻ chỉ hứng thú với đặc điểm bên ngoài của quá trình học tập nên hứng thú đó dễ mất đi. Cho nên cần làm cho trẻ hứng thú với chính quá trình học tập, với sự hấp dẫn của nội dung tri thức.
Sự thay đổi hoạt động chủ đạo diễn ra khi trẻ bắt đầu đi học. Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi này là hoạt động học tập, nó làm thay đổi một cách cơ bản những động cơ của hành vi trẻ, nó mở ra những nguồn phát triển mới của sức mạnh nhận thức và đạo đức của trẻ. Hành động học phải được xem như là đối tượng để lĩnh hội, sau đó trở thành phương tiện để tiếp thu tri thức, khái niệm khoa học. Cách học vừa là tiền đề, công cụ, phương tiện, vừa là mục đích của dạy học. Hoạt động học bắt đầu nảy sinh ở lớp 1 và 2, hình thành ở lớp 3 và 4 và dần định hình vào lớp 5.
2) Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học
Tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào chi tiết (lớp 1 và 2), tuy nhiên trẻ cũng bắt đầu có khả năng phân tích tách dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Ví dụ : trẻ khó phân biệt cây mía và cây sậy. Tri giác thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn : trẻ phải cầm nắm, sờ mó sự vật thì tri giác sẽ tốt hơn. Tri giác và đánh giá không gian, thời gian còn hạn chế : tri giác chưa chính xác độ lớn của những vật quá lớn hoặc quá nhỏ, thí dụ trái đất to bằng mấy tỉnh. Tri giác thời gian còn hạn chế hơn.
Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ hoạt động học tập, tư duy dần mang tính khái quát. Khi khái quát, HS tiểu học thường dựa vào chức năng và công dụng của sự vật hiện tượng, trên cơ sở này chúng tiến hành phân loại, phân hạng. Hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ đẳng. Việc học Tiếng Việt và Toán học sẽ giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả.
- Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn giản, hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn thiện. Ngoài ra, “nói dối” là hiện tượng gắn liền với sự phát triển tưởng tượng ở trẻ.
- Chú ý không chủ định vẫn phát triển, chú ý có chủ định còn yếu và thiếu bền vững. Sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của hoạt động học tập.
- Trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ logic. Nhiều HS tiểu học còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa mà có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc. Ghi nhớ gắn với mục đích đã giúp trẻ nhớ nhanh hơn, lâu hơn và chính xác hơn.
3) Đặc điểm nhân cách của HS tiểu học
a) Tính cách HS tiểu học
Nét tính cách của HS tiểu học mới hình thành nên chưa ổn định. Hành vi của trẻ mang tính xung động cao (bột phát), và ý chí còn thấp. Tính cách điển hình của trẻ là hồn nhiên và cả tin, trẻ thích bắt chước hành vi của người xung quanh hay trên phim ảnh. HS sớm có thái độ và thói quen tốt đối với lao động.
b) Nhu cầu nhận thức
Nhu cầu nhận thức của HS tiểu học đã phát triển khá rõ nét: từ nhu cầu tìm hiểu những sự vật hiện tượng riêng lẻ (lớp 1 và lớp 2) đến nhu cầu phát hiện những nguyên nhân, quy luật và các mối liên hệ, quan hệ (lớp 3, lớp 4 và lớp 5). Nhu cầu đọc sách phát triển cùng với việc phát triển kĩ xảo đọc. Cần phải hình thành nhu cầu nhận thức cho trẻ ngay từ sớm.
c) Đặc điểm đời sống tình cảm
Đối tượng gây xúc cảm cho HS tiểu học thường là sự vật hiện tượng cụ thể nên xúc cảm, tình cảm của các em gắn liền với đặc điểm trực quan, hình ảnh cụ thể. HS tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình. Tình cảm của HS tiểu học còn mỏng manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Sự chuyển hoá cảm xúc nhanh.
Việc hiểu đặc điểm tâm lí HS giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Nếu chúng ta tác động vào đối tượng mà không hiểu tâm lí của chúng thì cũng như ta đập búa trên một thanh sắt nguội. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học GV cần phải dựa vào những đặc điểm tâm lí đối tượng để lựa chọn và xây dựng những phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học phù hợp, có như thế đổi mới PPDH mới mang lại hiệu quả như mong muốn.
Nội dung 2 : Những định hướng chính trong đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học
2.1. Đổi mới PPDH theo hướng phát huy cao độ tính tích cực chủ động sáng tạo của HS trong quá trình lĩnh hội tri thức
Tính tích cực chủ động và sáng tạo là gì? Tính tích cực là một đặc điểm vốn có của con người. Con người không chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của các quan hệ xã hội, thể hiện ở chỗ tích cực tiếp thu có chọn lọc tất cả những tác động bên ngoài để sáng tạo và xây dựng nhân cách riêng của mình. Nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu. Con người sinh ra cùng với một loạt nhu cầu bẩm sinh khác nhau, thí dụ nhu cầu ăn, uống... và sau đó xuất hiện nhu cầu xã hội... Những nhu cầu này không bao giờ cạn và luôn trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động. Khi nhu cầu nhận thức xuất hiện thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động học tập.
Lí luận dạy học cũng chỉ ra rằng, muốn xây dựng động lực của quá trình dạy học có hai điều quan trọng cần phải lưu ý:
- Phải biến yêu cầu của chương trình dạy học thành nhu cầu nhận thức của người học bằng cách tạo dựng các tình huống nhận thức, đưa HS tới đỉnh điểm của những mâu thuẫn chứa đựng những khó khăn vừa sức đối với HS.
- Phải giáo dục tính tích cực, tự giác học tập và tạo điều kiện cho những cố gắng vươn tới của HS bằng khả năng của mình.
Trong quá trình lĩnh hội kiến thức, kĩ năng kĩ xảo ở HS, tính tích cực được thể hiện từ cấp độ thấp nhất đến cấp độ cao nhất như sau :
Bắt chước: tính tích cực thể hiện ở sự cố gắng làm theo mẫu hành động, thao tác, cử chỉ hành vi hay nhắc lại những gì trải qua...
Tìm hiểu và khám phá : tính tích cực thể hiện ở sự chủ động hoặc ý muốn hiểu thấu đáo vấn đề nào đó để sau đó có thể tự giải quyết vấn đề...
Sáng tạo : tính tích cực thể hiện ở khả năng linh hoạt và hiệu quả trong giải quyết vấn đề...
Trong quá trình dạy học, GV là chủ thể tổ chức, điều khiển và HS là chủ thể hoạt động học tích cực chủ động và sáng tạo. GV phải cải tiến không ngừng PPDH và giúp HS cải tiến phương pháp học.
Những tri thức đã học sẽ tạo ra một trình độ ở người học, GV phải dựa vào trình độ này để hướng dẫn HS nâng cao lên một trình độ mới.
2.2. Đổi mới PPDH theo hướng kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo các PPDH khác nhau (truyền thống và hiện đại) sao cho vừa đạt được mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tiễn.
Không có một PPDH nào là tồi, mỗi phương pháp đều có những giá trị riêng của nó. Tính hiệu quả hay không hiệu quả của phương pháp phụ thuộc vào người sử dụng biết phát triển và thích nghi nó đến mức độ nào. Nếu các PPDH được kết hợp và bổ sung cho nhau thì cách dạy học ấy sẽ phù hợp được với đối tượng học đa dạng, chống sự nhàm chán và tạo ra sự
năng động trong cách nghĩ cách làm của HS.
2.3. Đổi mới PPDH theo hướng phát triển khả năng tự học của HS
Cần hình thành cho HS phương pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm tri thức hay ứng dụng tri thức vào cuộc sống.
Nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu. Khi đứa trẻ có nhu cầu thì nó sẽ tự giác tìm kiếm tri thức. Khi phát hiện các tình huống mâu thuẫn của lí thuyết hay thực tế mà bằng kiến thức cũ không thể giải quyết được, HS buộc phải tìm con đường khám phá mới.
Đối với HS, tính tích cực bên trong thường nảy sinh do những tác động từ bên ngoài. GV phải tạo ra hàng loạt các mâu thuẫn, khéo léo lôi cuốn, hấp dẫn HS để họ tự ý thức tiếp nhận và tìm tòi cách giải đáp.
Khả năng tự học là năng lực rất quan trọng cho sự thành đạt của mỗi cá nhân. Muốn vậy, người GV cần hướng dẫn HS phương pháp tự học sao cho hiệu quả, thí dụ như hướng dẫn HS tự lực suy nghĩ giải quyết vấn đề, cách ghi nhớ, tâm thế thi đua, vượt thử thách... Như vậy, khả năng tự học được rèn luyện ngay cả khi học trên lớp và khi học ở nhà.
2.4. Đổi mới PPDH theo hướng kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân
Tập thể HS được sử dụng như một môi trường và phương tiện để tổ chức quá trình học tập
tích cực nhất cho từng cá nhân. Lợi thế của dạy tập thể cho mỗi cá nhân là :
- Tạo ra sự đua tranh.
- Tạo ra nhiều cách nghĩ, nhiều phương án hành động.
- HS có thể hỗ trợ nhau, đóng góp những ý kiến riêng vào ý kiến chung.
- Cách thức này giúp HS chuyển từ thói quen chỉ nghe, ghi nhớ sang hình thức thực sự hoạt động, cùng nhau tìm kiếm, hình thành kiến thức bằng trí tuệ chung.
- HS sẽ có kĩ năng hoạt động tập thể và khẳng định được mình thông qua tập thể.
Tuy nhiên, GV phải biết khai thác lợi thế của tập thể để phát triển từng cá nhân. Phải quan tâm đến hứng thú, xu hướng, khả năng của từng người trong môi trường tập thể cũng như trong tự học. Suy cho cùng kết quả học tập là thành quả cụ thể, trực tiếp của từng cá nhân nên cần phải chú ý đến dạy cá nhân.
2.5. Đổi mới PPDH theo hướng tăng cường kĩ năng thực hành
Mục đích cuối của quá trình dạy học là tạo ra năng lực thực tiễn cho người học. Đổi mới theo hướng này có nghĩa là :
- HS được thao tác hành động thực tế.
- HS học qua tình huống thực tiễn cuộc sống.
- HS giải thích được thực tiễn bằng lí thuyết đã học.
- HS được thực hành trao đổi, phối hợp, hợp tác trong nhóm.
- HS được rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong nói và viết.
- HS được rèn kĩ năng cùng chung sống.
- HS được đi vào cuộc sống thực để có kinh nghiệm thực tế...
2.6. Đổi mới PPDH theo hướng sử dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại vào dạy học
Các phương tiện chủ yếu là phương tiện nhìn, nghe, nghe nhìn, các chương trình phần mềm hỗ trợ,...
Sử dụng phương tiện kĩ thuật để chuyển tải nội dung kiến thức thực sự sẽ mang lại hiệu quả cao nếu người dạy không lạm dụng nó, phải sử dụng nó theo đúng quy tắc sư phạm trong sử dụng phương tiện dạy học.
Sử dụng phương tiện đa dạng trong dạy học giúp cho PPDH trở nên sinh động hơn và tạo ra được hứng thú và tính tích cực ở người học.
2.7. Đổi mới PPDH theo hướng đổi mới cả phương pháp kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS Đánh giá là khâu cuối cùng của quá trình dạy học và nó có thể góp phần điều chỉnh nội dung và PPDH.
Ngược lại, đổi mới PPDH sẽ phải đổi mới cách thức kiểm tra và đánh giá. Không đổi mới phương pháp kiểm tra và đánh giá thì đổi mới PPDH chỉ là hình thức. Trong đánh giá, GV lưu ý một điều rằng cần phải chuyển sự đánh giá của GV thành quá trình tự đánh giá của HS về kết quả học tập và rèn luyện của bản thân. Cả thầy và trò cần đánh giá kết quả đạt được trong hoạt động của mình theo hệ mục tiêu đã đề ra.
2.8. Đổi mới PPDH theo hướng đổi mới cách thiết kế bài dạy, lập kế hoạch bài học và xây dựng mục tiêu bài học
Các thành tố của quá trình dạy học: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học, đánh giá cùng với môi trường văn hoá - chính trị - xã hội, kinh tế - khoa học - kĩ thuật, gia đình, nhà trường và cộng đồng.
Muốn nâng cao chất lượng quá trình dạy học phải nâng cao chất lượng của từng thành tố, đồng thời nâng cao chất lượng của toàn hệ thống.
Khi thiết kế bài giảng và lập kế hoạch bài học, GV cần quán triệt tất cả các thành tố liên quan. Nếu coi bài dạy là kịch bản thì kế hoạch bài học là sự dàn cảnh. Một giờ học được coi như một vở kịch hay bộ phim và nó không thể thiếu kịch bản và dàn cảnh chi tiết. Trong bài dạy, mục đích và mục tiêu của bài học phải đề ra rõ ràng, có thể lượng hoá, từ đó có thể đo được và đánh giá được kết quả một cách khách quan.
Nội dung 3: Đặc điểm của PPDH và những đặc trưng của PPDH phát huy tính tích cực của học sinh ở tiểu học
3.1. Một số đặc điểm của PPDH
1) Khái niệm PPDH
Phương pháp chính là cách thức làm việc của chủ thể, cách thức này tuỳ thuộc vào nội dung vì “phương pháp là sự vận động bên trong của nội dung” (Hêghen). PPDH là hệ thống những cách thức hoạt động (bao gồm các hành động và thao tác) của GV và HS nhằm thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ dạy học. PPDH bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học.
- Phương pháp dạy: Phương pháp tổ chức nhận thức, phương pháp điều khiển các hoạt động trí tuệ và thực hành, phương pháp giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn cho HS.
- Phương pháp học : Phương pháp nhận thức và rèn luyện để hình thành hệ thống tri thức và kĩ năng thực hành, hình thành nhân cách người học.
Hai phương pháp này không tồn tại độc lập, tách rời nhau mà nó liên quan và phụ thuộc nhau, chúng vừa là mục đích vừa là nguyên nhân tồn tại của nhau.
2) Một số đặc điểm của PPDH
a) Tính khách quan và chủ quan của PPDH
Tính khách quan: Mọi PPDH đều phải xuất phát từ đối tượng, từ đặc điểm, quy luật vận động, cấu trúc của đối tượng. Đối tượng của PPDH vừa là nội dung dạy học vừa là người học.
Tính chủ quan: PPDH do các chủ thể GV và HS tiến hành. Hiệu quả của PPDH phụ thuộc vào năng lực người sử dụng. Vì vậy, sự nhuần nhuyễn, linh hoạt và sáng tạo tích cực trong việc sử dụng PPDH là yếu tố quyết định hiệu quả dạy học.
b) Tính mục đích của PPDH
PPDH chịu sự quy định của mục đích và nội dung dạy học. Thực chất PPDH là phương thức để đạt được mục đích. Do vậy mỗi mục đích dạy học đòi hỏi PPDH tương ứng và mỗi PPDH bao giờ cũng hướng tới đạt mục đích cụ thể nào đó. Không có một PPDH nào lại đạt được tất cả các mục đích.
Mỗi PPDH giúp HS đạt được trình độ năng lực nhất định. Việc xác định mục đích hình thành năng lực ở HS để chọn PPDH phù hợp là điều quan trọng (thí dụ B.Bloom chia mức độ nhận thức: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá).
c) PPDH gắn liền với nội dung dạy học
d) PPDH gắn liền với đặc điểm đối tượng và hình thức tổ chức lớp học
3. Dấu hiệu đặc trưng của PPDH theo hướng tích cực hoá
3.1 Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú
Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú để giúp HS lĩnh hội kiến thức và hình thành kĩ năng. Điều này có nghĩa là phải tổ chức cho HS hoạt động một cách tích cực, HS là người tham gia các hoạt động ấy, chúng tự tìm tòi, khám phá... dưới sự hướng dẫn của GV. Ví dụ :
HS phải trao đổi, thảo luận để giải quyết nhiệm vụ, HS được đóng vai, được tham gia vào
trò chơi học tập, đóng kịch diễn xuất... GV chú ý cho HS nhiều cơ hội thực hành, thực tập, được thể hiện, được phát biểu trên lớp...
3.2 Tổ chức các hoạt động phát triển khả năng tự học của HS
Tổ chức hướng dẫn HS cách tự học, cách đọc sách, cách lấy thông tin, cách phân tích và hiểu thông tin, cách quan sát hiện tượng xung quanh... Tự học là kĩ năng quan trọng nhất cần hình thành ở người học. Nếu HS không có kĩ năng này thì việc học gặp rất nhiều khó khăn, và HS rất ít có khả năng sáng tạo sau này. Phần lớn những kiến thức và kinh nghiệm có được trong cuộc đời nhờ vào việc tự học.
3.3 Tổ chức hoạt động khám phá bằng cách đưa ra một hệ thống các câu hỏi hướng dẫn HS tìm ra được kết quả
Những câu hỏi của GV có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với HS. HS có sự hứng thú, tò mò hay không? HS có tìm được câu trả lời hay không ? HS có cảm giác chiến thắng khi tìm thấy kết quả hay không? Tất cả những điều này phụ thuộc vào chính những câu hỏi của GV.
Có những câu hỏi tạo ra sự tích cực. Và cũng có những câu hỏi không gây nên phản ứng gì. Vậy câu hỏi nên như thế nào ? Hiệu quả của những câu hỏi phụ thuộc vào những kĩ năng đặt câu hỏi sau đây :
Mười kĩ năng đặt câu hỏi :
1) Bạn đặt những câu hỏi mà HS có thể trả lời được không ?
2) Bạn có để cho HS có đủ thời gian để trả lời không ?
3) Bạn có sử dụng ngôn ngữ cử chỉ (ánh mắt, nụ cười, nhướn lông mày, gật đầu...) để khuyến khích HS trả lời không ?
4) Bạn có khen ngợi hay ghi nhận câu trả lời đúng của HS không ?
5) Bạn có tránh làm cho HS ngại ngùng với câu trả lời của mình không ?
6) Nếu không có ai trả lời, bạn có thể đặt một câu hỏi khác đơn giản hơn nhằm gợi mở cách trả lời câu hỏi ban đầu không ?
7) Câu hỏi của bạn có ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu không ?
8) Bạn có tránh được việc chuyên sử dụng các câu hỏi ghi nhớ không ?
9) Bạn có thể phân phối câu hỏi đều cả lớp không ?
10) Trong khi giảng bài, bạn có khả năng đặt 2 câu hỏi mỗi phút không ?
3.4 Linh hoạt trong phương pháp và ứng xử sư phạm
Sự linh hoạt trong sử dụng PPDH, ứng xử sư phạm để thích ứng với sự thay đổi của đối tượng và hoàn cảnh là yếu tố quan trọng cho sự thành công của mỗi bài dạy. Phối hợp nhiều PPDH sẽ giúp cho HS đỡ nhàm chán và có hứng thú hơn tới môn học, đặc biệt trẻ càng nhỏ, sự thay đổi càng cần thiết. Hơn nữa sự phong phú về PPDH sẽ đáp ứng được yêu cầu giáo dục cá biệt và đáp ứng được lớp học đông người. Mỗi HS có những thói quen hoạt động trí óc khác nhau nên một PPDH chỉ có thể phù hợp với một số đối tượng nhất định. Linh hoạt trong sử dụng nhiều PPDH sẽ giúp cho mọi HS đều có cơ hội bình đẳng trong lĩnh hội kiến thức và kĩ năng kĩ xảo.
3.5 Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng đạt được ở HS
Kiểm tra và đánh giá là khâu then chốt của quá trình dạy học. Đánh giá vừa nhằm mục đích xác định mức độ năng lực và kiến thức được hình thành ở người học, vừa giúp người thầy điều chỉnh hoạt động dạy của mình. Sự đánh giá của thầy về kết quả học của trò dần phải chuyển sang thành kĩ năng tự đánh giá ở trò. Sự tự đánh giá giúp cho sự phát triển khả năng tự học của HS. Đánh giá phải theo những mục tiêu bài dạy đã đề ra và theo đúng cấp độ năng lực.
3.6 Những điều kiện và giải pháp để thực hiện đổi mới PPDH thành công
- Chương trình và sách giáo khoa (SGK) Chương trình và SGK cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với mục tiêu giáo dục và dạy học: Giảm bớt khối lượng kiến thức mang tính nhồi nhét, tinh lọc những thông tin cơ bản để thầy trò có đủ thời gian hoạt động biến chúng thành năng lực thực tiễn, giảm bớt những câu hỏi kiểm tra trí nhớ thuần tuý, tăng câu hỏi phân tích, khám phá, tự nghiên cứu...
- Phương tiện và điều kiện dạy học
Cần đổi mới trang thiết bị dạy học để có thể phát huy tối đa chức năng của các PPDH tích cực. Sử dụng phương tiện dạy học hợp lí sẽ giảm đi những thời gian “chết” của lớp học, thí dụ HS không phải chờ GV viết bảng quá lâu hay vẽ một hình ảnh nào đó... Lớp học đủ rộng để thầy trò dễ dàng tổ chức các hoạt động học tập như hoạt động nhóm, trò chơi...
- Đổi mới quy trình đánh giá
Yêu cầu của kiểm tra đánh giá cần phải dựa vào mục tiêu của bài dạy, của chương trình dạy. Cách kiểm tra đánh giá sẽ quy định cách dạy của thầy và cách học của trò. Nếu quy trình đánh giá là đánh giá sự sáng tạo và đánh giá năng lực thì quá trình đánh giá không dừng ở cấp độ đánh giá sự tái hiện kiến thức đơn thuần... Như vậy dạy học sẽ tránh nhồi nhét, GV và HS “buộc phải” hình thành cho được những năng lực của trò. Tóm lại, đánh giá mang tính tích cực sẽ dẫn đến dạy và học tích cực.
- Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và PPDH
Đổi mới PPDH gắn liền với sự phát triển chuyên môn của đội ngũ GV. Khuyến khích động viên mỗi sự sáng tạo của GV, tạo ra cơ chế hoạt động để GV có thể áp dụng sáng kiến vào thực tiễn. GV nâng cao trình độ, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về đổi mới PPDH, về sử dụng phương tiện công nghệ vào dạy học. GV là yếu tố trung tâm của quá trình đổi mới PPDH.
Nội dung 4 : Một số PPDH theo hướng tích cực hoá ở tiểu học
Căn cứ vào một số góc độ nhìn nhận về PPDH, người ta có thể chia phương pháp thành những nhóm sau đây :
1) Theo nguồn gốc, cách chuyển tải và đặc điểm tri giác tài liệu của HS
(Petropxki, Golant)
* Phương pháp dùng lời (thuyết trình, vấn đáp, tự đọc).
* Phương pháp trực quan (minh hoạ, trình diễn, quan sát).
* Phương pháp hoạt động thực tiễn (luyện tập, thực hành thí nghiệm, bài tập sáng tạo, trò chơi).
2) Theo mức độ sáng tạo trong nhận thức (Skatkin, Lecne)
* Phương pháp giải thích minh hoạ.
* Phương pháp tái hiện.
* Phương pháp tìm kiếm bộ phận.
* Phương pháp sáng tạo.
3) Theo cấu trúc hoạt động (Babanxki)
* Phương pháp tổ chức hoạt động nhận thức.
* Phương pháp kích thích động cơ.
* Phương pháp kiểm tra và tự kiểm tra kết quả học tập.
4) Theo đối tượng lĩnh hội (Đanhilop, Exipov)
* Phương pháp tìm tòi tri thức mới.
* Phương pháp hình thành kĩ năng kĩ xảo.
* Phương pháp kiểm tra đánh giá kĩ năng kĩ xảo.
5) Theo đặc điểm và tính chất của hoạt động
* Phương pháp giải thích bằng lời.
* Phương pháp hoạt động tìm kiếm tri thức mới.
* Phương pháp vận dụng tri thức để hình thành kĩ năng kĩ xảo.
* Phương pháp kiểm tra đánh giá tri thức.
B. Tổ chức thực hiện
1. Thông qua lí thuyết chuyên đề
- Thời gian: 13/9/2014
- Người thực hiện: PHT
2. Soạn giáo án. Thông qua giáo án
- Thời gian: 20/9/2014
- Người thực hiện:
Khối 3: Tiên Thị Dung (Buổi hai: Toán), Nguyễn Thị Thuyết: (Buổi 1: Tập đọc).
Khối 4: Vũ Thị Vân Anh (Buổi 1: TLV)
Khối 5: Hoàng Thị Thúy (Buổi hai: Toán)
- Toàn thể GV nghiên cứu bài dạy, chuẩn bị ý kiến thảo luận: Bài dạy tuần 4,5.
3. Dạy thực nghiệm
- Thời gian: 27/9/2014
- Người thực hiện:
Khối 3: Tiên Thị Dung (Buổi hai: Toán), Nguyễn Thị Thuyết: (Buổi 1: Tập đọc).
Khối 4: Vũ Thị Vân Anh (Buổi 1: TLV)
Khối 5: Hoàng Thị Thúy (Buổi hai: Toán)
4. Tổng kết chuyên đề
- Nhà trường, các tổ chuyên môn, GV dự giờ, đánh giá rút kinh nghiệm sau chuyên đề.
- Tổng kết chuyên đề.
* Hồ sơ chuyên đề:
1. Lí thuyết chuyên đề
2. Giáo án soạn dạy thực nghiệm
3. Biên bản rút kinh nghiệm giờ dạy của tổ CM, GV dự giờ.
4. Phiếu dự giờ (do tổ chuyên môn dự).
5. Biên bản tổng kết chuyên đề cấp trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 79859084927257_3911.doc