Trong thời gian 2 năm BVNĐ2 đã thực hiện
PT cho hơn 40 trường hợp VCS vô căn, kết quả
rất đáng khích lệ. Các phương pháp GMHS áp
dụng góp phần mang lại thành công này. Tuy
nhiên đây chỉ là bước đầu để chúng tôi có thể
thực hiện những ca khó hơn như VCS do bệnh
lý thần kinh – cơ, để góp phần cải thiện chất
lượng cuộc sống cho các trẻ em kém may mắn
này. Việc xây dựng 1 ê kíp chuyên nghiệp hơn
trong PT, GMHS cần được tiếp tục. Cũng như
việc trang bị thêm các phương tiện dụng cụ
thích hợp sẽ tạo điều kiện đễ phát triển kỹ thuật
này.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây mê hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống các kết quảbanđầu tại bệnh viện Nhi Đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 467
GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT VẸO CỘT SỐNG
CÁC KẾT QUẢ BAN ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Phan Thị Minh Tâm*, Lại Thị Thùy Như**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu thực hiện gây mê hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống tại bệnh viện
Nhi Đồng 2, các kết quả đạt được và các vấn đề còn tồn tại.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả có phân tích.
Kết quả: Từ tháng 06/2009 – 07/2011 chúng tôi thực hiện gây mê tổng quát trên 40 bệnh nhi bị vẹo cột
sống từ 3 tới 15 tuổi ở trẻ nữ nhiều hơn nam (27 : 13). Với 67,5% bệnh nhi là vẹo cột sống vô căn và 22,5% là
vẹo cột sống bẩm sinh, trong đó độ cong trung bình là 68o. phẫu thuật đường lưng là 82,5%, và phẫu thuật
đường lưng + ngực là 10%. Thời gian gây mê trung bình là 5g30. Test thức tỉnh được dùng để đánh giá chức
năng tủy sống. 31 bệnh nhi được dùng Cell saver để hạn chế truyền máu, chỉ có 4 bệnh nhi cần truyền thêm
máu. Có 17 bệnh nhi cần thuốc vận mạch, 2 bệnh nhi cần thở máy 1 ngày sau mổ, 3 trường hợp bị tai biến là 1
bệnh nhi bị liệt cơ tay (T), 1 tê 2 chi dưới, 1 tràn dịch màng phổi (T). Các trường hợp này đã được bình phục.
Kết luận: Gây mê hồi sức đã góp phần mang lại thành công trong bước đầu trong phẫu thuật vẹo cột sống
tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Để đảm bảo an toàn cho bệnh nhi hơn nũa cần duy trì huấn luyện đào tạo một đội ngũ
chuyên sâu về gây mê hồi sức và phẫu thuật cột sống.
Từ khóa : gây mê vẹo cột sống, phẫu thuật cột sống, kỹ thuật tiết kiệm máu
ABSTRACT
ANESTHESIA FOR SCOLIOSIS SURGERY IN CHILDREN’S HOSPITAL 2: THE INITIAL RESULTS
Phan Thi Minh Tam, Lai Thi Thuy Nhu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 467 ‐ 474
Objectives: To evaluate the initial results of anesthesia for scoliosis surgery at Children’s Hospital 2. The
results achieved and the problems still exist.
Methods: Retrospective, descriptive and analytic study
Results: From June 2009 to July 2011 we performed general anesthesia in 40 patients having scoliosis from
3 to 15 years old in young female than male (27:13). With 67.5% of patients were idiopathic scoliosis and 22.5%
were congenital scoliosis, in which the average curvature was 68o. Instrumentation posterior spinal fusion was
82.5% and anterior – posterior spinal fusion was 10%. The average duration of anesthesia was 5 hours 30
minutes. Wake ‐ up test was used to assess spinal cord function. 31 patients were used Cell saver to restrict blood
transfusions, only four patients needed more blood transfusions. There were 17 children needed inotropic drugs, 2
children required mechanical ventilation in the first postoperative day, 3 cases of complications: 1 patient
paralyzed the left arm, 1 numbness of the lower two and 1 left pleural effusion. These cases have been recovered.
Conclusions: Anesthetic management was contributing to the initial success of scoliosis surgery in
children’s hospital 2. To ensure more safety for patients, it’s necessary to maintain a trained staff of anesthesia
and surgery for scoliosis.
* Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: BS Phan Thị Minh Tâm ĐT: 0903363352 Email: ptmtam@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 468
Keywords: anesthesia for scoliosis, spine surgery, saving blood
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây mê cho bệnh nhi (BN) bị vẹo cột sống là
những thách thức và khó khăn mà người gây
mê phải đối mặt vì: phẫu thuật (PT) vẹo cột sống
là PT có nguy cơ rất cao, trong đó nhiều biến
chứng có thể xảy ra trong và sau PT. Chúng có
thể liên quan đến thao tác PT, tư thế bệnh nhi,
tình trạng trước mổ, kỹ thuật gây mê và bệnh
nhi là những người có thể có những tổn thương
ở tim mạch, hô hấp do bệnh lý vẹo cột sống gây
nên(1,7). Hiểu biết về bệnh lý vẹo cột sống và phối
hợp tốt giữa PT viên và bác sĩ gây mê là cần thiết
để đảm bảo sự thành công.
Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh lý vẹo
cột sống như: Vẹo cột sống (VCS) bẩm sinh, VCS
do chấn thương, VCS vô căn, VCS do bệnh lý
thần kinh ‐ cơ, VCS do di chứng của sốt bại liệt
hay lao cột sống (CS), ngoài ra còn có 1 số hội
chứng có kèm dị dạng CS(1,7). Đa số bệnh lý VCS
hiện nay được coi là vô căn vì chưa rõ nguyên
nhân gây dị dạng CS, và bệnh viện Nhi Đồng 2
mới thực hiện GM – PT được những trường hợp
VCS này.
Độ nặng của VCS tùy thuộc vào góc hợp bởi
đoạn CS bị cong, vẹo. CS càng cong, độ cong
càng lớn thì càng ảnh hưởng đến chức năng tim
phổi và tăng nguy cơ chu phẫu(4).
Nhằm mục đích đánh giá các kết quả đạt
được trong gây mê hồi sức (GMHS) các BN bị
VCS tại bệnh viện Nhi Đồng 2 cũng như các khó
khăn còn tồn tại để từ đó đề ra được những
phương thức GMHS phù hợp với các yêu cầu
của PT viên, kỹ thuật GMHS an toàn và hiệu
quả cho bệnh VCS; chúng tôi tiến hành nghiên
cứu các trường hợp GMHS cho PT VCS tại
BVNĐ2.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả ban đầu thực hiện gây mê
hồi sức trong phẫu thuật vẹo cột sống tại Bệnh
Viện Nhi Đồng 2: Các kết quả đạt được và các
vấn đề còn tồn tại.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp
Hồi cứu, mô tả có phân tích tất cả các BN có
chỉ định PT VCS.
Dữ liệu nghiên cứu
Tuổi, giới tính, cân nặng.
Bệnh VCS: tình trạng CS, độ cong, chiều dài
đoạn CS tổn thương.
Tình trạng BN trước PT: chức năng tim –
phổi.
Tư thế BN
Phương pháp GMHS, thuốc mê, thuốc giảm
đau
Kỹ thuật GMHS: phương tiện theo dõi, test
thức tỉnh, truyền máu hoàn hồi.
Diến biến, thời gian GM
Giai đoạn hồi tỉnh, hồi sức sau mổ.
Tai biến, tác dụng phụ
Thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm
thống kê SPSS phiên bản 15.0
KẾT QUẢ
Từ tháng 06.2009 tới tháng 07.2011 tiến hành
GMHS cho 40 BN từ 3 tới 15 tuổi tại bệnh viện
Nhi Đồng 2 TP.HCM. Các số liệu thu thập được
như sau:
Bảng 1: Tuổi và cân nặng
Tuổi Số trường hợp
Cân nặng (kg)
Tỉ lệ %
Min TB Max
< 3 tuổi 0 0 0 0 0,0
3 - 10 tuổi 6 13,0 16,50 21,0 15,0
> 10 tuổi 34 13,0 37,79 68,0 85,0
Tổng cộng 40 13,0 34,60 68,0 100,0
Nhận xét: Đa số BN > 10 tuổi, nhỏ nhất là 3
tuổi và lớn nhất là 15 tuổi.
Bảng 2: Giới tính
Giới tính Số trường hợp Tỉ lệ %
Nam 13 32,5
Nữ 27 67,5
Tổng cộng 40 100
Nhận xét: Số BN nữ > gấp đôi số BN nam
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 469
Bảng 3: Chẩn đoán
Chẩn đoán Số trường hợp Tỉ lệ %
Vẹo CS do bệnh lý
bẩm sinh 9 22,5
Vẹo CS vô căn 27 67,5
Vẹo CS + Trật đốt
sống do chấn thương 3 7,5
Khác 1 2,5
Tổng cộng 40 100
Nhận xét: Vẹo CS do bệnh lý bẩm sinh (bao
gồm tật ½ đốt sống) Khác: hội chứng Arnold
Chiarie: 1
Bảng 4: Đoạn cột sống
Đoạn cột sống Số trường hợp Tỉ lệ %
Ngực 11 27,5
Lưng 2 5,0
Ngực + Lưng 25 62,5
Lưng + Cùng 1 2,5
Khác 1 2,5
Tổng cộng 40 100
Nhận xét: Khác: 1 (Hội chứng Arnold‐
Chiari)
Bảng 5: Độ dài cột sống
Độ dài đốt sống PT Số trường hợp Tỉ lệ %
1 6 18,18
2 1 3,03
3 1 3,03
5 1 3,03
6 2 6,06
7 2 6,06
8 4 12,12
9 1 3,03
10 2 6,06
11 2 6,06
12 5 15,15
13 2 6,06
14 2 6,06
15 2 6,06
Tổng cộng 33 100
Nhận xét: Độ dài đốt sống PT tương ứng với
các BN VCS từ ngực đến lưng
Bảng 6: Độ cong
Độ cong Số trường hợp Tỉ lệ %
< 600 21 52,5
600 - 1000 18 45,0
> 1000 1 2,5
Tổng cộng 40 100
Độ cong CS trung bình là 68o, nhỏ nhất 42o
và lớn nhất 110o
Bảng 7: Tư thế mổ
Tư thế Số trường hợp Tỉ lệ %
Sấp 33 82,5
Nghiêng 2 5
Hai tư thế 4 10
Ngửa 1 2,5
Tổng cộng 40 100
Bảng 8: Đo HA động mạch xâm lấn
HA ĐM Số trường hợp Tỉ lệ %
Không 5 12,5
Có 35 87,5
Tổng cộng 40 100
Bảng 9: Sử dụng thuốc vận mạch
Sử dụng vận mạch Số trường hợp Tỉ lệ %
Không 23 57,5
Trong mổ 9 22,5
Sau mổ 4 10,0
Cả trong và sau mổ 4 10,0
Tổng cộng 40 100,0
Bảng 10: Truyền máu trong mổ
Truyền máu Số trường hợp Tỉ lệ %
Không truyền máu 6 15,0
Chỉ dùng cell saver 31 77,5
Chỉ truyền, các chế phẩm máu 1 2,5
Cell saver + chế phẩm máu 2 5,0
Tổng cộng 40 100
Bảng 11: Test thức tỉnh có làm thay đổi huyết động
học
Thay đổi huyết động Số trường hợp Tỉ lệ %
<10% giá trị ban đầu 32 80
10 - 20% giá trị ban đầu 8 20
Tổng cộng 40 100
Bảng 12:Thay đổi Hemoglobin sau mổ
Thay đổi Hemoglobin Số trường hợp Tỉ lệ %
Không 13 32,5
≤ 4g/dL 23 57,5
> 4g/dL 4 10,0
Tổng cộng 40 100
Bảng 13: Thay đổi Hematocrit sau mổ
Thay đổi Hematocrit Số trường hợp Tỉ lệ %
Không 8 20
≤ 5% 16 40
> 5% 16 40
Tổng cộng 40 100
Bảng 14: Thời gian gây mê
Thời gian gây mê Số trường hợp Tỉ lệ %
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 470
Thời gian gây mê Số trường hợp Tỉ lệ %
≤ 3 giờ 3 7,5
3-5 giờ 12 30,0
> 5 giờ 25 62,5
Tổng cộng 40 100
Thời gian GM ngắn nhất là 2g30 và dài nhất
là 9g30
Bảng 15: Biến chứng
Biến chứng Số trường hợp Tỉ lệ %
Không 37 92,5
Có 3 7,5
Tổng cộng 40 100
Tê 2 chi dưới và teo cơ: 1, Liệt cánh tay (T)
sức cơ 4/5: 1, Tràn dịch màng phổi (T): 1
BÀN LUẬN
Chọn lựa BN và thời điểm PT bệnh VCS ở
trẻ em
VCS là biến dạng quay – bên của đoạn cột
sống thắt lưng (TL) – ngực (N), độ nặng của
VCS phụ thuộc vào góc hợp bởi đoạn cột sống bị
cong. Khi góc này > 10o là có bất thường ở cột
sống, nếu < 60o ít gây ảnh hưởng đến chức năng
hô hấp. Tần suất dị dạng cột sống ở Bắc Mỹ là 1
– 2% (9) còn ở Việt Nam chưa có thống kê chính
xác. Tuy có nhiều nguyên nhân gây VCS, nhưng
VCS vô căn là thường gặp nhiều nhất trong các
loại dị dạng cột sống. Trẻ bị VCS thường có 1
giai đoạn ổn định, độ cong cột sống được duy
trì, có thể điều trị bảo tồn không cần PT(2). Tuy
nhiên 1 số nhỏ các trường hợp chiếm 0,2 – 0,5%
VCS có diễn tiến xấu làm cột sống cong nhiều
hơn gây mất thẩm mỹ, đau lưng và ảnh hưởng
tới chức năng tim phổi(9), và các trường hợp này
cần được PT cột sống.
Trong nghiên cứu của chúng tôi việc chọn
lựa các BN VCS để mổ là các BN có cột sống bị
cong nhiều, độ cong trung bình là 68o, trong đó
có 21 VCS <60o (52,5%) 18 VCS 60 – 100o (45%) và
1 VCS > 100o (2,5%). Độ cong nhỏ nhất là 42o và
lớn nhất là 110o, có ảnh hưởng ít nhiều tới chức
năng tim, phổi.
Thời điểm PT cho BN hiện nay còn nhiều
bàn cãi, thông thường VCS sẽ có 3 giai đoạn
bùng phát liên quan tới các giai đoạn phát triển
của trẻ em.
‐ Trẻ nhỏ < 3t: khi phát hiện VCS trong thời
điểm này thường kết hợp với chậm phát triển
tâm – vận, thoát vị bẹn, trật khớp háng bẩm sinh
và tim bẩm sinh
‐ Trẻ lớn 3 – 10t: VCS trong lứa tuổi này có
thể điều trị bảo tồn.
‐ Trẻ thiếu niên >10t: VCS vô căn là thể
thường gặp nhất và ờ trẻ gái nhiều hơn. Triệu
chứng sẽ rầm rộ ở giai đoạn tiền kinh nguyệt và
tuổi xương.
Nếu độ cong cột sống càng nhiều, VCS >100o
sẽ gây nên các tổn thương tim mạch và hô hấp.
Nếu chậm trễ PT thì càng ảnh hưởng tới tim –
phổi đồng thời BN càng chịu nhiều nguy cơ chu
phẫu hơn(4).
Số BN VCS trong nghiên cúu này được PT: <
3t không có trường hợp nào, từ 3 – 10t là 6
trường hợp và > 10t là 34 trường hợp, tỉ lệ nữ
nhiều hơn nam 27 nữ : 13 nam. Có 2 BN cần thở
máy 1 ngày sau mổ đều có đoạn CS chỉnh hình >
10 đốt sống, thời gian mổ > 6g và 1 BN có thêm
di chứng hở van tim. Điều này cũng phù hợp
với các dữ liệu trong y văn.
Chuẩn bị tiền phẫu
Mục đích của chuẩn bị tiền phẫu cho BN
VCS là giúp đánh giá BN toàn diện, hướng dẫn
BN hợp tác trong và sau mổ, và hạn chế tối đa
các biến chứng có thể xảy ra chu phẫu. Cần khảo
sát tình trạng VCS, có ảnh hưởng đến các cơ
quan chức năng chưa? Làm các xét nghiệm tim,
phổi, các biện pháp giúp cái thiện tình trạng BN,
tâm lý, và dự trù lượng máu cần thiết.
Tại BVNĐ 2 chúng tôi chuẩn bị BN trước
mổ: Chụp XQ cột sống, khám tim mạch và các
XN liên quan; đánh giá chức năng hô hấp, tuy
nhiên còn hạn chế đo chức năng hô hấp cho BN
tuổi nhỏ. Xét nghiêm chức năng gan – thận, ion
đồ, huyết đồ và chức năng đông máu toàn bộ.
Nhưng chưa lập được quy trình tiết kiệm máu
truyền cho BN trước mổ.
Đánh giá chức năng hô hấp: Khi VCS tiến
triển làm cột sống càng cong nhiều hơn sẽ gây
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 471
hẹp khoang ngực, thể tích phổi và độ đàn của
phổi sẽ tỷ lệ nghịch với độ cong này. Khi VCS >
65o chức năng hô hấp sẽ bị ảnh hưởng. Hậu quả
là gây bệnh phổi hạn chế, dung tích sống bình
thường là 60ml/kg sẽ bị giảm nhiều <60%. Đối
với VCS do bệnh lý thần kinh – cơ thì tổn
thương phổi còn nặng nề hơn.
Đánh giá chức năng tim mạch: 25% VCS bị
sa van 2 lá, nếu VCS > 70o có thể bị cao áp phổi
khi vận động gắng sức, nếu VCS > 110o cao áp
phổi có thể xảy ra khi nghỉ ngơi. Lý do cao áp
phổi không chỉ do tăng kháng lực mạch máu
phổi (lồng ngực bị méo gây chèn ép phổi) mà
còn do tần suất co mạch máu phổi thiếu O2(4,8).
BN có các di chứng về tim – phổi trước mổ
thì nguy cơ có nhiều biến chứng trong và sau
mổ hơn. Một số nghiên cứu cho rằng các tổn
thương này hồi phục rất ít hoặc rất chậm sau đó
hàng tháng hay tới hàng năm(11).
Phẫu thuật VCS: Thách thức cho BS
GMHS?
Ngoài những nguyên tắc cơ bàn trong gây
mê nhi thì khi GM trong PT chỉnh hình VCS cần
lưu ý một số điểm sau:
Phương pháp PT
Đường mổ có thể là đường lưng (BN nằm
sấp), hay đường ngực (BN nằm nghiêng ), hay
cả hai (thay đổi tư thế BN trong mổ). Cần chuẩn
bị phương tiện dụng cụ và nhân sự để thực hiện
đồng bộ. Thời gian PT là rất dài, trong nghiên
cứu này thời gian PT > 5g là 25 BN chiếm 62,5%,
từ 3 – 5g là 12 BN (30%) và < 3g có 3 BN chiếm
7,5%. Gây mê cần lưu ý khi PT đè ép lên ngực,
khi bẻ thanh dọc chỉnh hình CS có thể ảnh
hưởng huyết động học và cản trở việc làm đầy
tim. Ở trẻ bị gù vẹo nhiều có nguy cơ thuyên tắc
khí nhiều hơn ở giai đoạn này.
Trong nghiên cứu này đa số PT là hàn
xương lối sau (đường lưng) 33 BN (82,5%), 2
trường hợp hàn xương lối trước (đường ngực:
5%), và 4 trường hợp đi 2 đường (10%). Mỗi khi
PT viên ép ngực nhiều hay lúc bẻ thanh dọc
chỉnh hình CS, BN thường bị mạch chậm, tụt
huyết áp.
Tư thế BN
BN thường được đặt ở tư thế nằm sấp khi
PT VCS, cần lưu ý bảo vệ các nơi tỳ, chú ý 2 tay
không áp sát thân cũng không dang quá 90o vì
dễ gây tổn thương thần kinh. Không được chèn
ép bụng vì sẽ cản trở thông khí và hồi lưu tĩnh
mạch. Đặt đầu ở vị trí trung gian, áp lực phân bố
đều ở trán và mặt, tránh chèn ép 2 mắt. Mất thị
lực sau mổ là 1 biến chứng không thường gặp
nhưng gây tàn phế cho BN. Tần suất có thể là
0,2% thường gặp trên người lớn, nhưng không
phải không gặp trên trẻ lớn. Bệnh nguyên chưa
rõ ràng nhưng có liên quan đến thiếu máu thần
kinh thị giác. Thời gian mổ kéo dài và mất máu
lượng lớn không kiểm soát được là các yếu tố
nguy cơ cho tai biến này (5). BN phải nằm sấp
trong 1 thời gian dài nên cần cố định chắc chắn
ống nội khí quản, vì tuột ống trong mổ sẽ là 1
thảm họa(6).
Cần phải có 1 khung đặc biệt để kê tư thế
BN, nhưng hiện nay tại BVNĐ2, chúng tôi chưa
có được khung này. Trong thời gian đầu tiến
hành mổ VCS, đầu BN thường được đặt
nghiêng, nên có 1 trường hợp bị trật CS cổ sau
mổ, gây tê liệt cánh tay (T) và đã được phục hồi.
Thời gian mổ trong trường hợp này là 9g.
Tổn thương tủy sống
Có thể xảy ra trong PT chỉnh hình VCS,
đây là biến chứng đáng quan ngại. Theo hiệp
hội nghiên cứu VCS ở Mỹ và hội dị tật cột
sống ở châu Âu cho biết tần suất nguy cơ tổn
thương tủy là 0,75% (1975) và giảm dần còn
0,3% sau này.
Bệnh nguyên: có 4 cơ chế chính gây tổn
thương tủy là dập tủy do thao tác PT, do bắt ốc
chân răng, khi chỉnh độ cong cột sống bằng
thanh dọc và giảm máu nuôi tủy.
Phương pháp theo dõi chức năng tủy sống:
hiện có nhiều cách để theo dõi chức năng tủy
sống trong mổ. Test thức tỉnh (wake up ‐ test)
dùng lời nói đánh giá, ankle – clonus test,
somatosensory – evoked potentials (SEP), motor
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 472
– evoked potentials (MEP) là dùng máy kích
thích điện để đánh giá đáp ứng vận động – cảm
giác của BN. Ở BVNĐ2 chúng tôi chỉ áp dụng
test thức tỉnh.
Test thức tỉnh: BN được dặn dò trước khi
gây mê, sẽ có 1 giai đoạn kêu BN dậy, xác định
độ tỉnh mê bằng nói BN nắm tay BS, sau đó nói
BN cử động 2 chi dưới Đây là 1 giai đoạn khó
khăn cho cả BN và BS. BN thường lo lắng khi
nghe giải thích về test này trước mổ vì sợ đau, sợ
nhớ lại sau mổ. Đối với ê kíp PT thì lúc BN thức
tỉnh trong mổ có thể gây tuột ống nội khí quản,
di chuyển dụng cụ chỉnh hình, chấn thương tâm
lý, thuyên tắc khí và thiếu máu cơ tim. Do vậy
đối với VCS gây gù vẹo nhiều phải đổ đầy nước
phẫu trường trong giai đoạn này.
Trong nghiên cứu này khi thực hiện test
thức tỉnh, chúng tôi phải cho thêm Fentanyl,
chuẩn bị sẵn Propofol để sẵn sàng cho BN ngủ
lại nhanh khi cần. Có ghi nhận mạch và huyết
áp tăng trong giai đoạn này nhưng không quá
20% giá trị ban đầu.
Hạ thân nhiệt
Đặc biệt cần lưu ý trong mổ VCS vì thời gian
mổ rất lâu kèm mất máu nhiều. Thân nhiệt hạ
càng làm tăng chảy máu vì giảm chức năng tiểu
cầu, chức năng đông máu giảm và chậm co
mạch. Cần giữ nhiệt độ phòng mổ khoảng 24o,
BN được nằm trên nệm ấm, phun khí ấm cho
BN. Đây là các trang thiết bị đắt tiền, chúng tôi
chỉ mới trang bị được máy phun khí ấm.
Hạn chế mất máu trong mổ
Lượng máu mất trong mổ tương ứng với số
đoạn cột sống can thiệp, ở trẻ VCS vô căn lượng
máu mất có thể là 750 – 1500 ml hay 60 – 150
ml/đốt sống. Trẻ VCS bại não là 1300 – 2200 ml
tương ứng 100 – 190 ml/đốt sống. Và trẻ VCS
bệnh lý thần kinh – cơ là 2500 – 4000 ml tương
ứng 200 – 280 ml/đốt sống.
Có nhiều biện pháp giúp hạn chế chảy máu
trong mổ như: hạ HA chỉ huy, pha loãng máu
đồng thể tích, truyền máu tự thân (lấy máu
trước mổ 3 –4 tuần để truyền lại trong mổ),
dùng thuốc ức chế tiêu sợi huyết (Aminocapric
acid, Aprotinine), Tranexamic acid không có
hiệu quả; truyền máu hoàn hồi (cell saver). Việc
tăng lượng hồng cầu trước mổ cũng được đề
nghị bằng cách cho BN Erythropoietin, viên sắt,
vitamin C Qua kết quả của 1 số nghiên cứu
cho rằng truyền máu tự thân và dùng thuốc
trước mổ là hiệu quả hơn.
Trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng truyền
máu hoàn hồi 31 trường hợp chiếm 77,5%, trong
đó có 2 BN cần truyền thêm máu sau mổ. 2
trường hợp (5%) vừa truyền máu hoàn hồi vừa
truyền máu thêm trong mổ: 1 BN PT 10 đốt sống
độ cong 85o, 1 BN 12 đốt sống độ cong 70o, thời
gian mổ đều > 6g, mỗi BN được truyền 125ml
HC lắng. Đây là những BN mổ trên nhiều đốt
sống bị vẹo nhiều, 1 BN bị hở van tim kèm theo.
Với phương tiện này đã giúp hạn chế được việc
truyền máu đồng nhóm rất nhiều. Nhưng
phương pháp này vẫn còn hạn chế ở BN nhỏ
nhẹ cân, vì cần thu thập đủ 1 lượng máu cho
máy hoạt động rồi mới truyền trả lại được.
Lượng Hemoglobine sau mổ không thay đổi 13
trường hợp (32,5%), giảm ≤ 4g/dl 23 trường hợp
(57,5%), chỉ có 4 trường hợp giảm > 4g/dl (10%).
Chúng tôi nhận thấy lượng máu mất trong mổ
tương ứng với chiều dài đốt sống can thiệp, thời
gian và kỹ thuật mổ.
Như vậy do tính chất phức tạp của PT, các
tai biến nghiêm trọng liên quan đến tư thế mổ,
tổn thương tủy sống, mất máu lượng lớn, hạ
thân nhiệt và thời gian mổ kéo dài thì gây
mê cho BN VCS quả là thách thức cho BSGM,
nhất là trên BN có các di chứng tim – phổi
trước mổ. Do đó bước đầu chúng tôi chưa thể
thực hiện những trường hợp VCS do bệnh lý
thần kinh – cơ.
Kỹ thuật gây mê trong phẫu thuật vẹo cột
sống
PT VCS có thể gây ra những tai biến tổn
thương tủy sống, mất máu lượng lớn, nên kỹ
thuật gây mê phải phù hợp để có thể thực hiện
test thức tỉnh, hay các test đánh giá chức năng
vận động – cảm giác thần kinh. Đối với các BN
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 473
VCS có các di chứng về hô hấp – tim mạch trước
đó thì phải có 1 kế hoạch gây mê, chăm sóc sau
mổ thích hợp. BN cần được theo dõi thường quy
như ECG, HA, EtCO2, SpO2 BN cần được theo
dõi HA động mạch xâm lấn, ít nhất 1 đường TM
ngoại vi nòng lớn, đo thân nhiệt, nước tiểu,
đường TM trung tâm cho những trường hợp có
tổn thương ở tim hay khó chích tĩnh mạch...
Trong nghiên cứu này chúng tôi thực hiện
GM cân bằng cho tất cả BN với Propofol,
Fentanyl, Rocuronium, và Isoflurane. Thời gian
chờ làm test thức tỉnh cho BN trung bình là 30
phút. Desflurane có thể giúp BN hồi tỉnh nhanh
hơn, nhưng chúng tôi chưa có thuốc này.
Chúng tôi ghi nhận trong giai đoạn xiết ốc,
chỉnh CS bằng thanh dọc có 13 BN (32,5%) bị
mạch chậm, tụt HA cần được điều trị thuốc vận
mạch. Đây là những BN VCS > 60o, chỉ 1BN VCS
50o, có đoạn CS mổ dài từ 7 – 12 đốt sống.
Giai đoạn hậu phẫu
Việc quyết định rút nội khí quản hay duy trì
thở máy sau mổ dựa trên BN có di chứng về hô
hấp – tim mạch trước đó không, diễn tiến cuộc
mổ cũng góp phần vào. Vì có 1 sự giảm dung
tích sống 40% tức thì và thoáng qua trong hấu
hết BN sau mổ VCS(8). Trong nghiên cứu này
chúng tôi rút nội khí quản trung bình 1g sau mổ,
chỉ có 2 TH thở máy 1 ngày vì có chiều dài CS
mổ trên 10 đôt sống, thời gian mổ > 6g và 1 BN
có hở van tim.
Giảm đau sau mổ
PT VCS gây đau nhiều nên sử dụng
Morphin 20 – 40 mcg/kg/H truyền liên tục, từng
liều hay qua PCA thường được chọn lựa. Tê
ngoài màng cứng được đặt cuối cuộc mổ với 1
hay 2 catheter duy trì giảm đau sau mổ. Thuốc
giảm đau kháng viêm không Steroid (NSAIDs)
ngăn cản quá trình lành xương, tần suất kết hợp
xương kém sau PT VCS. Nên NASIDs chỉ được
cho với sự thận trọng cao sau khi đã bàn bạc kỹ
lưỡng, và chỉ cho 3 – 5 ngày sau mổ(3). Sử dụng
Ketamine liều thấp 0,05 – 0,2mg/kg/H phối hợp
với Morphine để giảm đau sau mổ VCS còn
nhiều bàn cãi, nhưng rõ ràng có giảm được liều
Morphine. Thực tế có thể truyền TM Ketamine
5mcg/kg/1’ tới cuối cuộc mổ còn 2mcg/kg/1’ vì
Ketamine chống tăng cảm đau.
Tất cả BN chúng tôi được giảm đau bằng
Morphine 20 – 40 mcg/kg X 2 ngày sau mổ, sau
đó giảm liều dần và sử dụng Paracetamol.
Tác dụng phụ ‐ tai biến
Do kỹ thuật mổ và dụng cụ: Những tai biến
trong và sau mổ đều có thể xảy ra, nên cần phải
hiểu rõ để xử lý kịp thời. Y văn có báo cáo nhiều
TH tai biến nặng như mất thị lực sau mổ, thuyên
tắc khí trong mổ, yếu – liệt chi sau mổ gây tàn
phế cho BN. Do đó phải nắm vững kỹ thuật mổ,
đánh giá BN, có phương pháp GM phù hợp cho
từng BN và tiên lượng 1 số tình huống có thể
xảy ra để có thể giải quyết tốt.
Chúng tôi có 3 TH có tai biến trong đó 1 TH
bị yếu 2 chi dưới và teo cơ 4/5, 1 TH yếu liệt
cánh tay trái sau đó hồi phục lại và 1 TH tràn
dịch màng phổi trái.
Do gây mê: Mất máu lượng lớn, hạ thân
nhiệt, liệt ruột, đau sau mổ, xẹp phổi, chảy máu
sau mổ là những tai biến liên quan đến GM.
Cần duy trì huyết động ổn định suốt cuộc mổ,
bảo vệ BNsử dụng thuốc mê, thuốc giảm đau
phù hợp từng thời điểm mổ, truyền đủ dịch và
bù máu kịp thời sẽ hạn chế phần lớn các tai biến
này.
Trong nghiên cứu, chúng tôi có 17 TH thay
đổi huyết động học phải sử dụng vận mạch
trong mổ có 9 TH, 4 TH cả trong và sau mổ và 4
TH chỉ sau mổ.
Như vậy, qua 40 TH PT VCS với 1 số tai biến
xảy ra được xử lý kịp thời trong và sau mổ, bước
đầu chúng tôi đã GMHS an toàn cho các TH
này. Tuy nhiên, việc huấn luyện, đào tạo BS và
điều dưỡng cho công tác này vẫn phải tiếp tục.
KẾT LUẬN
Trong thời gian 2 năm BVNĐ2 đã thực hiện
PT cho hơn 40 trường hợp VCS vô căn, kết quả
rất đáng khích lệ. Các phương pháp GMHS áp
dụng góp phần mang lại thành công này. Tuy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 474
nhiên đây chỉ là bước đầu để chúng tôi có thể
thực hiện những ca khó hơn như VCS do bệnh
lý thần kinh – cơ, để góp phần cải thiện chất
lượng cuộc sống cho các trẻ em kém may mắn
này. Việc xây dựng 1 ê kíp chuyên nghiệp hơn
trong PT, GMHS cần được tiếp tục. Cũng như
việc trang bị thêm các phương tiện dụng cụ
thích hợp sẽ tạo điều kiện đễ phát triển kỹ thuật
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aaron LZ, Myron Y (2006). Anesthesia for orthopedic surgery.
In: Motoyama EK, Davis PJ. Smith’s Anesthesia for infants and
children. 7th Edition, Mosby Elsevier: 737 – 769.
2. Ascani E, Bartolozzi P, Logroscino CA et al (1986). Natural
history of untreated idiopathic scoliosis after skeletal maturity.
Spine 11: 784‐789
3. Glassman SD, Rose SM et al (1998). The effect of postoperative
nonsteroid anti – inflammatory drug administration on spinal
fusion. Spine 23: 834 ‐ 838.
4. Kafer ER, (1980). Respiratory and cardiovascular functions in
scoliosis and the principles of anesthetic management.
Anesthesiology 52: 339‐351.
5. Lee LA, Lam AM (2001). Unilateral blindness after prone
lumbar spine surgery. Anesthesiology 95: 793‐795.
6. Martin JT (1997). The ventral decubitus (prone) position. In
Martin JT, Warner MA, editors. Positioning in anesthesia and
surgery. Philadelphia, WB Saunders: 155‐195.
7. Niall Wilton, Brian A (2009). Orthopedic and spine surgery. In:
Coté, Lerman, Todres. A practice of anesthesia for infants and
children. 4th Edition, Saunders Elsevier: 633 – 656.
8. Schur MS, Brown JT el al (1984). Postoperative pulmonary
function in chldren. Comparision of scoliosis with peripheral
surgery. Am Rev Respir Dis 130: 46‐51.
9. Weinstein SL et al (2003). Health and function of patients with
untreated idiopathic scoliosis: A 50‐year natural history study.
JAMA 289: 559‐567.
10. Weistein SL, Zavala DC (1981). Idiopathic scoliosis: Long‐term
follow‐up and prognosis in untreated patients. J Bone Joint
Surg Am 63: 702‐712.
11. Yuan N, Faire JA et al (2005). The effect of scoliosis surgery on
lung function in the immediate postoperative period. Spine;
30: 2182‐2185.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gay_me_hoi_suc_trong_phau_thuat_veo_cot_song_cac_ket_quaband.pdf