Trong nghiên cứu của chúng tôi, 29/49 (59,2%) BN
có kết quả PET/CT dương tính, trong khi chỉ có 18/49
BN (36,7%) có kết quả CT dương tính. PET/CT phát
hiện được 41 tổn thương ở 29 BN (59,2%) nhiều hơn
rõ rệt so với CT (20 tổn thương ở 18 BN (36,7%). Tổn
thương nhỏ nhất phát hiện được trên PET/CT có kích
thước 5 mm, trong khi trên CT 10 mm. Kích thước trung
bình tổn thương trên PET/CT là 10,2 mm, trên CT 13,5
mm. Điều này cho thấy ưu thế của PET/CT trong việc
phát hiện tổn thương tái phát/di căn ở các BN UTTG biệt
hóa có Tg cao và XHTT với 131I âm tính so với CT, do
PET/CT kết hợp được hai khả năng chẩn đoán chuyển
hóa của PET và CĐHA của CT. Tiêu chuẩn để xác định
hạch cổ nghi di căn trên CT là đường kính trục ngắn của
hạch ≥ 1 cm. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy 11/29 BN
kết quả PET/CT dương tính có kích thước tổn thương
< 10 mm, trong đó 9 BN có UTTG tái phát/di căn. Do
đó, nếu sử dụng tiêu chuẩn này của CT sẽ có nguy
cơ bỏ sót tổn thương. PET/CT phát hiện được nhiều
tổn thương ở cả giường tuyến giáp (19 tổn thương) và
hạch cổ (9 tổn thương) hơn so với CT (tương ứng 13 và
4 tổn thương). Tuy nhiên cả PET/CT và CT chỉ phát hiện
được một tổn thương phổi. Hung MC và cs thấy 20 BN
có xạ hình âm tính, nồng độ Tg dương tính được chụp
18FDG PET, phát hiện tổn thương ở 17/20 BN nhưng
18FDG PET không phát hiện được các tổn thương di
căn phổi kích thước nhỏ đã được xác định trước đó ở
hai BN. Tác giả gợi ý nên sử dụng CT lồng ngực hoặc
PET/CT trong các trường hợp đó. Chúng tôi trong 23
BN PET/CT dương tính được phẫu thuật chỉ phát hiện
UTTG ở 19 BN, 4 BN không phát hiện UTTG trên GPB
sau phẫu thuật. Một BN có kết quả PET/CT âm tính
được phát hiện di căn hạch cổ 6 tháng sau chụp PET/
CT. Điều đó cho thấy PET/CT có thể có dương tính giả
(tổn thương viêm) hoặc âm tính giả (tổn thương vi di
căn dưới ngưỡng phân giải của PET). Vì vậy, phân tích
kết quả PET/CT cần kết hợp với những thông tin khác
như Tg huyết thanh, siêu âm cổ với các BN có kết quả
PET/CT âm tính. So sánh giá trị chẩn đoán của PET/
CT và CT, chúng tôi nhận thấy PET/CT có Sn 83,9%,
Ac 83,7%, NPV 75% cao hơn rõ rệt so với CT (các giá
trị tương ứng 51,6%; 65,3% và 51,6%). Sp và PPV
của PET/CT (83,3% và 89,7%) tương đương với của
CT (cùng 88,9%). So sánh diện tích dưới đường cong
ROC cũng cho thấy PET/CT có giá trị cao hơn CT trong
chẩn đoán UTTG tái phát/di căn có ý nghĩa thống kê
(p < 0,01). Tuy nhiên, nhược điểm của PET/CT là chi
phí đắt và chỉ có ở ít cơ sở. Qua phân tích đường cong
ROC của PET/CT, chúng tôi nhận thấy SUV là một tiêu
chuẩn đáng tin cậy nhưng kích thước tổn thương trên
PET/CT không đáng tin cậy trong chẩn đoán UTTG tái
phát/di căn, do SUV là giá trị đại diện cho chuyển hóa
của tế bào nên sẽ phản ánh trung thực bản chất của
tổn thương, còn kích thước tổn thương trên PET/CT
thường khó được đánh giá chính xác do hiện tượng tán
xạ của hình PET. Chúng tôi xác định ngưỡng SUV cho
giá trị chẩn đoán tốt nhất là 4,5 (Sn 84,6%; Sp 66,7%)
và 5 (Sn và Sp là 65,3% và 100%). Căn cứ vào ngưỡng
SUV này có thể quyết định phương pháp điều trị thích
hợp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của ¹⁸FDG-PET/CT và CT ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp biệt hóa có nồng độ Thyroglobulin huyết thanh cao và xạ hình toàn thân với ¹³¹I âm tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 261
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
*Khoa Y học hạt nhân, Bệnh
viện Trung ương Quân đội 108
Objective: to determine value of FDG-PET/CT and diagnostic
CT scan in post-surgical differentiated thyroid carcinoma patients
with high serum thyroglobulin and negative 131I whole body scan.
Patients and method: We performed FDG-PET/CT and
diagnostic CT scan in 49 post-surgical differentiated thyroid
carcinoma patients with high serum thyroglobulin and negative 131I
whole body scan who already underwent 131I therapy in Department
of Nuclear Medicine, 108 Central Military Hospital.
Results: 41 lesions detected in 29/49 patients (59.2%) with
positive PET/CT scan compared to only 20 lesions 18/49 patients
(36.7%) detected on positive CT scan. The Sn, Ac and NPV of
FDG-PET/CT were 83.9%, 83.7% and 75% higher than those of CT
(51.6%, 65.3% and 51.6%, respectively). Sp and PPV of FDG-PET/
CT (83.3% and 89.7%, respectively) were similar to those of CT
(88.9%). SUVmax thresholds with good diagnostic value were 4.5 (
Sn 84.6%, Sp 66.7%) and 5.0 ( Sn 65.3%, Sp 100%). FDG-PET/CT
had altered treatment plan in 25/49 patients (51.2%).
Conclusion: FDG-PET/CT is superior than CT in detecting
reccurent/metastatic lesions in post-surgical differentiated thyroid
carcinoma patients with high serum thyroglobulin and negative 131I
whole body scan.
Key words: FDG PET/CT, CT, differentiated thyroid carcinoma.
GIÁ TRỊ CỦA 18FDG-PET/CT VÀ CT Ở BỆNH NHÂN
UNG THƯ TUYẾN GIÁP BIỆT HÓA CÓ NỒNG ĐỘ
THYROGLOBULIN HUYẾT THANH CAO
VÀ XẠ HÌNH TOÀN THÂN VỚI 131I ÂM TÍNH
Value of Pet/Ct and diagnostic Ct scan in
differentiated thyroid carcinoma patients with high
serum thyroglobulin and negative 131i whole body scan
Bùi Quang Biểu*, Lê Ngọc Hà* và cs
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012262
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Ung thư tuyến giáp (UTTG) là loại bệnh ung thư
(UT) khá hiếm gặp, chiếm khoảng 1% các bệnh UT,
khoảng 90% các UT tuyến nội tiết, 70% tử vong ở các
bệnh nhân (BN) UT nội tiết. Ung thư tuyến giáp (UTTG)
biệt hóa chiếm 90% UTTG thường có tiên lượng tốt do
khả năng bắt giữ i-ốt. Nhờ tiến bộ trong chẩn đoán
và điều trị, đặc biệt là do áp dụng phẫu thuật thích
hợp tùy thuộc vào giai đoạn bệnh, điều trị bằng 131I và
hormon thay thế sau phẫu thuật cắt toàn bộ nên tỉ lệ
sống thêm 5 năm do UTTG tại Mỹ đã tăng từ 80% vào
1950-1954 lên 96% vào 1992-1999. Tuy nhiên UTTG
có tỉ lệ tái phát và di căn xa sau điều trị khá cao (17,8%
và 7,5%). Sau phẫu thuật cắt toàn bộ và điều trị xóa
mô giáp còn lại bằng 131I, BN UTTG biệt hóa được theo
dõi bằng hai xét nghiệm chính là nồng độ thyroglobulin
(Tg) huyết thanh và chụp xạ hình toàn thân (XHTT) với
131I để phát hiện tái phát, di căn. Khoảng 15-20% BN
UTTG có nồng độ Tg huyết thanh cao nhưng XHTT
với 131I âm tính. Các BN này thường không đáp ứng
với điều trị 131I, tiên lượng xấu hơn XHTT dương tính,
cần xác định vị trí hoặc di căn để điều trị tiếp theo. Do
XHTT với 131I không phát hiện được vị trí tổn thương
tái phát/di căn nên cần sự trợ giúp của các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) khác. Nhiều nghiên
cứu cho thấy vai trò chẩn đoán và tiên lượng của PET/
CT ở UTTG biệt hóa có nồng độ Tg huyết thanh cao và
XHTT với 131I âm tính. Khoa Y học hạt nhân (YHHN),
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã điều trị, theo
dõi hàng ngàn BN UTTG biệt hóa và nhận thấy việc
xử trí các BN UTTG biệt hóa có nồng độ thyroglobulin
huyết thanh cao, XHTT với 131I âm tính vẫn là một vấn
đề khó khăn. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu với
mục tiêu “So sánh giá trị chẩn đoán của PET/CT và
CT trong phát hiện tổn thương tái phát/di căn ở BN UT
tuyến giáp biệt hóa có thyroglobulin huyết thanh cao
và xạ hình toàn thân với 131I âm tính”.
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
49 BN UTTG biệt hóa điều trị và theo dõi tại khoa
YHHN, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Thời gian: 4/2011 - 4/2012.
Tiêu chuẩn chọn BN
UTTG biệt hóa đã cắt toàn bộ và điều trị xóa mô
giáp còn lại bằng 131I.
Nồng độ Tg huyết thanh khi đã ngừng sử dụng
hormon tuyến giáp xét nghiệm 2 lần cách nhau 3 ngày
> 2 ng/ml (theo hướng dẫn của mạng lưới UT toàn diện
Quốc gia Mỹ 2012).
Nồng độ kháng thể kháng Tg (A-Tg) ≤ 115 IU/ml.
XHTT với 131I âm tính.
Không có thai và bệnh lý nặng kết hợp.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang, theo dõi
dọc, hồi cứu kết hợp tiến cứu.
Các bước tiến hành
Chẩn đoán xác định UTTG thể biệt hóa bằng
GPB.
Khai thác tiền sử bệnh, hồ sơ, khám lâm sàng,
theo dõi định kỳ.
Chẩn đoán giai đoạn theo Liên ủy ban UT Mỹ năm
2010 (AJCC 7).
Đo nồng độ Tg huyết thanh trên máy Elecsys
của hãng Roche theo phương pháp kẹp (sandwich)
dựa trên phản ứng miễn dịch điện hóa phát quang
(electrochemiluminescence immunoassay) tại khoa
Sinh hóa.
Chụp XHTT với 131I: 2 ngày sau uống 5 mCi 131I
và đang ngừng hocmon tuyến giáp để đạt TSH > 30
ml/l. Chụp XHTT tư thế trước và sau thực hiện trên
máy gamma camera Millennium MG - GE, Mỹ. Sử dụng
trường nhìn rộng, collimator phẳng, năng lượng cao,
cửa sổ năng lượng 20% quanh mức đỉnh 364 keV, tốc
độ bàn 1mét/15 phút + Chụp CT cổ-ngực có tiêm cản
quang, máy CT Brilliance 6 – Phillips.
Chụp 18FDG PET/CT khi XHTT với 131I âm tính,
BN đang ngừng hormon tuyến giáp. Nhịn ăn 6 giờ,
đo nồng độ glucose huyết thanh trước tiêm 18FDG.
Nồng độ glucosse huyết thanh không vượt quá 200
mg/dL (11,1 mmol/l). Tiêm tĩnh mạch 18FDG với liều
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 263
nghiên CỨU KHoa HỌC
iii. KẾt QUẢ nghiÊn CỨU
Bảng 1. Tuổi và giới của bệnh nhân nghiên cứu
Chung (1)
(n = 49)
nam (2)
(n = 10)
nữ (3)
(n = 39)
P (2,3)
Tuổi trung bình (17-
74) 43,1 ± 12,8 46,3,7 ± 15,6 42,2 ± 12,1 >0,05
Nhóm tuổi
<45 28 (57,1%) 5 (50%) 23 (17,4%)
>0,05
≥45 21 (42,9%) 5 (50%) 16 (37,4%)
Tuổi trung bình của BN là 43,1, nhóm < 45 và ≥45 tương ứng 57,1% và 42,9%. BN nữ chiếm 79,6% gấp 4 lần
so với nam (20,4%). Chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới.
0,14-0,2 mCi/kg, sau tiêm BN nằm nghỉ ngơi, sau 60
phút chụp CT liều thấp: 130 kV, 80-120 mAs, 2,5 mm/
lát cắt, pitch 1,6. Trường chụp từ nền sọ đến giữa đùi.
Chụp PET toàn thân với tốc độ 2,5 phút một giường,
mỗi BN 5-6 giường và chụp thêm protocol chuyên biệt
cho vùng đầu-cổ. Hình CT được tái tạo theo phương
thức filtered back projection. Hình PET được tái tạo lặp
(iterative reconstruction) 3D và hiệu chỉnh sự suy giảm
(attenuation correction) bằng hình CT, sau đó tích hợp
(fusion) với hình CT. Hình PET/CT được trình bày và
phân tích trên phần mềm chuyên dụng Volumetrix PET-
CT trên trạm xử lý Xeleris 2.15 gồm hình CT, PET và
hình trộn giữa PET và CT trên các bình diện ngang,
đứng dọc và đứng ngang cũng như hình 3D động
(maximum-intensity-projection images).
Các tiêu chuẩn đánh giá
Nồng độ Tg huyết thanh cao khi > 2 ng/ml và được
kích thích bằng TSH (ngừng thyroxin) và nồng độ kháng
thể kháng Tg ≤ 115 IU/ml.
XHTT với 131I âm tính: không phát hiện hình ảnh
bắt giữ i-ốt phóng xạ bất thường và đã loại trừ được
các hình dương tính giả.
Phân tích hình 18FDG PET/CT: tiêu chuẩn xác định
kết quả PET/CT dương tính là sự xuất hiện tăng bắt
giữ 18FDG khu trú được xác định bằng giá trị hấp thu
chuẩn hóa (SUV - standardised uptake value) ≥ 3 g/ml
và/hoặc hạch trên CT có kích thước ≥ 10 mm.
Tiêu chuẩn hạch nghi ngờ di căn trên CT: đường
kính trục ngắn của hạch ≥ 10 mm.
Kết quả 18FDG PET/CT được đối chiếu với các
thông tin thu được trong quá trình theo dõi BN bao
gồm kết quả mô bệnh học bệnh phẩm phẫu thuật (tiêu
chuẩn vàng), các kết quả chẩn đoán hình ảnh (CĐHA)
như siêu âm cổ, CT, MRI, diễn biến nồng độ Tg huyết
thanh.
Thời gian theo dõi BN ít nhất trong 12 tháng. Nếu
nồng độ Tg có xu hướng tăng lên trong quá trình theo
dõi, được coi là còn tổn thương tái phát/di căn. Nếu
nồng độ Tg có xu hướng giảm dần và trở về < 10 ng/
ml trong quá theo dõi, sự tăng nồng độ Tg được coi là
dương tính giả.
Căn cứ vào kết quả GPBL sau phẫu thuật và xu
hướng Tg trong quá trình theo dõi BN, xác định BN
UTTG có tái phát-di căn khi có một trong hai tiêu chuẩn
sau: kết quả GPBL sau phẫu thuật xác nhận UTTG;
nồng độ Tg huyết có xu hướng tăng lên trong quá trình
theo dõi.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm SPSS 18.0.
Giá trị chẩn đoán của PET/CT và CTdựa vào bảng
2x2.
So sánh giá trị chẩn đoán của CT và PET/CT
căn cứ vào diện tích dưới đường cong ROC (receiver
operating characteristic).
Xác định ngưỡng SUV có giá trị chẩn đoán UTTG
tái phát/di căn tốt nhất dựa vào phân tích đường cong
ROC.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012264
nghiên CỨU KHoa HỌC
Bảng 2. Thể mô bệnh học
và chẩn đoán giai đoạn TNM
n %
Thể mô
bệnh học
Nhú 42 85,7
Nhú-nang 3 6,1
Nang 4 8,2
Giai đoạn
bệnh theo
TNM
I 26 54,2
II 5 10,4
III 2 4,2
IV 15 31,2
UTTG thể nhú chiếm đa số (85,7%), thể nang
và nhú-nang chiếm tỉ lệ thấp (8,2% và 6,1%). UTTG
giai đoạn I và giai đoạn IV chiếm tỉ lệ lớn (54,2% và
31,2%).
Bảng 3. Số lần điều trị, tổng liều 131I điều trị và giá
trị Tg, A-Tg trước chụp PET/CT
Min Max trung bình
± Sd
Số lần điều trị 131I 2 9 3,1 ± 1,3
Tổng liều 131I điều
trị (mCi)
100 1400 418,8 ± 232,3
Tg (ng/ml) 11,4 1000 185,4 ± 245,7
A-Tg (IU/ml) 10 66,5 19,9 ± 11,5
Số lần điều trị và tổng liều điều trị 131I trung bình
của BN là 3,1 lần và 418,8 mCi. Nồng độ Tg huyết
thanh trước chụp PET/CT dao động rất lớn (11,4-1000
ng/ml), giá trị trung bình là 185,4 ng/ml. Nồng độ A-Tg
của tất cả các BN đều < 115 IU/ml.
Bảng 4. Đặc điểm tổn thương trên CT và PET/CT
ct Pet/Ct
Số BN phát hiện tổn thương 18
(36,7%)
29
(59,2%)
Số lượng tổn thương phát hiện 20 41
Kích thước tổn
thương (mm)
Min 10 5
Max 25 25
Trung bình 13,5 ± 4,6 10,2 ± 4,7
ct Pet/Ct
SUV (g/ml) Min 3,0
Max 17,6
Trung bình 6,7 ± 3,6
PET/CT phát hiện được 41 tổn thương ở 29
BN (59,2%) nhiều hơn CT (20 tổn thương ở 18 BN,
36,7%). Tổn thương nhỏ nhất trên PET/CT có kích
thước 5 mm, trong khi CT có kích thước 10 mm. Trung
bình tổn thương trên PET/CT là 10,2 mm, trên CT
(13,5 mm). Giá trị SUV trung bình của tổn thương trên
PET/CT là 6,7.
Âm
tính
Giườn
g
tuyến
giáp
Hạch
cổ
Phổi
31
13
4 1
20 19
9
1
0
50
PET/CT
CT
Biểu đồ 1. Vị trí tổn thương phát hiện
trên PET/CT và CT
PET/CT phát hiện được nhiều tổn thương ở
giường tuyến giáp và hạch cổ hơn so với CT. Chỉ phát
hiện được 1 tổn thương phổi trên cả CT và PET/CT.
83.9
83.3
83.7
89.7
75
51.6
88.9
65.3
88.9
51.6
0 20 40 60 80 100
Độ nhạy
Độ đặc hiệu
Độ chính xác
Giá trị dự đoán dương
Giá trị dự đoán âm
CT
PET/CT
Biểu đồ 2. Giá trị chẩn đoán UTTG tái phát/di căn
của CT và PET/CT
PET/CT có Sn 83,9%, Ac 83,7%, NPV 75% cao
hơn rõ rệt so với CT (các giá trị tương ứng 51,6%;
65,3% và 51,6%). Sp và PPV của PET/CT và CT tương
đương nhau.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 265
nghiên CỨU KHoa HỌC
1
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100-Specificity
Se
ns
itiv
ity
CT CỔ-NGỰC
PET
hình 1. So sánh đường cong ROC của PET/CT và CT
trong chẩn đoán UT tuyến giáp tái phát/di căn
Diện tích dưới đường cong ROC của PET/CT
(0,836) lớn hơn của CT (0,703) có ý nghĩa thống kê với
p < 0,01. PET/CT có giá trị tốt hơn CT trong chẩn đoán
UTTG tái phát/di căn.
SUVMAX
1
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100-Specificity
Se
ns
itiv
ity
hình 2. Đường cong ROC của giá trị SUV của tổn
thương trên PET/CT trong chẩn đoán UT tuyến giáp
tái phát/di căn
Diện tích dưới đường cong ROC của giá trị SUV
của tổn thương trên PET/CT là 0,827 khác biệt có
ý nghĩa thống kê với 0,5 (p < 0,01), SUV là một tiêu
chuẩn đáng tin cậy trong chẩn đoán UTTG tái phát/di
căn. Dựa vào phân tích đường cong ROC này chúng tôi
nhận thấy ngưỡng SUV tốt nhất cho chẩn đoán UTTG
tái phát di căn là 4,5 (Sn 84,6%; Sp 66,7%) và 5 (Sn và
Sp là 65,3% và 100%).
Kích thước tổn thương trên PETCT
1
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100-Specificity
Se
ns
itiv
ity
hình 3. Đường cong ROC của kích thước tổn thương trên
PET/CT trong chẩn đoán UT tuyến giáp tái phát/di căn
Diện tích dưới đường cong ROC của kích thước tổn
thương trên PET/CT là 0,641 khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với 0,5 (p > 0,5), điều đó cho thấy kích thước
tổn thương trên PET/CT không phải là một tiêu chuẩn
đáng tin cậy trong chẩn đoán UTTG tái phát/di căn.
Bảng 6. Thay đổi chiến thuật điều trị sau chụp PET/CT
n %
Phẫu thuật 23 46,9
Xạ trị ngoài 2 4,2
Tiếp tục điều trị 131I 17 34,7
Theo dõi sát 7 14,2
PET/CT đã làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 25
BN trên tổng số 49 (51,1%) trong đó 23 được phẫu
thuật và 2 chuyển điều trị xạ trị ngoài.
iV. Bàn LUận
Nồng độ Tg huyết thanh và XHTT với i-ốt phóng xạ
là hai xét nghiệm chủ yếu có vai trò rất quan trọng trong
theo dõi các BN UTTG thể biệt hóa sau phẫu thuật.
Nồng độ Tg huyết thanh cao là một dấu hiệu chỉ điểm có
Sn cao cho khối u còn tồn dư sau phẫu thuật hoặc bệnh
tái phát. XHTT với i-ốt phóng xạ cho phép xác định vị trí
tái phát hoặc di căn xa, giúp cho việc quyết định điều trị
tiếp theo. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy có 15 -
20% BN UTTG biệt hóa có nồng độ Tg huyết thanh cao
nhưng XHTT với i-ốt phóng xạ âm tính. Các BN này có
tiên lượng xấu hơn UTTG còn khả năng bắt giữ i-ốt vì
các tế bào UT thường mất dần tính biệt hóa, phát triển
AUC CT cổ-ngực 0,703
AUC PET/CT 0,836
p = 0,0087
AUC = 0,641
p = 0,23
AUC = 0,827
p = 0,001
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012266
nghiên CỨU KHoa HỌC
xâm lấn, di căn nhanh hơn và ít đáp ứng với điều trị 131I.
UTTG thể biệt hóa thường không tăng bắt giữ 18FDG
như một số loại UT khác. Người ta nhận thấy có tương
quan nghịch giữa khả năng bắt giữ 18FDG và khả năng
bắt giữ i-ốt của tế bào UTTG (hiện tượng flip-flop). Khi tế
bào UTTG còn biệt hóa, khả năng bắt giữ i-ốt tốt nhưng
bắt giữ 18FDG kém. Ngược lại khi tế bào UTTG trở nên
kém hoặc không biệt hóa thì sẽ giảm hoặc mất khả năng
bắt giữ i-ốt nhưng tăng khả năng bắt giữ 18FDG. Có thể
giải thích hiện tượng này do tế bào UTTG biệt hóa phát
triển chậm không có nhu cầu tiêu thụ glucose hơn các
tế bào tuyến giáp bình thường (do đó không tăng bắt giữ
18FDG) và vẫn duy trì được ái tính với i-ốt như tế bào
tuyến giáp bình thường. Khi UTTG trở nên kém biệt hóa
sẽ phát triển nhanh hơn, nhu cầu tiêu thụ glucose tăng
và do đó sẽ tăng bắt giữ 18FDG đồng thời mất dần ái tính
với i-ốt nhưng vẫn còn chức năng bài tiết Tg.
Về cơ chế sinh lý, việc bắt giữ i-ốt ở tế bào tuyến
giáp là một quá trình vận chuyển tích cực đi ngược
gradient nồng độ được thực hiện nhờ hệ thống bơm
đồng vận chuyển natri-i-ốt (sodium-iodine symporter-
NIS) ở màng nền tế bào biểu mô tuyến giáp. Hệ thống
bơm này cần năng lượng ATP và có thể tập trung i-ốt
trong tế bào tuyến giáp với nồng độ cao gấp 20-40 lần
nồng độ trong máu. Trong khi đó tăng bắt giữ 18FDG
ở tế bào UT là do tăng mật độ các protein vận chuyển
glucose (glucose transporter-GLUT) ở màng tế bào đặc
biệt là GLUT1. Một số nghiên cứu đã cho thấy ở UTTG
thể biệt hóa hệ thống NIS chiếm ưu thế so với hệ thống
GLUT trên màng tế bào. Khi UTTG kém hoặc không biệt
hóa hệ thống NIS bị suy giảm trong khi hệ thống GLUT
tăng cường bộc lộ trên màng tế bào. Do đó khi kết quả
XHTT với i-ốt phóng xạ dương tính thì kết quả chụp
18FDG PET thường âm tính và ngược lại.Theo hướng
dẫn của Hội tuyến giáp Mỹ năm 2009, có thể cân nhắc
điều trị liều 131I theo kinh nghiệm đối với các BN UTTG
biệt hóa có nồng độ Tg dương tính và xạ hình âm tính
(khuyến cáo mức C). Nghiên cứu của Pineda JD, Pacini
F và cs nhận thấy nồng độ Tg huyết thanh giảm sau
điều trị liều 131I theo kinh nghiệm. Tuy nhiên Fatourechi
V, Pacini F, Kim WG và cs cho rằng điều trị liều 131I theo
kinh nghiệm không làm cải thiện thời gian sống thêm ở
BN UTTG thể biệt hóa có nồng độ Tg huyết thanh cao
và XHTT âm tính. Cạnh đó, việc điều trị 131I có thể làm
BN nhận thêm liều phóng xạ không cần thiết. Do đó, đối
với các BN này cần xác định vị trí khối u để quyết định
phương pháp điều trị phù hợp (phẫu thuật hoặc xạ trị
ngoài). Tuy nhiên các biện pháp CĐHA (siêu âm, CT,
MRI) thường có Sn và Sp không cao trong phát hiện
tổn thương tái phát/di căn do giải phẫu ở các BN UTTG
thường bị thay đổi sau phẫu thuật. Nhiều nghiên cứu
đã chứng minh giá trị của 18FDG PET và PET/CT trong
xác định vị trí bệnh tái phát hoặc di căn. Schlutter B và
cs ở 64 BN UTTG có nồng độ Tg huyết thanh tăng, xạ
hình âm tính được chụp 18FDG PET cho thấy 44 BN có
kết quả 18FDG PET dương tính trong đó 34 BN được
chứng minh là dương tính thật, từ đó dẫn tới thay đổi
chiến thuật điều trị ở 19/34 BN. 20 BN có kết quả 18FDG
PET âm tính, PPV của 18FDG PET là 83% nhưng NPV
chỉ là 25%. Wang và cs tiến hành chụp 18FDG PET ở
37 BN có xạ hình toàn thân với 131I âm tính và nhận
thấy 18FDG PET phát hiện tổn thương ở 71% BN với
PPV 92% ở các BN có nồng độ Tg huyết thanh cao và
NPV 93% ở các BN có nồng độ Tg huyết thanh thấp
hơn. 18FDG PET cũng làm thay đổi chiến thuật điều trị
ở 19/37 BN. Nghiên cứu của Chung và cs ở 54 BN có
XHTT với 131I âm tính được chụp 18FDG PET sau khi
ngừng thyroxin cho thấy 18FDG PET có Sn 93,9% và
Sp 95,2%. Tác giả nhận thấy 18FDG PET phát hiện di
căn hạch cổ rất cao (87,9%), di căn phổi, trung thất và
xương thấp hơn (27,3%, 33,3% và 9,1%). Helal BO và
cs ở 37 BN UTTG biệt hóa có XHTT âm tính, nồng độ
Tg dương tính. Trong nhóm 10 BN đã được xác định
có di căn bằng CĐHA thông thường, 18FDG PET xác
nhận khối u ở 17/18 vị trí di căn và phát hiện thêm khối
u ở 11 vị trí nữa. Ở nhóm thứ hai gồm 27 BN không
phát hiện di căn trên CĐHA thông thường, 18FDG PET
dương tính ở 19/27 BN, từ đó dẫn đến thay đổi phương
pháp điều trị ở 29/37 BN, trong đó 23 BN được phẫu
thuật, 14 khỏi bệnh. Nhiều nghiên cứu đã nêu vai trò
của PET/CT trong cải thiện độ chính xác so với PET
đơn thuần. Palmedo H và cs ở 40 BN UTTG có xét
nghiệm Tg dương tính và XHTT âm tính cho thấy Ac
của 18FDG PET/CT là 93% cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với PET là 78%. PET/CT cung cấp những thông
tin hữu ích hơn về vị trí tổn thương so với PET hoặc CT
riêng lẻ. PET/CT đã làm thay đổi phương pháp điều trị ở
48% BN. Shammas S và cs ở 61 BN UTTG có Tg huyết
thanh tăng trong đó 59 BN có kết quả XHTT âm tính,
Sn, Sp và Ac của 18FDG PET/CT tương ứng là 68,4%,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 267
nghiên CỨU KHoa HỌC
82,4% và 73,8%. PET/CT đã làm thay đổi phương pháp
điều trị ở 44% số BN, bao gồm phẫu thuật, xạ trị ngoài
và điều trị hóa chất.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 29/49 (59,2%) BN
có kết quả PET/CT dương tính, trong khi chỉ có 18/49
BN (36,7%) có kết quả CT dương tính. PET/CT phát
hiện được 41 tổn thương ở 29 BN (59,2%) nhiều hơn
rõ rệt so với CT (20 tổn thương ở 18 BN (36,7%). Tổn
thương nhỏ nhất phát hiện được trên PET/CT có kích
thước 5 mm, trong khi trên CT 10 mm. Kích thước trung
bình tổn thương trên PET/CT là 10,2 mm, trên CT 13,5
mm. Điều này cho thấy ưu thế của PET/CT trong việc
phát hiện tổn thương tái phát/di căn ở các BN UTTG biệt
hóa có Tg cao và XHTT với 131I âm tính so với CT, do
PET/CT kết hợp được hai khả năng chẩn đoán chuyển
hóa của PET và CĐHA của CT. Tiêu chuẩn để xác định
hạch cổ nghi di căn trên CT là đường kính trục ngắn của
hạch ≥ 1 cm. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy 11/29 BN
kết quả PET/CT dương tính có kích thước tổn thương
< 10 mm, trong đó 9 BN có UTTG tái phát/di căn. Do
đó, nếu sử dụng tiêu chuẩn này của CT sẽ có nguy
cơ bỏ sót tổn thương. PET/CT phát hiện được nhiều
tổn thương ở cả giường tuyến giáp (19 tổn thương) và
hạch cổ (9 tổn thương) hơn so với CT (tương ứng 13 và
4 tổn thương). Tuy nhiên cả PET/CT và CT chỉ phát hiện
được một tổn thương phổi. Hung MC và cs thấy 20 BN
có xạ hình âm tính, nồng độ Tg dương tính được chụp
18FDG PET, phát hiện tổn thương ở 17/20 BN nhưng
18FDG PET không phát hiện được các tổn thương di
căn phổi kích thước nhỏ đã được xác định trước đó ở
hai BN. Tác giả gợi ý nên sử dụng CT lồng ngực hoặc
PET/CT trong các trường hợp đó. Chúng tôi trong 23
BN PET/CT dương tính được phẫu thuật chỉ phát hiện
UTTG ở 19 BN, 4 BN không phát hiện UTTG trên GPB
sau phẫu thuật. Một BN có kết quả PET/CT âm tính
được phát hiện di căn hạch cổ 6 tháng sau chụp PET/
CT. Điều đó cho thấy PET/CT có thể có dương tính giả
(tổn thương viêm) hoặc âm tính giả (tổn thương vi di
căn dưới ngưỡng phân giải của PET). Vì vậy, phân tích
kết quả PET/CT cần kết hợp với những thông tin khác
như Tg huyết thanh, siêu âm cổ với các BN có kết quả
PET/CT âm tính. So sánh giá trị chẩn đoán của PET/
CT và CT, chúng tôi nhận thấy PET/CT có Sn 83,9%,
Ac 83,7%, NPV 75% cao hơn rõ rệt so với CT (các giá
trị tương ứng 51,6%; 65,3% và 51,6%). Sp và PPV
của PET/CT (83,3% và 89,7%) tương đương với của
CT (cùng 88,9%). So sánh diện tích dưới đường cong
ROC cũng cho thấy PET/CT có giá trị cao hơn CT trong
chẩn đoán UTTG tái phát/di căn có ý nghĩa thống kê
(p < 0,01). Tuy nhiên, nhược điểm của PET/CT là chi
phí đắt và chỉ có ở ít cơ sở. Qua phân tích đường cong
ROC của PET/CT, chúng tôi nhận thấy SUV là một tiêu
chuẩn đáng tin cậy nhưng kích thước tổn thương trên
PET/CT không đáng tin cậy trong chẩn đoán UTTG tái
phát/di căn, do SUV là giá trị đại diện cho chuyển hóa
của tế bào nên sẽ phản ánh trung thực bản chất của
tổn thương, còn kích thước tổn thương trên PET/CT
thường khó được đánh giá chính xác do hiện tượng tán
xạ của hình PET. Chúng tôi xác định ngưỡng SUV cho
giá trị chẩn đoán tốt nhất là 4,5 (Sn 84,6%; Sp 66,7%)
và 5 (Sn và Sp là 65,3% và 100%). Căn cứ vào ngưỡng
SUV này có thể quyết định phương pháp điều trị thích
hợp. Chúng tôi có 29 BN kết quả PET/CT dương tính,
23 được phẫu thuật và 2 xạ trị ngoài, đã thay đổi chiến
thuật điều trị ở 25/49 BN (51,1%). Cụ thể như sau: nếu
PET/CT phát hiện tổn thương UTTG tái phát-di căn có
khả năng phẫu thuật cắt bỏ được, sẽ hội chẩn để tiến
hành, nếu không sẽ xạ trị ngoài hoặc điều trị 131I. Không
phát hiện tái phát-di căn sẽ theo dõi lâm sàng, Tg huyết
thanh, siêu âm cổ định kỳ mỗi 3-6 tháng và cân nhắc
khả năng tiếp tục điều trị 131I.
V. KẾt LUận
Qua 49 BN UTTG biệt hóa sau phẫu thuật cắt giáp
toàn bộ và điều trị 131I có nồng độ Tg huyết thanh cao và
XHTT với 131I âm tính được chụp PET/CT và CT chẩn
đoán tổn thương tái phát/di căn chúng tôi rút ra một số
kết luận: PET/CT phát hiện được 41 tổn thương ở 29 BN
(59,2%) so với CT (20 tổn thương ở 18 BN, 36,7%).
PET/CT có Sn 83,9%, Ac 83,7%, NPV 75% trong
chẩn đoán UTTG biệt hóa tái phát/di căn cao hơn so với
CT (các giá trị tương ứng 51,6%; 65,3% và 51,6%). Sp
và PPV của PET/CT là 83,3% và 89,7% tương đương
với của CT (88,9%). Căn cứ vào so sánh diện tích dưới
đường cong ROC, PET/CT có giá trị chẩn đoán UTTG
biệt hóa tái phát/di căn tốt hơn CT có ý nghĩa thống kê
(p < 0,01).
PET/CT thay đổi chiến thuật điều trị ở 25/49 BN
(51,2%), 23 phẫu thuật và 2 BN xạ trị.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012268
nghiên CỨU KHoa HỌC
TÓM TẮT
Khoảng 20 - 30% bệnh nhân (BN) UT tuyến giáp (UTTG) biệt hóa sau phẫu thuật và điều trị 131I có tái phát và
di căn, không phát hiện được trên xạ hình toàn thân với 131I. Mục đích của nghiên cứu so sánh giá trị của FDG PET/CT
và CT trong chẩn đoán tái phát và di căn ở những BN này.
Đối tượng và phương pháp: 49 BN UT tuyến giáp (UTTG) biệt hóa có thyroglobulin huyết thanh cao và xạ
hình toàn thân (XHTT) với 131I âm tính được chụp PET/CT và CT để phát hiện tổn thương tái phát/di căn.
Kết quả: PET/CT phát hiện được 41 tổn thương ở 29 BN (59,2%) so với 20 tổn thương ở 18 BN (36,7%) trên
CT. FDG PET/CT có độ nhạy (Sn) 83,9%, độ chính xác (Ac) 83,7%, giá trị dự đoán âm (NPV) 75% cao hơn so với
các giá trị tương ứng trên CT là 51,6%; 65,3%; 51,6%. Độ đặc hiệu (Sp) và giá trị dự đoán dương tính (PPV) của
PET/CT (83,3% và 89,7%) tương đương với của CT. So sánh diện tích dưới đường cong ROC, FDG PET/CT có giá
trị chẩn đoán tái phát/di căn ở BN UTTG biệt hóa tốt hơn rõ rệt so với CT (p<0,01). Hai ngưỡng định lượng bằng
SUV có giá trị cao chẩn đoán tổn thương tái phát/di căn là SUV max = 4,5 với SN 84,6%, Sp 66,7% và SUV = 5 có
Sn 65,3%; Sp 100%. FDG PET/CT giúp làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 25/49 BN (51,2%).
Kết luận: FDG-PET/CT có giá trị vượt trội so với CT trong phát hiện tổn thương tái phát/di căn ở BN UTTG biệt
hóa có thyroglobulin huyết thanh cao và XHTT với 131I âm tính.
Từ khóa: FDG - PET/CT, CT, UT tuyến giáp biệt hóa.
NGƯỜI THẩM ĐỊNH: PGS.TS. Mai Trọng Khoa
1. Lê Ngọc Hà và cs (2010), Nghiên cứu đặc điểm
hình ảnh 18F-FDG PET/CT ở BN UT tuyến giáp biệt hóa
có nồng độ thyroglobulin huyết thanh cao và xạ hình
toàn thân 131I âm tính, Tạp chí Y dược lâm sàng 108,
tập 6, tr 46-53.
2. Lê Duy Hưng và cs (2009), Nghiên cứu một
số đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị
bằng 131I ở BN di căn do UT tuyến giáp thể biệt hóa
sau phẫu thuật, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, tập
4, tr 93-99.
3. Altenvoerde G et al (1998), Positron emission
tomography with F-18-deoxy glucose in patients with
differentiated thyroid carcinoma, elevated thyroglobin
levels, and negative iodine scans, Langenbecks Arch
Surg, 383, pp 160-3.
4. Atkins FB, Van Nostrand D (2006), Radioiodine
Whole Body Imaging, Thyroid Cancer a comprehensive
guide to clinical management, Second edition, Humana
Press, pp 133-50.
5. Baudin E et al (2003), Positive predictive value of
serum thyroglobulin levels, mesured during the first year
of follow-up after thyroid hormon withdrawal, in thyroid
cancer patients, J Clin Endocrinol Metab, 88, pp 1107-11.
6. Chung JK et al (1999), Value of FDG PET
in papillary thyroid carcinoma with negative 131I
Whole-Bogy Scan, J Nucl Med, 40, pp 986-92.
7. David SC et al (2009), Revised American Thyroid
Association Management Guidelines for Patients with
Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer,
Thyroid, 19(11), pp 1167-214.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_cua_fdg_petct_va_ct_o_benh_nhan_ung_thu_tuyen_giap_b.pdf