Các bệnh nhân đều có nguyên nhân đau ở tầng
trên đại tràng ngang, điều này phù hợp với chỉ định phổ
biến được mô tả trong y văn là ung thư gan, tụy, dạ
dày và viêm tụy mạn [4]. Hình ảnh CLVT, cộng hưởng
từ cho thấy không có di căn cột sống, chèn ép rễ thần
kinh. Đây là một yếu tố cần thiết phải đánh giá được
trước khi can thiệp. Nếu nguyên nhân đau là do chèn
ép rễ, phá hủy thân đốt sống thì thủ thuật diệt hạch
sẽ không mang lại kết quả. Cũng vậy, trong trường hợp
nguyên nhân đau nằm ở thấp, ví dụ u buồng trứng, di
căn sau phúc mạc thì vị trí cần diệt hạch không phải
là đám rối tạng.
Kĩ thuật định vị: phương pháp phổ biến nhất được
các tác giả sử dụng để định vị kim khi tiến hành kĩ thuật
là chụp cắt lớp vi tính. Ưu điểm của phương pháp này là
chính xác, đánh giá được hình thái lan rộng của thuốc,
phát hiện các biến chứng sớm ngay trong thủ thuật như
chảy máu, vỡ tạng, thuốc lan không đúng khoang giải
phẫu. Phương pháp cũng có những nhược điểm: độc
hại do bức xạ, không đánh giá được rò thuốc mức độ
nhỏ, đường kim đi tối ưu trên hình ảnh CLVT có thể
vướng xương khi thực hiện chọc trên thực tế. Tuy nhiên
với độ chính xác, dễ làm và sự phổ biến của máy chụp
cắt lớp vi tính ở các tuyến tỉnh, thậm chí huyện, phương
pháp định vị dưới CLVT vẫn là lựa chọn hàng đầu ở
Việt Nam cũng như nhiều trường phái trên thế giới.
Trong khi làm thủ thuật cần lưu ý một số chi tiết kĩ
thuật để giảm liều chiếu cho bệnh nhân: giảm cường độ
tia ở mức thấp nhất, chỉ chụp kiểu từng lớp với độ dày
lớp cắt lớn với số lớp cắt rất hạn chế, thường là 3 lớp.
Thực tế chúng tôi chụp ở mức mA thấp nhất nhưng vẫn
nhìn rất rõ kim và các cấu trúc đích như gốc động mạch
thân tạng, động mạch chủ, trụ cơ hoành và tất cả các
cấu trúc liên quan như gan, thận, tuyến thượng thận, tổ
chức mỡ sau phúc mạc.
Các phương pháp định vị khác như siêu âm, siêu
âm nội soi, chụp cộng hưởng từ cũng được sử dụng
nhưng khó làm hơn và có thể có các biến chứng do
không kiểm soát được mức độ lan của thuốc diệt hạch
[5]. Phương pháp định vị bằng chiếu Xquang đơn
thuần không còn được sử dụng nữa vì không quan
sát được chính xác vị trí động mạch thân tạng và động
mạch chủ.
Loại kim, đường chọc: phải dùng loại kim nhỏ
(25G), để đi từ đường sau chiều dài kim phải >20cm.
Trong điều kiện thiếu kim có thể dùng kim chọc tủy sống
25G nhưng loại này ngắn nên bắt buộc phải đi đường
trước và bụng bệnh nhân nhỏ. Một bệnh nhân trong
nhóm này được thực hiện bằng kim chọc tủy B.Braun
25G cho kết quả tốt vì bệnh nhân rất gầy và chọc từ
đường trước. Với kích thước kim 25G, các tác giả như
Kambadakone [4], Yamamuro [6] có thể xuyên kim
qua động mạch chủ mà không gặp biến chứng chảy
máu lớn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của phương pháp tiêm diệt hạch đám rối tạng bằng cồn tuyệt đối dưới cắt lớp vi tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 155
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMAry
Objective: By 3 cases of celiac plexus neurolysis with
absolute alcohol injected percutaneously under the CT guidance
this article is aimed to discuss about the technic, indications and
also to evaluate the short-term efficacy of this procedure,.
Results: The pain relief was always obtained during the
procedure without any grave complication. This old technique
performed for the first time in our institution with a good short-term
result made a new hope for patient with intense abdominal pain
due to cancer or chronic pancreatitis.
Conclusion: This technique was found to be safe and
effective in treating the abdominal pain due to cancer or chronic
pancreatitis.
Key words: celiac plexus neurolysis, alcoholization, CT
guidance, palliative care.
GIÁ TRỊ CỦA PHƯƠNG PHÁP TIÊM
DIỆT HẠCH ĐÁM RỐI TẠNG BẰNG CỒN
TUYỆT ĐỐI DƯỚI CẮT LỚP VI TÍNH
Evaluation the celiac plexus neurolysis with absolute
alcohol injected percutaneously under CT guidance
Bùi Văn Giang*, Nguyễn Trần Cảnh*, Trần Văn Phúc*
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Xanh Pôn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013156
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị giảm đau, đặc biệt trong đau bụng là một
nhu cầu thường gặp trong chăm sóc giảm nhẹ các
bệnh lí như ung thư tầng trên đại tràng ngang, viêm tụy
mãn. Khi các phương pháp giảm đau khác không còn
tác dụng (dùng thuốc uống, tiêm), phương pháp diệt
hạch đám rối dương (còn được gọi là đám rối tạng) đã
được các tác giả chứng minh là phương pháp hiệu quả,
mang tính nhân đạo cho các trường hợp ung thư giai
đoạn cuối và là phương pháp hữu hiệu để giảm đau và
nâng cao chất lượng cuộc sống trong viêm tụy mãn.
Kĩ thuật diệt hạch đám rối dương qua da dưới
hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính chưa được áp dụng
ở Việt Nam. Nhân ba trường hợp đầu tiên được thực
hiện trong tháng 4-5/2013, bài báo này được trình bày
với mục tiêu:
- Nhận xét đặc điểm kĩ thuật diệt hạch đám rối tạng
qua da bằng cồn tuyệt đối dưới hướng dẫn của cắt lớp
vi tính.
- Đánh giá kết quả bước đầu của phương pháp.
II. TỔNG QUAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Vài nét tổng quan
Đám rối tạng (celiac plexus) hay còn được gọi là
đám rối dương (solar plexus) được tạo bởi các hạch
thần kinh vây quanh động mạch thân tạng và mạc treo
tràng trên rồi chia thành các nhánh tỏa ra chi phối cho
các tạng: gan, lách, thận, tụy
Ở giai đoạn cuối của các ung thư tầng trên đại
tràng ngang như ung thư dạ dày, gan, tụy, lách, đại
tràng hoặc trong bệnh cảnh viêm tụy mãn, tình trạng
đau bụng làm giảm chất lượng sống của người bệnh,
đôi khi ở mức độ không thể chịu đựng được. Khi các
bậc thang giảm đau bằng thuốc uống, tiêm đã được
dùng hết, cần phải có phương pháp giảm đau hữu hiệu
để giúp người bệnh.
Trong lịch sử, kĩ thuật diệt hạch đám rối tạng bằng
phương pháp phẫu thuật được triển khai từ 1953 [6],
sau đó kĩ thuật này được thực hiện dưới hướng dẫn
của màn tăng sáng [3]. Sự ra đời và phát triển của các
phương pháp siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và cộng
hưởng từ đã thay đổi cách thức thực hiện kĩ thuật diệt
Hình 1. Sơ đồ đám rối dương và các tạng bị chi phối từ đám rối.
Hình ảnh chụp CLVT và vị trí của hạch đám rối dương.
(Hình được trính dẫn từ bài của tác giả Kambadakone [4])
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 157
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hach tạng với mức độ tinh tế hơn, hiệu quả hơn và ít
xâm phạm hơn [1, 2, 4].
Tác nhân gây diệt hạch có thể là hóa chất như cồn
tuyệt đối, phenol hoặc bằng nhiệt như với sóng cao tần.
Đối với đám rối tạng, cồn tuyệt đối đến nay vẫn là tác
nhân được ưa dùng vì có tác dụng diệt hạch tốt, không
gây các biến chứng lớn đối với các tạng lân cận.
Sự thành công của phương pháp diệt hạch đám
rối tạng qua da phụ thuộc vào những yếu tố như: chỉ
định, cách thức định vị kim, tác nhân diệt hạch.
2. Đối tượng
Nhân 3 trường hợp được thực hiện kĩ thuật diệt
hạch đám rối dương qua da dưới hướng dẫn của chụp
cắt lớp vi tính, chúng tôi tổng kết những kinh nghiệm
về kĩ thuật cũng như hiệu quả ban đầu và những biến
chứng có thể gặp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả, số liệu được thu thập tiến cứu. Ghi nhận các
đặc điểm: chỉ định, kĩ thuật định vị kim, lượng tác nhân
diệt hạch được tiêm, tác dụng ngay sau tiêm và các
biến chứng trong vòng 48h sau tiêm.
Phương tiện định vị là máy chụp CLVT. Trong quá
trình định vị kim, cần lựa chọn chế độ chụp CLVT từng
lớp (axial) với lớp cắt có độ dày dày nhất (10mm) khu
trú vùng chọc kim (thường chỉ cần 3 lát cắt) và chụp ở
chế độ giảm liều nhất có thể.
Kim được sử dụng là loại nhỏ 25G: kim Chiba dài
20cm.
Chất gây diệt hạch là cồn tuyệt đối.
Cách thức tiến hành kĩ thuật: đặt tư thế bệnh
nhân nằm sấp hoặc ngửa tùy theo đường chọc từ phía
sau hay phía trước. Chụp các lớp định vị, chọn đường
chọc kim. Gây tê tại chỗ và chọc kim 25G hướng tới
cạnh gốc động mạch thân tạng. Trước khi tiêm cồn, cần
tiêm 1ml thuốc cản quang và chụp CLVT kiểm tra để
đảm bảo quan sát được thuốc loang đúng quanh phía
trước động mạch chủ và quanh động mạch thân tạng.
Sau đó tiêm 1ml thuốc Lidocain, cảm giác giảm đau của
bệnh nhân cũng là một chỉ số đánh giá đầu kim ở đúng
vị trí. Cuối cùng tiêm 2-5ml cồn tuyệt đối.
III. KẾT QUẢ
Trong tháng 4 và 5/2013, ba bệnh nhân được thực
hiện kĩ thuật, hai trường hợp có chẩn đoán ung thư giai
đoạn cuối (một bệnh nhân ung thư gan và một ung thư
dạ dày di căn gan, tụy, hạch). Mức độ đau được đánh
giá theo thang điểm VAS ở mức 8/10 và 9/10: bệnh
nhân vật vã, còn đau khi dùng morphine theo đường
tiêm. Trường hợp thứ ba là bệnh nhân bị viêm tụy mãn,
đã được phẫu thuật theo phương pháp Frey, hiện còn
đau ở mức độ 6/10 và thường có các cơn đau trội lên
ở mức 8/10 làm bệnh nhân không ăn được, suy kiệt.
Cả ba trường hợp đều được thực hiện kĩ thuật
dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính. Kim được sử dụng
là loại nhỏ 25G với 2 trường hợp qua đường chọc từ
phía lưng (cần kim dài 20cm) và 1 trường hợp từ phía
trước (có thể dùng loại kim chọc tủy sống, ngắn hơn
so với đi qua đường sau, chiều dài kim ~ 10cm). Các
tạng mà kim đi xuyên qua là gan (Hình 2), thận, dạ dày
(Hình 3), không có trường hợp nào xuyên kim qua động
mạch chủ.
Trung bình mỗi lần chọc, cần chụp nhắc lại 4 lượt
cắt lớp vi tính để đưa được đầu kim vào đúng vị trí
và kiểm tra thuốc cản quang loang ở đúng khoang giải
phẫu chứa hạch đám rối tạng.
Đánh giá kết quả tại chỗ, cả ba trường hợp đều có
cảm giác giảm đau ngay sau khi tiêm, chỉ số đau VAS
còn 2/10 (hai trường hợp) và 1/10 (một trường hợp).
Hình 2. Kim chọc qua đường sau, xuyên qua gan
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013158
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3. Chọc kim qua đường trước
Không có biến chứng đáng kể như chảy máu,
nhiễm khuẩn, vỡ tạng Tuy nhiên có những tác dụng
phụ được ghi nhận: bí tiểu (một trường hợp), tiêu chảy
(một trường hợp).
Thuốc cản quang loang ra khoang trước trụ cơ
hoành, vây quanh phía trước động mạch chủ và bên
cạnh động mạch thân tạng. Đầu kim đã ở đúng vị trí có
thể tiêm chất diệt hạch.
Kim có thể xuyên thành dạ dày. Thuốc cản quang
loang quanh động mạch thân tạng - đầu kim đã ở đúng
vị trí. Có thể tiêm chất diệt hạch.
IV. BÀN LUẬN
Các bệnh nhân đều có nguyên nhân đau ở tầng
trên đại tràng ngang, điều này phù hợp với chỉ định phổ
biến được mô tả trong y văn là ung thư gan, tụy, dạ
dày và viêm tụy mạn [4]. Hình ảnh CLVT, cộng hưởng
từ cho thấy không có di căn cột sống, chèn ép rễ thần
kinh. Đây là một yếu tố cần thiết phải đánh giá được
trước khi can thiệp. Nếu nguyên nhân đau là do chèn
ép rễ, phá hủy thân đốt sống thì thủ thuật diệt hạch
sẽ không mang lại kết quả. Cũng vậy, trong trường hợp
nguyên nhân đau nằm ở thấp, ví dụ u buồng trứng, di
căn sau phúc mạc thì vị trí cần diệt hạch không phải
là đám rối tạng.
Kĩ thuật định vị: phương pháp phổ biến nhất được
các tác giả sử dụng để định vị kim khi tiến hành kĩ thuật
là chụp cắt lớp vi tính. Ưu điểm của phương pháp này là
chính xác, đánh giá được hình thái lan rộng của thuốc,
phát hiện các biến chứng sớm ngay trong thủ thuật như
chảy máu, vỡ tạng, thuốc lan không đúng khoang giải
phẫu. Phương pháp cũng có những nhược điểm: độc
hại do bức xạ, không đánh giá được rò thuốc mức độ
nhỏ, đường kim đi tối ưu trên hình ảnh CLVT có thể
vướng xương khi thực hiện chọc trên thực tế. Tuy nhiên
với độ chính xác, dễ làm và sự phổ biến của máy chụp
cắt lớp vi tính ở các tuyến tỉnh, thậm chí huyện, phương
pháp định vị dưới CLVT vẫn là lựa chọn hàng đầu ở
Việt Nam cũng như nhiều trường phái trên thế giới.
Trong khi làm thủ thuật cần lưu ý một số chi tiết kĩ
thuật để giảm liều chiếu cho bệnh nhân: giảm cường độ
tia ở mức thấp nhất, chỉ chụp kiểu từng lớp với độ dày
lớp cắt lớn với số lớp cắt rất hạn chế, thường là 3 lớp.
Thực tế chúng tôi chụp ở mức mA thấp nhất nhưng vẫn
nhìn rất rõ kim và các cấu trúc đích như gốc động mạch
thân tạng, động mạch chủ, trụ cơ hoành và tất cả các
cấu trúc liên quan như gan, thận, tuyến thượng thận, tổ
chức mỡ sau phúc mạc.
Các phương pháp định vị khác như siêu âm, siêu
âm nội soi, chụp cộng hưởng từ cũng được sử dụng
nhưng khó làm hơn và có thể có các biến chứng do
không kiểm soát được mức độ lan của thuốc diệt hạch
[5]. Phương pháp định vị bằng chiếu Xquang đơn
thuần không còn được sử dụng nữa vì không quan
sát được chính xác vị trí động mạch thân tạng và động
mạch chủ.
Loại kim, đường chọc: phải dùng loại kim nhỏ
(25G), để đi từ đường sau chiều dài kim phải >20cm.
Trong điều kiện thiếu kim có thể dùng kim chọc tủy sống
25G nhưng loại này ngắn nên bắt buộc phải đi đường
trước và bụng bệnh nhân nhỏ. Một bệnh nhân trong
nhóm này được thực hiện bằng kim chọc tủy B.Braun
25G cho kết quả tốt vì bệnh nhân rất gầy và chọc từ
đường trước. Với kích thước kim 25G, các tác giả như
Kambadakone [4], Yamamuro [6] có thể xuyên kim
qua động mạch chủ mà không gặp biến chứng chảy
máu lớn.
Hoạt chất diệt hạch: có thể dùng phenol hoặc
cồn. Phenol có độ keo cao nên phân tán ít, tác dụng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 159
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
chậm, có tác dụng đông vón proteine và phá hủy tổ
chức nhưng không nhiều trên cấu trúc thần kinh. Đối
với diệt hạch tạng, phenol ít được sử dụng hơn cồn vì
cồn có độ keo thấp, phân tán rộng và dễ dàng hơn, có
tác dụng diệt hạch thần kinh mạnh hơn tuy nhiên có
cảm giác nóng, đau khi tiêm. Lượng cồn có thể tiêm
tới 40ml. Nồng độ cồn có thể 50% tới 100%. Với ít kinh
nghiệm ban đầu, chúng tôi thực hiện tiêm cồn tuyệt đối
với hi vọng có hiệu quả diệt hạch cao hơn tuy nhiên
có thể gây cảm giác đau bỏng rát trong lúc tiêm vì vậy
trước khi tiêm cồn phải tiêm 1-2 ml thuốc tê. Sóng cao
tần (radiofrequency) có thể được sử dụng để diệt hạch
tạng nhưng diện tác dụng có thể hạn chế hơn so với
tiêm cồn và kích thước kim to hơn có thể gây khó khăn
khi đường chọc phải đi qua các tạng quan trọng đặc
biệt là động mạch chủ.
Biến chứng: không có biến chứng lớn nhưng có
những tác dụng phụ có thể do thủ thuật diệt hạch gây
ra. Tiêu chảy là một tác dụng phụ khá thường gặp (44%
theo Kabadakone) nhưng có thể điều chỉnh dễ dàng
bằng chế phẩm codein đường uống.
V. KẾT LUẬN
Diệt hạch đám rối tạng qua da dùng cồn tuyệt đối
dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính là kĩ thuật an
toàn với kim nhỏ 25G, chính xác với khoảng 4 lần chụp
định vị liều thấp cho mỗi lần chọc và với 5ml cồn tuyệt
đối cho mỗi vị trí tiêm.
Kết quả giảm đau ngay luôn đạt được sau thủ
thuật. Các biến chứng chảy máu, nhiễm khuẩn cần
được đề phòng và kiểm tra ngay khi làm. Tác dụng phụ
nhẹ như tiêu chảy, ngộ độc rượu có thể điều trị triệu
chứng không khó khăn.
Kết quả bước đầu của kĩ thuật này đã mang lại
hi vọng giảm đau tốt cho các bệnh nhân bị ung thư
tầng trên đại tràng ngang giai đoạn cuối hoặc viêm
tụy mạn tính.
1. Akural, E., et al., MR-guided neurolytic celiac
plexus ablation: an evaluation of effect and injection
spread pattern in cancer patients with celiac tumor
infiltration. Cardiovasc Intervent Radiol, 2013. 36(2): p.
472-8.
2. Gress, F., Endoscopic ultrasound-guided celiac
plexus neurolysis. Gastroenterol Hepatol (N Y), 2007.
3(4): p. 279-81.
3. Hegedus, V., Relief of pancreatic pain by
radiography-guided block. AJR Am J Roentgenol, 1979.
133(6): p. 1101-3 (abstract).
4. Kambadakone, A., et al., CT-guided celiac plexus
neurolysis: a review of anatomy, indications, technique,
and tips for successful treatment. Radiographics, 2011.
31(6): p. 1599-621.
5. Mittal, M.K., A.A. Rabinstein, and E.F. Wijdicks,
Pearls & oy-sters: Acute spinal cord infarction following
endoscopic ultrasound-guided celiac plexus neurolysis.
Neurology, 2012. 78(9): p. e57-6. Yamamuro, M., et
al., Celiac plexus block in cancer pain management.
Tohoku J Exp Med, 2000. 192(1): p. 1-18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Mục tiêu: qua 3 trường hợp diệt hạch đám rối tạng để điều trị giảm đau, bài báo trình bày kết quả sớm của
phương pháp, những kinh nghiệm ban đầu về kĩ thuật và bàn về chỉ định của phương pháp.
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: mô tả tiến cứu 3 ca lâm sàng được tiêm diệt hạch đám rối tạng bằng
cồn tuyệt đối trong tháng 4 và 5/2013 dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính.
Kết quả: tác dụng giảm đau đạt được ngay khi làm thủ thuật, không có biến chứng lớn.
Kết luận: tiêm diệt hạch đám rối tạng bằng cồn tuyệt đối dưới chụp CLVT là kĩ thuật đơn giản, hiệu quả trong
điều trị giảm đau tầng trên mạc treo đại tràng ngang do ung thư hoặc do viêm tụy mạn.
Từ khóa: diệt hạch đám rối tạng, điều trị giảm đau, tiêm cồn, chọc dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_cua_phuong_phap_tiem_diet_hach_dam_roi_tang_bang_con.pdf