Giá trị dao động xung ký trong chẩn đoán hen phế quản

Dao động xung ký có thể là một phương pháp thăm dò chức năng hô hấp thay thế hô hấp ký, hỗ trợ cho chẩn đoán hen phế quản cùng với các tiêu chuẩn hướng dẫn của GINA ở những trẻ không hợp tác đo hô hấp ký. Mạng lưới chăm sóc hô hấp ở trẻ nhỏ cần ứng dụng dao động xung ký trong hỗ trợ chẩn đoán, và theo dõi đáp ứng điều trị hen phế quản ở trẻ em một cách rộng rãi. Đồng thời, cần có những nghiên cứu trong nước sâu hơn về đặc điểm của dao đông xung ký trong các bệnh về đường hô hấp ở trẻ nhỏ cũng như ở người lớn tuổi không thể hợp tác thực hiện các phương pháp thăm dò chức năng hô hấp khác.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị dao động xung ký trong chẩn đoán hen phế quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Nội Khoa I 130 GIÁ TRỊ DAO ĐỘNG XUNG KÝ TRONG CHẨN ĐOÁN HEN PHẾ QUẢN Diệp Thắng*, Đặng Huỳnh Anh Thư**, Nguyễn Phúc Hậu**, Lê Thị Tuyết Lan** TÓM TẮT Mở đầu: Hen phế quản là một trong những bệnh mạn tính thường gặp ở trẻ nhỏ, việc chẩn đoán sớm bệnh hen phế quản thì rất cần thiết. Dao động xung ký là một kỹ thuật mới giúp đánh giá tắc nghẽn đường dẫn khí ở trẻ nhỏ, giúp chẩn đoán sớm và can thiệp sớm hen phế quản. Mục tiêu: Xác định giá trị của dao động xung ký trong chẩn đoán hen phế quản ở trẻ 3-5 tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Trên 100 trẻ 3-5 tuổi có triệu chứng nghi hen phế quản đến khám tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng trong thời gian từ tháng 12/2010 đến tháng 01/2012. Kết quả: Tỉ lệ mắc hen phế quản được chẩn đoán theo GINA trong nghiên cứu là 84%, tỉ lệ nam/nữ: 1,4/1 (p<0,05). Nhóm bệnh nhi hen phế quản có tiền căn gia đình bị hen phế quản, dị ứng, và tiền căn bản thân bị viêm mũi dị ứng cao hơn nhóm trẻ không mắc hen phế quản (p<0,05). Tỉ lệ hen phế quản được gợi ý chẩn đoán dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản là 71%, kết quả này cho thấy có sự phù hợp ở mức độ trung bình với chẩn đoán hen phế quản theo GINA (chỉ số Kappa là 0,52). Kết luận: Dao động xung ký là một kỹ thuật mới, hữu ích giúp hỗ trợ cho chẩn đoán sớm hen phế quản ở những trẻ nhỏ. Từ khóa: Hen phế quản – Dao động xung ký ABSTRACT THE UTILITY OF IMPULSE OSCILLOMETRY IN THE DIAGNOSIS OF ASTHMA Diep Thang, Dang Huynh Anh Thu, Nguyen Phuc Hau, Le Thi Tuyet Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 130 - 136 Backgrounds: Asthma is considered one of the most common chronic diseases in childhood, early diagnosis of asthma is necessary. The impulse oscillometry (IOS) was evaluated as a new technique for the assessment of airflow obstruction in young children, a helpful outcome measurement for early intervention of asthma. Objective: The aim of this study was to assess the utility of IOS in the diagnosis of asthma in children aged 3 to 5 years. Methods: A cross-sectional study was carried out including 100 children aged 3 to 5 yrs with the symptoms of suspected asthma who came to the Community Health Care Center from December 2010 to January 2012. Results: There were 84 patients with asthma diagnosed according to the GINA criteria, male/female: 1.4/1 (p<0.05). The asthmatic group had statistically significantly higher rates of the family history of asthma or atopy, or the personal history of allergic rhinitis when compared with the non-asthmatic one (p<0.05). The proportion of children who were suggested asthma based on the bronchodilator response of IOS was 71%. There was a moderate consistent between the asthma according to the GINA and the asthma based on the bronchodilator response of IOS (Kappa coefficient 0.52). *Bộ môn Sinh lý – Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch **Bộ môn Sinh lý – Đại học Y dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS Diệp Thắng ĐT: 0909967947 Email: dthangy2k@yahoo.com. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 131 Conclusion: IOS is a useful diagnostic tool in early asthma development in young children. Keywords: Asthma – Impulse oscillometry MỞ ĐẦU Hen phế quản là một trong những bệnh mạn tính thường gặp nhất, đặc biệt ở trẻ nhỏ(1), bệnh thường xuất hiện trong giai đoạn sớm của cuộc đời(34). Do đó việc chẩn đoán sớm bệnh hen phế quản là rất cần thiết. Ở người lớn và các trẻ lớn, hô hấp ký là một xét nghiệm thăm dò chức năng hô hấp được sử dụng phổ biến nhất để chẩn đoán hen phế quản. Tuy nhiên, hô hấp ký đòi hỏi sự hợp tác rất nhiều ở bệnh nhân trong khi tiến hành đo, do đó xét nghiệm này rất khó thực hiện ở những trẻ nhỏ(5,13). Trong khi đó, dao động xung ký (IOS: the impulse oscillation system) là phương pháp đo trực tiếp kháng lực (R: resistance) và phản lực (X: reactance) đường dẫn khí dao động ở nhiều tần số khác nhau(5), và đây là kỹ thuật dễ thực hiện, đòi hỏi rất ít sự hợp tác của bệnh nhân do bệnh nhân chỉ cần hít thở bình thường nên có thể thăm dò chức năng hô hấp cả ở những trẻ nhỏ 2 tuổi(6). Dao động xung ký được xem như một kỹ thuật mới giúp đánh giá tắc nghẽn đường dẫn khí ở trẻ nhỏ(14,28), một công cụ hữu ích giúp chẩn đoán sớm và can thiệp sớm hen phế quản(20,31). Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu xác định giá trị của dao động xung ký trong chẩn đoán hen phế quản ở trẻ 3-5 tuổi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 100 trẻ 3-5 tuổi có triệu chứng nghi hen phế quản trong 12 tháng qua như khò khè tái đi tái lại, khó thở liên quan đến khò khè, khò khè khi hoạt động thể lực, ho kéo dài trên 3 tuần; đến khám tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng trong thời gian từ tháng 12/2010 đến tháng 01/2012. Tiêu chuẩn loại trừ là trẻ có tiền căn dị tật bẩm sinh tim mạch, hô hấp, thần kinh cơ; tiền căn bệnh lý mạn tính khác đi kèm: bại não, loạn sản phế quản – phổi; và không hợp tác đo dao động xung ký. Phương pháp tiến hành Các trẻ thỏa các điều kiện trên được lấy thông tin, hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng bởi các bác sĩ chuyên khoa nhi thuộc Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng, và được chẩn đoán hen phế quản dựa theo tiêu chuẩn của GINA(23). Sau đó tất cả các đối tượng được tiến hành đo dao động xung ký bằng máy Masterscreen-IOS của hãng Jaeger, Đức. Dao động xung ký: một máy tạo xung động với nhiều tần số (5-35Hz) được phóng vào đường dẫn khí trong lúc đối tượng hít thở bình thuờng. Sự tương tác với hệ hô hấp sẽ làm thay đổi tính chất các xung động. Các bộ phận chuyển đổi áp suất và chuyển đổi lưu lượng sẽ được ghi nhận và tính ra tổng trở Z (Impedance) của hệ hô hấp. Sử dụng các thuật toán, người ta tính được kháng lực đường dẫn khí R (Resistance) và phản lực đường dẫn khí X (Reactance). Kỹ thuật đo dao động xung ký: trẻ ngồi thẳng lưng, đầu tựa vào ghế, dùng dụng cụ kẹp mũi trẻ, hai tay đặt lên má (tránh phồng má). Trẻ được hướng dẫn hít thở bình thường qua ống ngậm khoảng 30 – 60 giây, trung bình là 40 giây. Kết quả của các thông số R5, R20, X5, Fres, AX trong dao động xung ký được ghi nhận khi hàm Cohenrence ở tần số 5Hz và 20Hz đạt chuẩn (CO5 ≥ 0.7, CO20 ≥ 0.9). Sau đó trẻ được thực hiện test dãn phế quản với salbutamol liều 200mcg. Sau 15 phút trẻ sẽ được tiến hành đo lại dao động xung ký, và cũng ghi nhận các thông số R5, R20, X5, Fres, AX và sự thay đổi của các thông số này sau khi thực hiện test dãn phế quản. Theo Hội lồng ngực Hoa Kỳ và Hội Hô hấp Châu Âu (ATS/ERS): test dãn phế quản được gọi là có đáp ứng khi R5 sau khi thực hiện test giảm 20% so với trước khi thực hiện test dãn phế quản(5). Đây là tiêu chuẩn gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Nội Khoa I 132 Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm STATA 10.0. Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. KẾT QUẢ Đặc điểm bệnh nhân hen phế quản được chẩn đoán theo GINA Tỉ lệ mắc hen phế quản được chẩn đoán theo GINA trong nhóm nghiên cứu chiếm 84%. Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân hen phế quản được chẩn đoán theo GINA Đặc điểm Hen phế quản (n=84) Không hen phế quản (n=16) Giá trị p Giới tính Nữ 35 11 0,046 Nam 49 5 Tuổi (tháng) Nam 44,84 ± 9,03 44,8 ± 9,44 0,99 Nữ 47,23 ± 8,44 49,91 ± 10,23 0,39 Chung 45,83 ± 8,82 48,31 ± 9,98 0,32 Cân nặng (Kg) Nam 17,89 ± 3,93 18,6 ± 4,83 0,71 Nữ 16,79 ± 3,54 18,36 ± 4,65 0,24 Chung 17,43 ± 3,79 18,44 ± 4,55 0,35 Chiều cao (cm) Nam 100,79 ± 8,5 102,6 ± 8,08 0,65 Nữ 101,66 ± 7,83 104,91 ± 9,78 0,26 Chung 101,15 ± 8,19 104,19 ± 9,08 0,18 Tiền căn gia đình Hen phế quản 28 (33,33%) 1 (6,25%) 0,03 Dị ứng 32 (38,1%) 2 (12,5%) 0,048 Tiền căn bản thân Viêm mũi dị ứng 33 (39,29%) 2 (12,5%) 0,04 Dị ứng khác 18 (21,43%) 1 (6,25%) 0,16 Nhận xét: Tỉ lệ hen phế quản ở trẻ nam cao hơn trẻ nữ là 1,4 lần (49/35) (p<0,05). Không có sự khác biệt về tuổi, cân nặng, chiều cao, tiền căn bản thân dị ứng giữa nhóm bệnh nhân hen phế quản và nhóm không mắc hen phế quản (p>0,05). Nhóm bệnh nhi hen phế quản có tiền căn gia đình bị hen phế quản, dị ứng, và tiền căn bản thân bị viêm mũi dị ứng cao hơn nhóm trẻ không mắc hen phế quản (p<0,05). Bảng 2: Yếu tố khởi phát cơn hen ở bệnh nhân hen phế quản được chẩn đoán theo GINA Yếu tố khởi phát Tần số (n=84) Tỉ lệ (%) Lạnh 20 23,81 Thay đổi thời tiết 16 19,05 Khói 15 17,86 Cúm 14 16,67 Gắng sức 14 16,67 Thức ăn 11 13,1 Bụi 7 8,33 Xúc cảm 3 3,57 Thuốc 1 1,19 Thú có lông 1 1,19 Nhận xét: Trong các yếu tố khởi phát cơn hen phế quản, yếu tố lạnh (23,81%), thay đổi thời tiết (19,05%) và khói (17,86%) là nguyên nhân khiến bệnh nhân xuất hiện cơn hen phế quản nhiều nhất. Bảng 3: Kết quả dao động xung ký trước khi thực hiện test dãn phế quản ở bệnh nhân hen được chẩn đoán theo GINA Thông số Giới Hen phế quản (n = 84) Không hen phế quản (n = 16) Giá trị P R5 (kPa/L/s) Nam 1,34 ± 0,37 1,16 ± 0,26 0,31 Nữ 1,37 ± 0,35 1,33 ± 0,2 0,75 Chung 1,35 ± 0,36 1,28 ± 0,23 0,45 R20 (kPa/L/s) Nam 0,82 ± 0,24 0,84 ± 0,12 0,84 Nữ 0,86 ± 0,21 0,84 ± 0,12 0,57 Chung 0,84 ± 0,23 0,84 ± 0,12 0,97 X5 (kPa/L/s) Nam -0,69 ± 0,29 -0,65 ± 0,28 0,77 Nữ -0,66 ± 0,2 -0,66 ± 0,2 0,97 Chung -0,68 ± 0,26 -0,66 ± 0,22 0,77 Fres (kPa/L/s) Nam 26,97 ± 9,57 23,94 ± 3,91 0,49 Nữ 27,74 ± 6,05 25,56 ± 3,95 0,27 Chung 27,3 ± 8,25 25,05 ± 3,88 0,29 AX (kPa/L) Nam 6,01 ± 2,69 4,79 ± 2,50 0,34 Nữ 6,71 ± 3,40 6,36 ± 2,55 0,76 Chung 6,30 ± 3,00 5,87 ± 2,57 0,60 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 133 Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết quả dao động xung ký (R5, R20, X5, Fres, AX) trước khi thực hiện test dãn phế quản giữa nhóm bệnh nhân hen phế quản và nhóm không hen phế quản (p>0,05). Tỉ lệ bệnh nhân hen phế quản được gợi ý dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản Theo tiêu chuẩn của hiệp hội lồng ngực Hoa Kỳ và Hội Hô hấp Châu Âu (ATS/ERS), tỉ lệ hen phế quản được gợi ý chẩn đoán dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản là 71%. Đánh giá sự phù hợp giữa chẩn đoán hen phế quản theo GINA và gợi ý hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản Để đánh giá mức độ phù hợp giữa chẩn đoán hen phế quản theo GINA và gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc, chúng tôi tiến hành tính chỉ số Kappa. Bảng 4: Đánh giá sự phù hợp giữa chẩn đoán hen phế quản theo GINA và gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản Chẩn đoán hen phế quản theo GINA Có Không Tổng Gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc Có 69 2 71 Không 15 14 29 Tổng 84 16 100 Chỉ số Kappa = 0,52; p < 0,01 Nhận xét: Với chỉ số Kappa là 0,52, cho thấy sự phù hợp ở mức độ trung bình giữa chẩn đoán hen phế quản theo GINA và gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản. BÀN LUẬN Đặc điểm bệnh nhân hen phế quản được chẩn đoán theo GINA Qua thăm khám, hỏi bệnh sử, đánh giá theo hướng dẫn của GINA trên 100 trẻ trong nhóm nghiên cứu, kết quả cho thấy tỉ lệ mắc hen phế quản khá cao, chiếm 84%, do tiêu chuẩn chọn mẫu của nghiên cứu chỉ nhận những trẻ có một trong các triệu chứng khò khè, ho kéo dài, khó thở trong 12 tháng qua. Hen phế quản ở trẻ nhỏ thường gặp ở giới nam hơn giới nữ(9,11,18,22,26). Nhưng khi trẻ lớn dần, sự khác biệt về tỉ lệ hen phế quản giữa hai giới thu hẹp dần, và đến quanh tuổi dậy thì, tỉ lệ hen phế quản toàn bộ ở nữ nhiều hơn nam. Lý do vì sao có sự khác biệt liên quan đến giới tính như vậy vẫn chưa rõ(3, 4, 22). Tuy nhiên theo GINA cho thấy khi sinh ra, kích thước phổi ở trẻ em nam nhỏ hơn trẻ em gái nhưng đến khi trưởng thành thì kích thước phổi nam giới lớn hơn nữ giới(22). Hen phế quản thường xuất hiện trong giai đoạn sớm của cuộc đời(34), theo AIRIAP tuổi chẩn đoán hen phế quản trung bình là 3,8 ± 2,6 tuổi(18), nghiên cứu của Phan Lộc Mai cho thấy đa số các trường hợp tuổi khởi phát hen phế quản ở trong năm đầu tiên (44,94%)(26). Do đó, trẻ nhỏ cần được phát hiện sớm, phòng ngừa và kiểm soát tốt hen phế quản để đảm bảo cho sự phát triển thể chất và tinh thần. Với tiến bộ của sinh học phân tử và di truyền người ta thấy rằng hen phế quản có yếu tố di truyền(3,21,22). Các dữ kiện hiện nay cho thấy rất nhiều gene có thể liên quan trong sinh bệnh học của hen(10,32). Gia đình có người mắc hen phế quản hoặc các bệnh dị ứng thì nguy cơ mắc bệnh hen phế quản sẽ cao hơn so người trong gia đình không bị hen phế quản hoặc bị dị ứng. Cơ địa dị ứng là một yếu tố quan trọng hình thành hen phế quản ở mỗi cá thể(25). Tầm quan trọng của dị ứng như một nguyên nhân của hen phế quản đã được nhấn mạnh và đó được coi như một trong các yếu tố nguy cơ, thậm chí là yếu tố nguy cơ rất quan trọng cần thiết bộc lộ hen phế quản(8). Đa số bệnh nhân hen phế quản có tiền căn viêm mũi và đến 30% bệnh nhân viêm mũi dai dẳng đã mắc hay sẽ mắc hen phế quản(19). Viêm mũi thường xuất hiện trước hen Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Nội Khoa I 134 phế quản, và cũng là yếu tố nguy cơ làm xuất hiện và tăng nặng thêm bệnh hen(27,29). Vì vậy, theo khuyến cáo của ARIA 2008, bệnh nhân viêm mũi dị ứng nên được xác định có bị hen phế quản hay không, và trong kế hoạch hành động phải điều trị đồng thời cả hai bệnh(7). Khi thay đổi thời tiết, lạnh, bệnh nhân thường xuất hiện cơn hen phế quản. Theo GINA, trong điều kiện mùa và khí quyển nào đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đợt hen kích phát phát triển qua nhiều cơ chế gồm bụi và ô nhiễm, tăng các dị nguyên qua đường dẫn khí, và thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm(22). Các loại khói như khói thuốc lá, khói than củi cũng là một trong những nguyên nhân đứng đầu gây hen phế quản. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trẻ tiếp xúc với khói chủ yếu là khói thuốc lá do người nhà hút thuốc. Tiếp xúc với khói thuốc lá trong môi trường (hút thuốc lá thụ động) làm tăng nguy cơ xuất hiện các bệnh hô hấp dưới ở trẻ em, và làm tăng tần suất, mức độ nặng các triệu chứng ở trẻ bị hen phế quản. Do đó, người thân trong gia đình trẻ không nên hút thuốc lá trong nhà hay trong phòng của trẻ(22). Kết quả dao động xung ký trước khi thực hiện test dãn phế quản cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kháng lực đường dẫn khí R5, R20, phản lực đường dẫn khí X5, tần số cộng hưởng Fres, và vùng phản lực AX giữa nhóm bệnh nhân hen phế quản và nhóm không hen phế quản (p>0,05). Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Alex Marotta(20), Song TW(31), và Yixin Shi(30). Tỉ lệ bệnh nhân hen phế quản được gợi ý dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản: là 71% Với chỉ số Kappa là 0,52, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự phù hợp ở mức độ trung bình giữa chẩn đoán hen phế quản theo GINA và gợi ý chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả dao động xung ký có thử thuốc dãn phế quản. Năm 2006, Hội lồng ngực Hoa kỳ (American Thoracic Society – ATS) cùng với Hội Hô hấp châu Âu đã đồng thuận đưa dao động xung ký vào tài liệu hướng dẫn thăm dò chức năng hô hấp ở trẻ tuổi mẫu giáo(5). Với phương pháp này sẽ giúp cải thiện đáng kể trong việc chẩn đoán tắc nghẽn đường dẫn khí, theo dõi điều trị và diễn tiến bệnh. Dao động xung ký là một kỹ thuật không xâm lấn, an toàn, đơn giản, dễ thực hiện, và đòi hỏi rất ít sự hợp tác của bệnh nhi. Các trẻ chỉ cần hít thở bình thường qua ống ngậm khoảng 30 – 60 giây thì có thể ghi nhận được kết quả kháng lực đường dẫn khí nên có thể thăm dò chức năng hô hấp cả ở những trẻ nhỏ 2 tuổi(6). Trong khi đó, xét nghiệm thăm dò chức năng hô hấp ký được GINA khuyến cáo sử dụng trong chẩn đoán hen phế quản(22), thì phụ thuộc rất nhiều vào sự gắng sức của bệnh nhân, nên thường rất khó thực hiện ở các trẻ nhỏ. Bên cạnh đó, phương pháp thăm dò này cần phải có những kỹ thuật viên được đào tạo tốt và có kinh nghiệm để hướng dẫn chi tiết rõ ràng cho bệnh nhân làm thế nào để gắng sức đúng mức. Khi thực hiện đo dao động xung ký, mỗi trẻ sẽ được sử dụng ống ngậm riêng nên giúp tránh được tình trạng lây truyền các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp trong khi tiến hành đo. Ngoài ra, cũng tương tự như hô hấp ký, dao động xung ký cũng thực hiện được các test dãn phế quản hay kích thích phế quản, để từ đó xác định được nghẽn tắc ngoại biên hoặc trung ương, và hội chứng hạn chế(2,5,15,17,24,31,33). Đặc biệt, dao động xung ký có thể được dùng trong phòng cấp cứu để đánh giá chức năng phổi và đánh giá đáp ứng điều trị ở những trẻ bị cơn hen cấp(12). So với hô hấp ký, nhiều nghiên cứu về hen phế quản ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo đã cho thấy dao động xung ký nhạy hơn hô hấp ký(17,20,31), đặc hiệu hơn FEV1(17,33) trong chẩn đoán hen phế quản dựa vào kết quả đáp ứng với thuốc dãn phế quản, và xem dao động xung ký là một công cụ hữu ích giúp chẩn đoán sớm và can thiệp sớm hen phế quản(20,31). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 135 Trong theo dõi điều trị hen phế quản, nghiên cứu của Yixin Shi và cộng sự sử dụng dao động xung ký trong đánh giá kiểm soát hen phế quản ở trẻ em. Nghiên cứu thực hiện ở các trẻ khỏe mạnh và các trẻ hen phế quản tuổi từ 6 -17 tuổi; các trẻ được đo hô hấp ký và dao động xung ký trước và sau test dãn phế quản. Kết quả cho thấy hô hấp ký cung cấp thông tin khách quan quan trọng, nhưng những giá trị thường bình thường ở trẻ hen phế quản nhẹ đến trung bình. Ngoài ra, kết quả hô hấp ký không thể phản ánh chính xác rối loạn chức năng đường dẫn khí nhỏ. Trong khi đó, dao động xung ký có thể cung cấp thông tin hữu ích, đáng tin cậy để đo lường tắc nghẽn đường dẫn khí nhỏ, qua đó đánh giá tình trạng kiểm soát hen phế quản ở trẻ em kết hợp với bệnh sử và hô hấp ký(30). KẾT LUẬN Dao động xung ký có thể là một phương pháp thăm dò chức năng hô hấp thay thế hô hấp ký, hỗ trợ cho chẩn đoán hen phế quản cùng với các tiêu chuẩn hướng dẫn của GINA ở những trẻ không hợp tác đo hô hấp ký. Mạng lưới chăm sóc hô hấp ở trẻ nhỏ cần ứng dụng dao động xung ký trong hỗ trợ chẩn đoán, và theo dõi đáp ứng điều trị hen phế quản ở trẻ em một cách rộng rãi. Đồng thời, cần có những nghiên cứu trong nước sâu hơn về đặc điểm của dao đông xung ký trong các bệnh về đường hô hấp ở trẻ nhỏ cũng như ở người lớn tuổi không thể hợp tác thực hiện các phương pháp thăm dò chức năng hô hấp khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agertoft L, Pedersen S (1994). Effects of long-term treatment with an inhaled corticosteroid on growth and pulmonary function in asthmatic children. Respir Med;88:373-81. 2. Al-Mutairi SS, Sharma PN, Al-Alawi A, Al-Deen JS (2007). Impulse oscillometry: an alternative modality to the conventional pulmonary function test to categorise obstructive pulmonary disorders. Clin Exp Med;7:56-64. 3. Albert RK, Spiro SG, Jett JR (2008). Clinical respiratory medicine.551-8. 4. American College of Chest Physicians (2009). The ACCP Pulmonary medicine board review.25th:81-112. 5. Beydon N, Davis SD, Lombardi E, et al. (2007). An official American Thoracic Society/European Respiratory Society statement: pulmonary function testing in preschool children. Am J Respir Crit Care Med;175:1304-45. 6. Bisgaard H, Pedersen S, Anhoj J, et al. (2007). Determinants of lung function and airway hyperresponsiveness in asthmatic children. Respir Med;101:1477-82. 7. Bousquet J, Khaltaev N, Cruz AA, et al. (2008). Allergic Rhinitis and its Impact on Asthma (ARIA) 2008 update. Allergy;63 Suppl 86:8-160. 8. 8. Burrows B, Martinez FD, Halonen M, Barbee RA, Cline MG (1989). Association of asthma with serum IgE levels and skin-test reactivity to allergens. N Engl J Med;320:271-7. 9. Đặng Quốc Dũng, Nguyễn Thị Thu Ba (2009). Xác định tần suất và một số yếu tố nguy cơ hen phế quản ở học sinh cấp I quận Gò Vấp. Tập 13, phụ bản số 1. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh. 10. Đặng Vạn Phước, Châu Ngọc Hoa (2009). Bệnh học nội khoa. Đại học Y dược TP HCM, NXB Y học, tr 279-288 11. Đào Minh Tuấn (2011). Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ lâm sàng và đánh giá hiệu quả kiểm soát hen phế quản trẻ em. Y học thực hành (760) - số 4, tr 63-66. 12. Ducharme FM, Davis GM (1997). Measurement of respiratory resistance in the emergency department: feasibility in young children with acute asthma. Chest;111:1519-25. 13. Eigen H, Bieler H, Grant D, et al. (2001). Spirometric pulmonary function in healthy preschool children. Am J Respir Crit Care Med;163:619-23. 14. Frei J, Jutla J, Kramer G, Hatzakis GE, Ducharme FM, Davis GM (2005). Impulse oscillometry: reference values in children 100 to 150 cm in height and 3 to 10 years of age. Chest;128:1266- 73. 15. Kim HY, Shin YH, Jung da W, Jee HM, Park HW, Han MY (2009). Resistance and reactance in oscillation lung function reflect basal lung function and bronchial hyperresponsiveness respectively. Respirology;14:1035-41. 16. Komarow HD, Myles IA, Uzzaman A, Metcalfe DD Impulse oscillometry in the evaluation of diseases of the airways in children. Ann Allergy Asthma Immunol;106:191-9. 17. Komarow HD, Skinner J, Young M, et al. (2012). A study of the use of impulse oscillometry in the evaluation of children with asthma: analysis of lung parameters, order effect, and utility compared with spirometry. Pediatr Pulmonol;47:18-26. 18. Lai CK, De Guia TS, Kim YY, et al. (2003). Asthma control in the Asia-Pacific region: the Asthma Insights and Reality in Asia-Pacific Study. J Allergy Clin Immunol;111:263-8. 19. Leynaert B, Bousquet J, Neukirch C, Liard R, Neukirch F (1999). Perennial rhinitis: An independent risk factor for asthma in nonatopic subjects: results from the European Community Respiratory Health Survey. J Allergy Clin Immunol;104:301-4. 20. Marotta A, Klinnert MD, Price MR, Larsen GL, Liu AH (2003). Impulse oscillometry provides an effective measure of lung dysfunction in 4-year-old children at risk for persistent asthma. J Allergy Clin Immunol;112:317-22. 21. Mason RJ, Murray JF (2010). Murray and Nadel's Textbook of Respiratory Medicine.I:883-918. 22. National Institutes of health NH, Lung and Blood Institute (2010). "Global strategy for asthma management and prevention". 23. National Institutes of health NH, Lung and Blood Institute (2011). "Global strategy for asthma management and prevention". Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Nội Khoa I 136 24. Oostveen E, MacLeod D, Lorino H, et al. (2003). The forced oscillation technique in clinical practice: methodology, recommendations and future developments. Eur Respir J;22:1026-41. 25. Pearce N, Pekkanen J, Beasley R (1999). How much asthma is really attributable to atopy? Thorax;54:268-72. 26. Phan Lộc Mai (2004). Đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị suyễn ở trẻ em nhỏ hơn 5 tuổi ở bệnh viện Nhi đồng 1. Luận văn thạc sĩ nhi khoa. 27. Price D, Zhang Q, Kocevar VS, Yin DD, Thomas M (2005). Effect of a concomitant diagnosis of allergic rhinitis on asthma- related health care use by adults. Clin Exp Allergy;35:282-7. 28. Schweitzer C, Moreau-Colson C, Marchal F (2002). Respiratory impedance response to a deep inhalation in asthmatic children with spontaneous airway obstruction. Eur Respir J;19:1020-5. 29. Settipane RJ, Hagy GW, Settipane GA (1994). Long-term risk factors for developing asthma and allergic rhinitis: a 23-year follow-up study of college students. Allergy Proc;15:21-5. 30. Shi Y, Aledia AS, Tatavoosian AV, Vijayalakshmi S, Galant SP, George SC (2012). Relating small airways to asthma control by using impulse oscillometry in children. J Allergy Clin Immunol;129:671-8. 31. Song TW, Kim KW, Kim ES, Park JW, Sohn MH, Kim KE (2008). Utility of impulse oscillometry in young children with asthma. Pediatr Allergy Immunol;19:763-8. 32. Wiesch DG, Meyers DA, Bleecker ER (1999). Genetics of asthma. J Allergy Clin Immunol;104:895-901. 33. Yaegashi M, Yalamanchili VA, Kaza V, Weedon J, Heurich AE, Akerman MJ (2007). The utility of the forced oscillation technique in assessing bronchodilator responsiveness in patients with asthma. Respir Med;101:995-1000. 34. Yunginger JW, Reed CE, O'Connell EJ, Melton LJ, 3rd, O'Fallon WM, Silverstein MD (1992). A community-based study of the epidemiology of asthma. Incidence rates, 1964-1983. Am Rev Respir Dis;146:888-94.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgia_tri_dao_dong_xung_ky_trong_chan_doan_hen_phe_quan.pdf
Tài liệu liên quan