Cần phải có các công cụ đủ mạnh để
quản lý kinh tế thị trường, rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo, phân phối giá trị lao động
công bằng, giảm thiểu và dần xóa bỏ bóc
lột không để “bóc lột” trở thành bản chất
xã hội, xóa bỏ độc quyền, cạnh tranh lành
mạnh, áp dụng phương pháp sản xuất giá
trị thăng dư tương đối tức là phương pháp
phải ứng dụng tiến bộ khoa học nâng cao
năng suất, để rút ngắn thời gian tất yếu, do
đó thời gian thặng dư sẽ kéo dài ra và sản
phẩm thặng dư sẽ nhiều hơn thúc đẩy kinh
tế phát triển.
Như vậy, “Sự tồn tại của các quan hệ
bóc lột trong nền kinh tế là một tất yếu lịch
sử tùy thuộc vào tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Bởi vậy, việc vận dụng
nó cũng giống như vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan. Vận dụng đúng nó sẽ
là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững. Nếu vận dụng sai thì
hoặc là nhà tư bản không có động lực đầu
tư sản xuất, hoặc là người lao động không
có động lực để tham gia quá trình sản xuất
ra sản phẩm hàng hóa, thì xã hội sẽ bị đình
đốn. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tư
bản và lao động trong việc xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là bảo đảm sự hài hòa về
lợi ích giữa các bên (nhà doanh nghiệp,
người lao động và xã hội) và thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển của lực lượng
sản xuất”[6].
Lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển,
nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi
trường tốt để con người tự thân phát triển,
con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự
phát triển của chính nó và thông qua đó
phát triển toàn xã hội. Đó chính là giá tri
nhân văn chân chính của kinh tế tư nhân
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị thặng dư qua thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015
93
Giá trị thặng dư qua thực tiễn phát triển
kinh tế tư nhân Tỉnh Bình Dương
The surplus value in the reality development
of the private sector in Binh Duong province
ThS. Lê Đình Bình
Trường Cán bộ quản lý giáo dục TP.HCM
M.A. Le Dinh Binh
School Education Management Officer of Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nhận thức đúng đắn về giá trị thặng dư trong
kinh tế tư nhân, không những không làm mất đi giá trị định hướng nhận thức của lý luận Mác – Lênin,
mà còn là cơ sở để nhận thức đúng, phù hợp thực tiễn khách quan. Qua đó, đòi hỏi các ngành, các cấp
có các cơ chế chính sách, cũng như là những ưu đãi, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế tư nhân nói
chung và kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương nói riêng. Bài viết đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá thực
trạng một cách khách quan. Từ đó, đề xuất quan điểm nhận thức đối với lý luận giá trị thặng dư trong
nhận thức và vận dụng trong thực tế, làm cho kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng, đóng góp
tích cực cho nền kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, giá trị thặng dư, bóc lột, động lực phát triển, phương tiện hữu hiệu...
Abstract
In market mechanism of socialist orientation, the right perception of surplus value in the private sector
is not only remaining value of perceptive orientation of Marxism - Leninism, but also as a basis to
perceive properly, consistent with objective practice. Thereby, branches, levels are required to have
policy mechanisms as well as incentives, consistent with the development situation of the private sector
in general as well as that of Binh Duong province in particular. The article exposes a way to recognize,
assess the real situation objectively. Since then, there are proposals of cognitive views toward the theory
of surplus value in perception and applying in practice, making the private sector become an important
force positively contributing to the economy and society of Binh Duong province.
Keywords: private sector, surplus value, exploitation, development dynamics, effective means
Đặt vấn đề
Lý luận giá trị thặng dư là một trong
những phát hiện vĩ đại của C.Mác. Nhưng
theo V.I.Lênin: “Chúng ta không thể coi lý
luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi
và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin
rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những người XHCN cần phát
triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn
trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” [3;
232]. Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác –
Lênin đã hướng cho chúng ta phải nghiên
cứu, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác
nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng
94
cho phù hợp với những điều kiện, những
mối quan hệ thực tế cụ thể, chứ không phải
phê phán phủ nhận nó.
Khẳng định tính đúng đắn về lý luận
giá trị thặng dư, không phải để nhằm kỳ thị
thành phần kinh tế tư nhân hiện nay. Mà
qua đó hiểu rõ mục đích, bản chất, động
lực của kinh tế tư nhân, để có chính sách
thích hợp, vừa khuyến khích nó phát triển,
vừa có chính sách quản lý và điều tiết hợp
lý để sử dụng kinh tế tư nhân. Qua đó, đòi
hỏi việc nhìn nhận lý thuyết thặng dư theo
thực tế phát triển của từng giai đoạn cho
phù hợp, từ đó đúc kết nhằm đưa đến một
cái nhìn mới theo hướng bổ sung phát triển
lý luận học thuyết kinh tế của Mác.
1. Khái quát về lý luận giá trị
thặng dư của Mác
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Học thuyết giá trị
thặng dư là viên đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác” [4; 55], mà học thuyết
kinh tế của Mác lại là nội dung chủ yếu của
học thuyết của chủ nghĩa Mác.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị
thặng dư của Mác và sự phát triển mạnh
của kinh tế tư nhân, chúng ta cần hiểu rằng:
giá trị thặng dư và bóc lột giá trị thặng dư
là hai phạm trù có tính chất khác nhau,
cũng là giá trị thặng dư nhưng trong quan
hệ kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư đó không thuộc về người lao
động mà đáng ra họ phải là người làm ra và
được thụ hưởng, mà phần lớn giá trị thặng
dư đó lại rơi vào túi những ông chủ tư sản.
Ngược lại thành phần kinh tế tư nhân trong
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
như ở nước ta hiện nay, giá trị thặng dư có
được dù là kinh tế tư bản nhà nước hay
kinh tế tư nhân tư bản, thì bằng cơ chế
quản lý nhà nước giá trị thặng dư đó vẫn
được phân phối lại một cách hợp lý, phù
hợp với luật pháp về quyền và nghĩa vụ
giữa người lao động và người thuê lao
động, như vậy, trong quan hệ sản xuất khác
nhau thì bản chất nó khác nhau như Mác đã
khẳng định bản chất bóc lột giá trị thặng dư
của Chủ nghĩa tư bản (CNTB) là không
thay đổi và học thuyết về trị thặng dư của
Mác vẫn còn nguyên giá trị, cho dù thời
gian và nền kinh tế của thế giới có những
biến động và thay đổi, hình thức bóc lột giá
trị thặng dư của CNTB có thay đổi, nhưng
bản chất bóc lột vẫn không hề thay đổi.
Ngày nay nhờ vào khoa học - công
nghệ nền kinh tế các quốc gia trên thế giới
đang phát triển mạnh, tạo ra lượng giá trị
thặng dư khổng lồ. Nhưng, chúng ta cần
nhận thức rằng vấn đề bóc lột hay không
bóc lột, không phải ở chỗ làm ra nhiều hay
ít giá trị thặng dư, mà ở chỗ phân phối giá
trị thặng dư đó như thế nào, kinh tế tư nhân
ở hai chế độ khác nhau, có phương thức
sản xuất khác nhau, quan hệ sản xuất, mục
tiêu xã hội khác nhau, thì giá trị thặng dư
và phần thụ hưởng trong việc phân phối lại
giá trị thặng dư cho người lao động (trong
tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư)
là không giống nhau.
Trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, sản xuất ra giá trị thặng dư và
bóc lột giá trị thặng dư là hai giai đoạn của
một quá trình bóc lột, trong cơ chế kinh tế
thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
đa dạng hình thức sở hữu ở nước ta hiện
nay, hai giai đoạn này cần được hiểu là tạo
ra giá trị thặng dư, là điều kiện cần để phát
triển giai đoạn tiếp theo là “phân phối lại
giá trị thặng dư” cho người lao động, trên
nguyên tắc thỏa thuận tự nguyện trong
khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng để có được giá
trị thặng dư thì trong bất kì xã hội nào cũng
cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư.
Trong đó, thành phần kinh tế tư nhân góp
phần không nhỏ (Bảng 1) cho sự tăng
trưởng nói chung của cả nền kinh tế hoạt
động theo quy luật của cơ chế thị trường.
95
Bảng 1: Tỷ trọng đóng góp của các thành phần kinh tế vào GDP Bình Dương
Đơn vị tính: %
Khu vực
kinh tế
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Trung
bình
Khu vực
nhà nước
16,08 14,37 13,43 25,50 24,45 28,32 20,36
Khu vực tư
nhân
13,25 44,06 44,34 32,80 34,06 33,87 38,73
Khu vực
FDI
40,68 41,58 42,23 41,70 41,49 37,81 40,91
Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Bình Dương, niên giám thống kê 2006, 2008 và báo cáo tình hình
KT-XH, AN-QP tỉnh Bình Dương năm 2009
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan
trọng cấu thành toàn bộ nền kinh tế. Tuy
nhiên, khi nói tới kinh tế tư nhân là chúng
ta thường nghĩ ngay đến vấn đề “bóc lột”.
Nhưng cần phải thấy rằng, một nền kinh tế
càng phát triển thì càng phải có giá trị
thặng dư mà kinh tế tư nhân hiện nay đóng
góp phần lớn giá trị thặng dư trong toàn bộ
nền kinh tế.
Hiện nay, “Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, cách tổ chức của kinh
tế xã hội, sản xuất hàng hoá cũng mang
tính quá độ. Nghĩa là, vừa có lợi ích của
nhân dân, vừa có lợi ích của tư nhân.
Nhưng dù là nền kinh tế hàng hoá nào thì
sản phẩm cũng đều mang hình thức giá trị
thặng dư, mặc dù chúng phản ánh những
quan hệ xã hội đối lập nhau. Trong đó, giá
trị thặng dư phản ánh mối quan hệ bóc lột
và bị bóc lột vẫn được coi là nhân tố”[8],
vừa là “chấp nhận được trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội”, vừa là “phương
tiện phát triển kinh tế của giai đoạn quá
độ”, và là “động lực làm giàu”. Chính vì
vậy, cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện
môi trường cho sự gia tăng khối lượng giá
trị thặng dư toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ
suất ngày càng cao, bên cạnh việc hoàn
thiện cơ chế quản lý phù hợp để phân phối
lại giá trị thặng dư ngày càng nhiều, giúp
cho người lao động được thụ hưởng ngày
càng tốt hơn nhũng thành quả do mình tạo
ra trong họat động lao động sản xuất chính
là điều mà chúng ta đang hướng tới.
2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân
Tỉnh Bình Dương trong thời gian qua
Có thể thấy đồng tiền chỉ trở thành
công cụ sinh lời nếu biết cách đầu tư đúng
hướng. Bất kỳ người lao động nào có tư
tưởng làm giàu cũng sẽ thành nhà tư bản
nếu biết sử dụng hợp lý tiền của mình
trong đầu tư, kinh doanh. Nếu chỉ để tích
lũy không đầu tư thì đó là đồng tiền chết,
không những không có lợi cho cá nhân đó
mà còn không có lợi cho những người cần
vốn đầu tư, sản xuất kinh doanh. Nhưng,
những thành quả trong hoạt động đầu tư,
kinh doanh trên một số lĩnh vực có lợi cho
người lao động ở tỉnh Bình Dương qua các
năm là điều cần phát huy tạo môi trường,
điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển.
Những thành tựu đạt được trên một số
lĩnh vực qua các năm
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
năm của các doanh nghiệp ngoài doanh
nghiệp nhà nước trên địa bàn Tỉnh theo
ngành kinh tế có ích cho an sinh xã hội của
96
Tỉnh qua các năm
Giáo dục & đào tạo: 2009 là 88 tỷ đồng;
2010 là 220 tỷ đồng; 2011 là 354 tỷ đồng.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội:
2009 là 290 tỷ đồng; 2010 là 969 tỷ đồng;
2011 là 1.064 tỷ đồng
Nghệ thuật, vui chơi giải trí: 2009 là
1.886 tỷ đồng; 2010 là 2.413 tỷ đồng; 2011
là 2.723 tỷ đồng
Khai thác, xử lý và cung cấp nước:
2009 là 3.239 tỷ đồng; 2010 là 4.221 tỷ
đồng; 2011 là 5.542 tỷ đồng
Thoát nước và xử lý nước thải: 2009 là
88 tỷ đồng; 2010 là 95 tỷ đồng; 2011 là 25
tỷ đồng
Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy
rác thải, tái chế phế liệu: 2009 là 39 tỷ đồng;
2010 là 101 tỷ đồng; 2011 là 183 tỷ đồng.
Qua các chỉ số nêu trên cho thấy, các
doanh nghiệp ngoài nhà nước đã đầu tư
vốn sản xuất kinh doanh, trên địa bàn tỉnh
trong những năm gần đây liên tục tăng và
nó là công cụ sinh lời cho dù là đầu tư vào
lĩnh vực nào thì qua đó nó cũng góp phần
tạo ra giá trị thặng dư không chỉ cho nhà
đầu tư, mà còn làm tăng thêm giá trị cho
các ngành, nghề, lĩnh vực có ích cho an
sinh xã hội trên địa bàn tỉnh.
C.Mác cho rằng: chỉ có lao động trực
tiếp trong lĩnh vực sản xuất vật chất mới
tạo ra giá trị, còn lao động ở khu vực lưu
thông (trừ giao thông vận tải) không sản
xuất ra giá trị và giá trị thặng dư, do đó lợi
nhuận mà các nhà tư bản ở khu vực này
nhận được là do nhà tư bản ở khu vực sản
xuất “nhường” cho. Ngày nay, cách hiểu
này cần được bổ sung khi thực tiễn đã có
sự thay đổi, nhận thức lý luận cũng cần
thay đổi bổ sung cho phù hợp. Đó chính là
sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
nay, không phải chỉ lao động ở khu vực sản
xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng,
mà cả lao động ở khu vực sản xuất ra các
dịch vụ, lao động quản lý cũng tạo ra giá trị
mới, trong đó cũng có thời gian lao động
cần thiết và thời gian lao động thặng dư.
Lao động tạo ra giá trị mới trong các doanh
nghiệp tư nhân ở Bình Dương rất phong
phú và đa dạng được thể hiện qua một số
hoạt động của các doanh nghiệp trên các
lĩnh vực sau:
Số doanh nghiệp ngoài nhà nước đang
hoạt động tại Bình dương
Doanh nghiệp – (Enterprise) tổng số
doanh nghiệp trong nước trên địa bàn Tỉnh
tính đến tháng 9/2013 là: 14.754 DN
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 có 1.300
DN; 2010 có 1.330 DN; 2011 có 1.310 DN.
Cơ cấu – Structure (%). Doanh nghiệp
tư nhân: 2009 là 20.06%; 2010 là 17.89%;
2011 là 15.10%.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
nước ngoài: 2009 có 1.234 DN; 2010 có
1.285 DN; 2011có 1.375 DN.
Cơ cấu – Structure (%) Doanh nghiệp
có 100% vốn đầu tư nước ngoài: 2009 là
19.33%; 2010 là 17.28%; 2011 là 15.85%.
Số doanh nghiệp đang hoạt động theo
ngành kinh tế ở một số lĩnh vực có lợi cho
an sinh xã hội.
Hoạt động trong lĩnh vực giáo dục &
đào tạo: 2009 có 27 DN; 2010 có 33 DN;
2011có 36 DN.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội:
2009 có 28 DN; 2010 có 33 DN; 2011có
36 DN.
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 là 712;
2010 là 730; 2011 là 765.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
nước ngoài: 2009 là 12.961; 2010 là
17.522; 2011 là 23.885.
Số cơ sở kinh tế cá thể: năm 2009 có
60.615 cơ sở; năm 2010 có 68.117 cơ sở;
năm 2011 có 72 832 cơ sở.
Như vậy, không chỉ có lao động trong
lĩnh vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị,
mà cả lao động sản xuất trong lĩnh vực phi
vật chất cũng tạo ra giá trị mới. Không chỉ
97
có lao động của công nhân trực tiếp sản
xuất ra sản phẩm mới tạo ra giá trị, mà cả
lao động nghiên cứu khoa học kỹ thuật
(C.Mác từng dự báo khoa học sẽ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp), lao động quản
lý doanh nghiệp cũng tạo ra giá trị mới.
Những hạn chế cần khắc phục
Những thành tựu trong đó có sự đóng
góp lớn của kinh tế tư nhân ở tỉnh Bình
Dương là điều đáng tự hào, khuyến khích
phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân ở
tỉnh Bình Dương cũng bộ lộ những hạn
chế, khó khăn cần khắc phục tháo gỡ như:
Trong cơ chế, quản lý của tỉnh chưa
đồng bộ, quyết liệt tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho doanh nghiệp, ví dụ như vụ
việc khiếu kiện kéo dài của doanh nghiệp
tư nhân Hằng Hữu có Công ty cổ phần Đại
Nam với lãnh đạo tỉnh Bình Dương
Chưa thật sự cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, do đó mức thu hút vốn đầu tư liên tục
bị tụt hạng so với các tỉnh thành khác trong
những năm gần đây.
Các giải pháp hỗ trợ, giúp đỡ doanh
nghiệp, việc tổ chức đối thoại, gặp gỡ
doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng để giải
quyết khó khăn, vướng mắc trong sản xuất,
kinh doanh còn mang tính hình thức.
3. Đề xuất quan điểm nhận thức về
lý luận giá trị thặng dư
Trong nhận thức về bóc lột giá trị
thặng dư
Chúng ta cần nhận thức đúng (không
phải nhận thức lại) khái niệm bóc lột và
bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết
Mác. Từ đó, có cơ sở khoa học để luận giải
những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện
nay. “Bóc lột” là một bộ phận người trong
xã hội hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm
đoạt không có bồi thường thành quả lao
động của một người khác hoặc của tập
đoàn xã hội. Do đó, thuộc tính bản chất
của bóc lột là “chiếm đoạt giá trị thặng
dư”, thành quả lao động của người khác,
không chỉ dựa vào tư liệu sản xuất hoặc tư
bản tiền tệ hoặc mọi thủ đoạn nhằm đạt
mục đích chiếm đoạt.
Phân phối sản phẩm, thành quả của lao
động, giá trị thặng dư là một phạm trù kinh
tế - xã hội, tính chất của chúng không hoàn
toàn giống nhau dưới các chế độ khác
nhau, trong những điều kiện sản xuất khác
nhau. Trong mối quan hệ này, nó thể hiện
quan hệ bóc lột giá trị thặng dư của người
này đối với người khác, trong mối quan hệ
khác, nó không phải là bóc lột. Điều đó là
do quan hệ sản xuất thống trị và chế độ
chính trị nơi mà nó tồn tại chi phối.
C.Mác chỉ rõ: nguồn gốc của giá trị
thặng dư do người lao động tạo ra, nhưng
không thuộc về người lao động, mà lại
thuộc về chủ “tư bản” đó là sự bóc lột hiểu
theo nghĩa: “bóc lột giá trị thặng dư”. Như
vậy, “bóc lột giá trị thặng dư” gắn liền với
“nền kinh tế thị trường” mà kinh tế thị
trường luôn có sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu,
vậy là khi nào nền kinh tế thị trường còn
tồn tại thì chừng đó phải hiểu bóc lột giá trị
thặng dư là còn lý do tồn tại dù muốn hay
không.
Điều này phần nào lý giải quan hệ bóc
lột chưa thể xóa bỏ ngay, chừng nào quan
hệ bóc lột còn có tác dụng như là sự giải
phóng sức sản xuất và kích thích, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó
chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện
của nó. Ngày nay, trong xu thế hội nhập
sâu rộng nền kinh tế thế giới chúng ta phải
học tập kinh nghiệm trong quá trình quản
lý sản xuất của các nhà tư bản để sản xuất
ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với lý luận của
V.I.Lênin: “Tri thức về chủ nghĩa xã hội thì
chúng ta có, nhưng chúng ta chưa có tri
thức về tổ chức với quy mô hàng triệu
người, chưa có tri thức về tổ chức và phân
98
phối sản phẩm... Cho nên chúng ta nói: dù
hắn là tên đại bịp bợm, nhưng một khi hắn
là một thương nhân đã từng làm công việc
tổ chức sản xuất và phân phối cho hàng
triệu và hàng chục triệu người, một khi hắn
có kinh nghiệm thì chúng ta phải học ở
hắn” [5; tr. 314-315].
Trong nhận thức về kinh tế tư nhân
Theo V.I.Lênin, không thể “ngăn cấm,
triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự
trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh,
tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa
tư bản, một sự phát triển không thể tránh
được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ.
Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát
đối với Đảng nào muốn áp dụng nó. Dại
dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách
ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát,
vì những Đảng nào định thi hành một
chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá
sản”. Hơn nữa “một nước ở dưới sự lãnh
đạo chính trị của giai cấp vô sản” thì “có
thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân (chứ
đừng nói gì chủ nghĩa tư bản nhà nước
nữa) để xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, “chủ
nghĩa tư bản tư nhân mà lại đóng vai trò trợ
thủ cho chủ nghĩa xã hội? “Nhưng điều đó
không có gì là ngược đời cả, đó là một sự
thật kinh tế hoàn toàn không thể chối cãi
được”.
Cần phải nhận thức rằng, dù bất kỳ
một thể chế kinh tế nào cũng không bao
giờ là mục đích của nhân loại, kể cả kinh tế
thị trường cũng không phải là ngoại lệ,
trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, nó
chỉ là phương tiện để con người phát triển
kinh tế, phát triển xã hội, ở nước ta hiện
nay kinh tế tư nhân đã trở thành một
phương tiện cực kỳ hiệu quả để phát triển
kinh tế và xã hội, được nhà nước tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp
pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ,
tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản
lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo
pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
Kinh tế tư nhân đã được khẳng định là
nền tảng, động lực để phát triển kinh tế.
Dưới chế độ tư bản, nó chịu ảnh hưởng của
chế độ tư bản nên những nhà doanh nghiệp
mang tính chất tư bản. Kinh tế tư nhân ở
Bình Dương được sinh ra từ trong lòng của
chế độ Chủ nghĩa xã hội, do chủ trương
của Đảng, chịu sự quản lý của Nhà nước
nên nó không chỉ tạo ra lượng giá trị thặng
dư lớn mà còn tạo ra những lợi ích lớn cho
an sinh xã hội như: tạo việc làm, khuyến
khích sự sáng tạo trong lao động sản xuất,
xóa đói giảm nghèo, góp phần ổn định kinh
tế - xã hội của địa phương
Việc thừa nhận sự tiến bộ, hợp pháp
của kinh tế tư nhân và khuyến khích nó
phát triển là khuyến khích sản xuất ngày
càng nhiều giá trị mới làm giàu chính đáng
cho cá nhân, khuyến khích sự phát triển
kinh tế - xã hội, chứ không phải là khuyến
khích sự bóc lột. Đó là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân ở Bình Dương
hiện nay.
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư
trong thực tế phát triển kinh tế tư nhân ở
tỉnh Bình Dương
Trong kinh tế tư nhân phần lãi thu
được của chủ doanh nghiệp sau khi trừ chi
phí, khấu hao tài sản cố định, giá trị dôi ra
có được đó chính là bóc lột giá trị thăng
dư. Tiền lãi cao, nếu tiền lương trả cho
công nhân thấp. Vì vậy, bóc lột giá trị
thặng dư chính là nguồn gốc đẻ ra sự phân
cực về mọi mặt ngày càng lớn giữa người
lao động và thuê lao động, tồn tại trong nền
kinh tế thị trường là điều mà chúng ta cần
phải có cơ chế quản lý phù hợp để hạn chế
bóc lột khi chưa thể xóa bỏ.
Đối với người lao động, nhà đầu tư
đầu tư dưới các hình thức như cổ phiếu,
99
trái phiếu, tiền gửi ngân hàng thu được lợi
tức cổ phần, lợi tức trái phiếu, lợi tức tiền
gửi, người làm công tác khoa học - kỹ
thuật đầu tư dưới hình thức bằng tri thức và
kỹ thuật chuyên môn cao dành được thu
nhập cao, thì những hình thức thu nhập này
suy cho cùng là phân phối lại giá trị thặng
dư, bởi họ sở hữu các yếu tố sáng tạo ra nó.
Như vậy, không thuộc về bóc lột cần được
khuyến khích phát triển. Điều đó được thể
hiện qua các hoạt động như:
Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp đang hoạt động phân
theo loại hình doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Dương
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 đạt
13.676 tỷ đồng; 2010 đạt 217.190 tỷ đồng;
2011 đạt 19.838 tỷ đồng.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài: 2009 đạt 44.60 tỷ đồng; 2010 đạt
43.78 tỷ đồng; 2011 đạt 43.55 tỷ đồng.
Chấp nhận sự tồn tại bóc lột giá trị
thặng dư chính là tiền đề để giải quyết một
số vấn đề thực tiễn cơ bản. Doanh nghịêp
dân doanh sẽ không thể phát triển mạnh
được, đầu tư nước ngoài cũng sẽ không thể
thu hút (bảng 2) nhiều được nếu họ không
đạt được mức tối thiểu về lãi, lãi càng cao
tỷ lệ thuận với việc đầu tư càng nhiều. Nên
mọi nỗ lực của Tỉnh trên lĩnh vực này
muốn có hiệu quả, phải nhằm vào mục tiêu
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Bảng 2: Bảng tổng hợp thu hút đầu tư, tổng chi ngân sách qua các năm Tỉnh Bình Dương
Các tiêu chí so sánh
Năm
2010
Năm 2011
Năm
2012
Năm
2013
Năm
2014
Thu hút đầu tư trong nước 6.281
tỷ đồng
26.300
tỷ đồng
11.331
tỷ đồng
14.387
tỷ đồng
9.925
tỷ đồng
Thu hút đầu tư nước ngoài 1,050
tỷ USD
889 triệu
USD
2,609
tỷ USD
1, 320
tỷ USD
1, 530
tỷ USD
Tổng chi ngân sách Nhà nước 6.600
tỷ đồng
8.000
tỷ đồng
9.500
tỷ đồng
10.000
tỷ đồng
11.500
tỷ đồng
Nguồn niên giám thống kê Tỉnh Bình Dương 2012 và báo cáo tình hình KT-XH Tỉnh Bình Dương
năm 2014
Qua so sánh (bảng 2) cho thấy trong
khi tổng chi toàn xã hội từ nguồn ngân sách
còn hạn hẹp hoặc tăng không đáng kể, thì
thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài
tăng mạnh, góp phần không nhỏ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh qua các năm.
Vì vậy, nếu không chấp nhận bóc lột
giá trị thặng dư thì không thể giải quyết
được cơ bản, lâu dài vấn đề phát triển về
vốn, về tăng trưởng. Khi người dân có tiền
gửi ngân hàng, mua bán bất động sản, buôn
bán kinh doanh ...có lợi nhuận, chính là cái
đẻ ra lãi – từ đó đẻ ra “bóc lột giá trị thặng
dư” và do đó ngày càng giàu thêm, làm cho
dân giàu, nước mạnh, kinh tế - xã hội phát
triển (C.Mác, không phân biệt lãi và lợi
nhuận vì đều coi chúng là thuộc giá trị thặng
dư). Chính vì vậy, nếu không chấp nhận
“bóc lột giá trị thặng dư” để kích thích làm
giàu của người có vốn và điều gì sẽ xẩy ra
nếu không người có vốn không đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Như vậy, việc làm, thu
nhập, tệ nạn, an sinh xã hội... sẽ được giải
quyết như thế nào.
100
Số lao động trong các doanh nghiệp
đang hoạt động phân theo loại hình doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân
trong Tỉnh có lợi cho an sinh xã hội và tăng
trưởng kinh tế - xã hội địa phương
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 là 4.330
người; 2010 là 3.806 người; 2011 là 3.967
người.
Cơ cấu – Structure (%) 2009 là 0.64%;
2010 là 0.52%; 2011 là 0.51%.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
2009 là 372.957 người; 2010 là 409.915
người; 2011 là 452.218 người. Cơ cấu –
Structure (%) 2009 là 55.27%; 2010 là
55.97%; 2011 là 57.80%.
Số lao động trong các cơ sở kinh tế cá
thể: 2009 có 100.325 người; năm 2010 có
118.840 người; năm 2011 có 126.812 người.
Số lao động trong các doanh nghiệp
đang hoạt động phân theo ngành kinh tế
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử
lý rác thải, nước thải: 2009 là 1.124 người;
2010 là 1.195 người; 2011 là 1.216 người.
Giáo dục & đào tạo: 2009 là 445 người;
2010 là 514 người; 2011 là 733 người.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: 2009
là 1.175 người; 2010 là 1.745 người; 2011
là 2.177 người.
Nghệ thuật, vui chơi giải trí: 2009 là
1.710 người; 2010 là 1.783 người; 2011 là
1.911 người.
Trong thực tế nguồn gốc lợi nhuận đâu
chỉ do mình sức lao động người công nhân,
nông dân lao động làm ra mà ở đó còn có sự
hiện diện của trí tuệ, chất xám, kinh nghiệm,
quản lý....Nếu công nhận việc chủ doanh
nghiệp tư nhân thuê lao động là bóc lột thì ít
nhất, đó cũng là hình thức bóc lột mọi người
đều chấp nhận được, luật pháp thừa nhận,
bảo vệ và là thỏa thuận tự nguyện giữa
người lao động và ông chủ (đôi bên cùng có
lợi dù không công bằng), về nhận thức cần
có quan điểm coi đó là làm giàu hợp pháp
mà chính sách nhà nước kêu gọi, khuyến
khích, đầu tư, thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước (Bảng 3), xuất khẩu lao động.
Bảng 3: Vốn đầu tư của các khu vực kinh tế tư nhân cho các ngành kinh tế có ích cho
vấn đề an sinh xã hội của Tỉnh qua các năm
Vốn đầu tư của các khu vực kinh tế tư nhân
cho các ngành kinh tế
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước 7.968 tỷ đồng 14.223 tỷ đồng 18.246 tỷ đồng
Vốn của tổ chức doanh nghiệp ngoài nhà nước 5.967 tỷ đồng 11.931 tỷ đồng 14.094 tỷ đồng
Vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài 14.015 tỷ đồng 12.667 tỷ đồng 17.438 tỷ đồng
Vốn của dân cư
2.001 tỷ đồng 2.293 tỷ đồng 4.152 tỷ đồng
Vốn đầu tư cho giáo dục
548 tỷ đồng 559 tỷ đồng 823 tỷ đồng
Vốn đầu tư cho y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 461 tỷ đồng 447 tỷ đồng 546 tỷ đồng
Vốn đầu tư cho nghệ thuật, vui chơi giải trí 344 tỷ đồng 331 tỷ đồng 393 tỷ đồng
Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Bình Dương 2012
101
Trong kinh doanh, đầu tư thậm chí chủ
doanh nghiệp tư nhân còn phải chấp nhận
đầu tư kinh doanh mạo hiểm thua lỗ do giá
cả bấp bênh, biến động thị trường và các
nguy cơ phá sản do thua lỗ, tác động từ sự
thiếu ổn định và thiếu chuyên nghiệp của
thị trường lao động hoặc do các tai nạn lao
động và thiên tai bất thường, tác động của
tình hình kinh tế thế giới v.v... thì có lãi
cao hoặc phá sản trắng tay, ta thấy (bảng 2)
vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
không phải năm nào cũng tăng năm 2010
là 14.015 tỷ đồng, năm 2011 là 12.667 tỷ
đồng, nếu đầu tư có lời số vốn đầu tư sẽ
tiếp tục tăng tăng, nhưng vì các nguyên
nhân như đã phân tích ở trên nên vốn đầu
tư có những năm không những không tăng
mà còn giảm. Vậy, người chủ doanh
nghiệp “đáng” được hưởng để “bù đắp” rủi
ro và cũng “đáng” phải chịu nếu rủi ro vì
dám làm dám chịu mà người lao động
không thể chịu thay được.
Nếu cho rằng đầu tư phải có lợi nhuận,
mà có lợi nhuận (lãi là hình thức biến
tướng của giá trị thặng dư) là bóc lột, thì
không đầu tư mà gửi tiền vào ngân hàng
cũng có lãi và lấy lãi để chi tiêu, chắc chắn
người lao động sẽ phản đối vì mất việc làm
không có thu nhập để đảm bảo cuộc sống.
Tỷ lệ thất nghiệp của Tỉnh qua các năm:
năm 2010 là 2.60%; năm 2011 là 2.35%;
2012 là 2.15%. Năm 2013 giải quyết việc
làm mới cho trên 46.000 lao động. Về bảo
hiểm thất nghiệp, đã giải quyết chi trả cho
46.987 người hưởng trợ cấp thất nghiệp với
số tiền 365 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm
2014 đã giải quyết việc làm mới được
57.200 người, hỗ trợ học nghề cho 836
người, chi bảo hiểm xã hội 3.031 tỷ đồng,
chi hưởng bảo hiểm thất nghiệp 356 tỷ đồng
cho 49.700 lượt lao động.
C.Mác chỉ ra rằng: "Nơi nào mà một
bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những
tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động,
tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm
vào thời gian lao động cần thiết để nuôi
sống bản thân mình một số thời gian lao
động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu
sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản
xuất"[2, 347]. Như vậy, trong điều kiện
hiện nay ở Bình Dương việc chấp nhận
khái niệm “bóc lột” không còn là điều né
tránh. Vấn đề là thu lại giá trị thặng dư (thu
qua thuế) và phân phối giá trị thặng dư
(đầu tư cho an sinh xã hội, nâng chất lượng
cuộc sống nhân dân trong toàn Tỉnh) đó
như thế nào và phân phối có công bằng hay
không mà thôi.
Bất cứ doanh nghiệp tư nhân nào, ở bất
kỳ địa phương nào cũng phải thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước bằng việc đóng thuế.
Thuế lấy từ đâu, từ giá trị thặng dư (m).
Thu ngân sách qua thuế của tỉnh Bình
Dương qua các năm:
Thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: năm 2010 là
11.936.7 tỷ đồng; năm 2011 là 14.033.5 tỷ
đồng; năm 2012 là 15.500.0 tỷ đồng.
Thu từ thuế thu nhập cá nhân: năm 2010
là 1.196.9 tỷ đồng; năm 2011 là 1.808.9 tỷ
đồng; năm 2012 là 2.129.8 tỷ đồng.
Thu ngân sách Nhà nước 2013 ước
thực hiện 29.000 tỷ đồng, đạt đạt 100% dự
toán tỉnh, tăng 17%.
Tổng thu ngân sách tính đến tháng
9/2014 ước thực hiện 23.000 tỷ đồng đạt
73,2% dự toán Trung ương giao, 73% dự
toán HĐND tỉnh.
Hiện nay thiết chế pháp lý về nguyên
tắc phân chia số tiền dôi ra này ở Bình
Dương không diễn ra như trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà phù hợp
với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sản xuất và phân phối giá trị thặng dư
trong chủ nghĩa tư bản và trong kinh tế tư
nhân ở Bình Dương hiện nay, hoàn toàn
102
không giống nhau nên cần thiết phải tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh, có sự
kiểm soát của nhà nước thông qua các công
cụ quản lý nhằm giảm thiểu thặng dư có
tính bóc lột.
Qua con số sau chúng ta sẽ thấy được
tỷ lệ giảm nghèo (là Tỉnh có chuẩn nghèo
riêng so với chuẩn nghèo cả nước) và đầu
tư cho an sinh xã hội của Tỉnh trong những
năm qua
Tỷ lệ hộ nghèo: 2008 là 0.4%; năm
2010 là 0.5%; năm 2012 là 0.2%. Tính đến
tháng 9/2013. Toàn Tỉnh hiện có 3.615 hộ
nghèo tỷ lệ 1,36%, đến cuối năm 2013, tỷ
lệ hộ nghèo còn 0,79% và triển khai xây
dựng chuẩn nghèo mới giai đoạn 2014-
2015. (năm 2012 là 3.600 hộ nghèo, chiếm
tỷ lệ 1,42%) và 5.762 hộ cận nghèo (tỷ lệ
2,17%).
Trong năm học 2013-2014, toàn Tỉnh
có 472 đơn vị (năm 2012-2013 là 454),
trường học, tăng 16% trường mầm non,
01 trường THPT và tăng khoảng 22.600
học sinh so với năm học trước. Tỷ lệ
trường công lập được lầu hóa đạt 59,6%,
đã công nhận 23 trường đạt chuẩn quốc
gia. Trong năm 2013 tổng số lượt người
đến khám chữa bệnh hơn 6,46 triệu lượt,
đạt 110% kế hoạch, trong 9 tháng đầu
năm 2014 đã tổ chức khám bệnh cho hơn
4,6 triệu lượt người.
Phân phối thu nhập cho người lao
động và chi cho an sinh xã hội của Tỉnh
Thu nhập bình quân đầu người một
tháng theo giá hiện hành: 2008 là 1.929
nghìn đồng; 2010 là 2.698 nghìn đồng;
2012 là 3.591 nghìn đồng.
Khoảng cách thu nhập giữa nhóm thu
nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất:
2008 là 6 lần; 2010 là 7 lần; 2012 là 6 lần.
Trong năm 2013, đã huy động khoảng
635 tỷ đồng cho hoạt động chăm sóc người
có công, các đối tượng xã hội.
Trong năm 2014, đã chi khoảng 570 tỷ
đồng (trong đó ngân sách chi khoảng 470
tỷ đồng) cho hoạt động chăm sóc người có
công, các đối tượng xã hội; xây dựng mới
và sửa chữa 32 căn nhà tình nghĩa và 112
nhà đại đoàn kết; tặng trang thiết bị thiết
yếu cho gia đình chính sách. Tổ chức lễ
phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho
398 mẹ trên địa bàn tỉnh.
Cần phải hiểu bóc lột hay không,
không thể hiện trong chính sự phân phối ấy,
đầu tư cho các lĩnh vực an sinh xã hội từ
các nguồn thu, mà để có nguồn thu thì phải
có chính sách phù hợp thu hút vốn đầu tư,
trong đó bao gồm cả phân phối điều kiện
sản xuất và phân phối kết quả sản xuất.
Như vậy, kinh tế tư nhân có tính chất
vừa tiến bộ, cần phải khuyến khích phát
triển, vừa bóc lột giá trị thặng dư nên còn
sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa công nhân
lao động và người sử sụng lao động.
Nhưng không vì thế mà ngăn cản sự phát
triển của nó. “Đấu tranh chống chủ nghĩa
tư bản, không phải bằng cách “làm chậm”
sự phát triển của nó lại, mà là bằng cách
đẩy nhanh sự phát triển của nó lên, không
phải là từ phía sau mà là từ phía trước,
không phải theo hướng phản động, mà theo
hướng tiến bộ”. Bởi vì “do chính ngay
những quy luật phát triển của chủ nghĩa tư
bản mà chế độ xã hội chủ nghĩa nhất định
phải phát sinh”[8].
Kết luận
Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư
vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa quan
trọng, trong sự nghiệp xây dựng nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết
này luôn trở thành một việc làm cần thiết,
khai thác và bổ sung lý luận trong học
thuyết giá trị thặng dư về nền kinh tế hàng
hoá là việc làm phù hợp với giai đoạn quá
103
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Kinh tế tư nhân đang hình thành những
loại hình đa dạng và phong phú, đặc trưng
cho mỗi giai đoạn phát triển của đời sống
xã hội. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân
cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng
phong phú của đời sống kinh tế, xem nó
như là cơ sở, động lực, nguồn gốc của mọi
sự phát triển xã hội. Cần phải có cái nhìn
khách quan hơn về kinh tế tư nhân, trong
quá trình đổi mới vì kinh tế tư nhân đã và
đang góp phần không nhỏ, là động lực quan
trọng để phát triển kinh tế của Tỉnh nhà.
Cần phải có các công cụ đủ mạnh để
quản lý kinh tế thị trường, rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo, phân phối giá trị lao động
công bằng, giảm thiểu và dần xóa bỏ bóc
lột không để “bóc lột” trở thành bản chất
xã hội, xóa bỏ độc quyền, cạnh tranh lành
mạnh, áp dụng phương pháp sản xuất giá
trị thăng dư tương đối tức là phương pháp
phải ứng dụng tiến bộ khoa học nâng cao
năng suất, để rút ngắn thời gian tất yếu, do
đó thời gian thặng dư sẽ kéo dài ra và sản
phẩm thặng dư sẽ nhiều hơn thúc đẩy kinh
tế phát triển.
Như vậy, “Sự tồn tại của các quan hệ
bóc lột trong nền kinh tế là một tất yếu lịch
sử tùy thuộc vào tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Bởi vậy, việc vận dụng
nó cũng giống như vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan. Vận dụng đúng nó sẽ
là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững. Nếu vận dụng sai thì
hoặc là nhà tư bản không có động lực đầu
tư sản xuất, hoặc là người lao động không
có động lực để tham gia quá trình sản xuất
ra sản phẩm hàng hóa, thì xã hội sẽ bị đình
đốn. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tư
bản và lao động trong việc xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là bảo đảm sự hài hòa về
lợi ích giữa các bên (nhà doanh nghiệp,
người lao động và xã hội) và thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển của lực lượng
sản xuất”[6].
Lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển,
nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi
trường tốt để con người tự thân phát triển,
con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự
phát triển của chính nó và thông qua đó
phát triển toàn xã hội. Đó chính là giá tri
nhân văn chân chính của kinh tế tư nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm
2010, 2012, Cục thống kê tỉnh Bình Dương,
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình
Dương năm 2014 của UBND tình Bình
Dương, được sử dụng làm nguồn trích dẫn số
liệu để phân tích, viện dẫn trong bài viết.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập (1993), tập
23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
3. V.I Lê nin Toàn tập (1974), tập 4, Nxb Tiến
bộ, Matxcơva - Sự thật, Hà Nội.
4. V.I Lê nin Toàn tập (1980), tập 23, Nxb Tiến
bộ, Matxcơva, Sự thật, Hà Nội.
5. V.I Lê nin Toàn tập (1977), tập 36, Nxb Tiến
bộ, Matxcơva - Sự thật, Hà Nội.
6. Lê Quang Diên (2012), Sự cần thiết và những
hướng khai thác khi vận dụng học thuyết giá
trị thặng dư của C.Mác trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tập 72B số 3
năm 2012.
7. Phạm Phụ (2001), Giá trị thặng dư và vấn đề
bóc lột ở Việt Nam, Kiến nghị gửi “Hội đồng lý
luận TW” truy cập tại www.old.voer.edu.vn
8. Đỗ Thế Tùng, Cần nhận thức rõ hơn về kinh
tế tư nhân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh truy cập tại www.cpv.org.vn.
Ngày nhận bài: 10/10/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_thang_du_qua_thuc_tien_phat_trien_kinh_te_tu_nhan_ti.pdf