KẾT LUẬN
Về mô tả các cấu trúc
Thần kinh XI:
Luôn có mặt trong TGCS và đi vào TGCS ở trên TK
tai lớn(100%).
Đại đa số đi ở mặt sâu cơ ƯĐC (96,67%), rất ít khi đi
xuyên qua cơ này (3,33%).
TK XI thường cho nhánh bên trong vùng TGCS (75%).
Đám rối cổ
Thường đi vào TGCS một cách phân tán (80%). Có thể
cho nhánh đến cơ thang (25%), cơ ƯĐC (31,67%) hoặc
nhánh nối với TK XI (33,33%).
Đám rối cánh tay
ĐRCT thường có ít biến đổi về nguyên ủy và cấu tạo
trong TGCS (chỉ 15% cú sự tham gia của C4 vào ĐRCT
và 5% rễ C6 tách đôi).
Các rễ của ĐRCT không phải luôn luôn đi qua khe giữa
cơ bậc thang trước và cơ bậc thang giữa (15% rễ C5 xuyên
qua cơ bậc thang trước, 5% cả rễ C5 và C6 xuyên qua cơ
bậc thang trước để tham gia đám rối).
Đối với các nhánh bên trên đòn của ĐRCT: đa số TK
trên vai có nguyên ủy từ thân trên (90%) và TK ngực dài
chủ yếu có nguyên ủy từ C6 và C7 (67%).
Về một số kết quả đo đạc:
Dọc bờ sau cơ ƯĐC, TK XI cách đầu ức xương đòn
114,91mm, cách TK tai lớn 10,38mm, cách xương đòn
83,19mm.
Dọc bờ trước cơ thang, TK XI cách xương đòn
33,49mm.
Dọc bờ sau cơ ƯĐC, thân trên cách xương đòn
31,61mm. Vị trí nó bắt chéo bờ sau xương đòn cách đầu
ức xương này 62,06mm.
Tại nguyên ủy, TK trên vai cách vị trí thân trên bắt
chéo bờ sau cơ ƯĐC 20,06mm. Tại nơi bắt chéo bờ sau
xương đòn, nó cách đầu ức xương này 78,3mm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải phẫu ứng dụng đám rối thần kinh cánh tay, đám rối cổ và thần kinh xi trên xác người Việt Nam trưởng thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013
268
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Hồng Hà
giải phẫu Ứng dỤng Đám rối thần Kinh cánh tay, 
Đám rối cổ và thần Kinh Xi trên Xác người viỆt 
nam trưỞng thành
Nguyễn Viết Ngọc*, 
Vũ Thành Trung**, 
Lê Mạnh Thường**, 
Chế Đình Nghĩa*, 
Nguyễn Văn Huy** 
* Bệnh viện TƯQĐ 108
** Trường Đại học Y 
Hà Nội
Email: 
hoangkolpinghauss1 
@yahoo.com
Ngày nhận: 05 - 9 - 2014
Ngày phản biện: 22 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Ñaët vaán ñeà: Trong phaãu thuaät chuyeån, gheùp, noái thaàn kinh ñieàu trò toån thöông ñaùm roái 
caùnh tay (ÑRCT), hieåu bieát veà bieán ñoåi giaûi phaãu cuûa caùc ñaùm roái coå (ÑRC), ÑRCT vaø 
thaàn kinh XI (TK XI) coù yù nghóa laâm saøng quan troïng. Muïc tieâu nghieân cöùu naøy laø ñeå 
(1) Moâ taû caùc daïng caáu taïo giaûi phaãu cuûa ñaùm roái TK caùnh tay, ÑRC vaø TK soï XI. (2) 
Caùc khoaûng caùch coù yù nghóa töø caùc TK tôùi caùc moác giaûi phaãu giuùp ích cho phaãu thuaät 
phuïc hoài ñaùm roái TK caùnh tay
Ñoái töôïng vaø Phöông phaùp: Trong baùo caùo naøy, ÑRC vaø ÑRCT cuøng TK XI ñöôïc 
phaãu tich nghieân cöùu ôû 60 vuøng coå-naùch cuûa 30 xaùc ngaâm formalin ñaõ ñöôïc boäc loä vaø 
moâ taû nhaèm 2 muïc tieâu nghieân cöùu
Keát quaû: TK XI: Luùc ñi qua tam giaùc coå sau, noù taùch ra 1-3 nhaùnh tôùi cô thang ôû 
ña soá phaãu tích; khoaûng caùch trung bình töø ñieåm hieän ra ôû bôø sau cô öùc ñoøn chuõm 
(CÖÑC) cuûa noù tôùi ñaàu öùc xöông ñoøn, tôùi ñieåm caét giöõa xöông ñoøn vôùi bôø ngoaøi 
CÖÑC, tôùi ñieåm caét giöõa xöông ñoøn vôùi bôø tröôùc cô thang vaø tôùi ñieåm loä ra cuûa thaàn 
kinh tai lôùn laàn löôït laø 114,91 ± 9,16 mm, 83,19± 10,83 mm, 33,49 ± 8,55 mm vaø 
10,38 ± 4,78 mm. 
- ÑRC: Caùc nhaùnh noâng cuûa ÑRC hieän ra ôû bôø sau CÖÑC khaù phaân taùn, chæ chuïm gaàn 
nhö ôû moät ñieåm ôû 12/60 phaãu tích. Caùc nhaùnh saâu: (i) coù bieán ñoåi veà nguyeân uûy cuûa 
caùc nhaùnh tôùi CÖÑC (töø C2-4 hoaëc chæ töø C4); (ii) bieán ñoåi veà caáu taïo thaàn kinh hoaønh 
(khoâng nhaän nhaùnh töø C5 ôû 42/60 phaãu tích); bieán ñoåi veà tieáp noái vôùi TK XI (chæ thaáy 
tieáp noái ôû 1/3 soá phaãu tích). 
- ÑRCT: Khoâng coù bieán ñoåi ñaùng keå naøo ñoái vôùi caùc reã, caùc thaân vaø caùc boù cuûa ÑRCT. 
C4 tham gia thaân treân ôû 9/60 phaãu tích. C6 taùch ñoâi ôû 3/60 phaãu tích nhöng caû hai vaãn 
keát hôïp vôùi C5 nhö bình thöôøng. C5 xuyeân qua cô baäc thang tröôùc thay vì ñi giöõa hai cô 
ôû 9/60 phaãu tích. Khoaûng caùch töø choã thaân treân baét cheùo xöông ñoøn ñeán ñaàu öùc xöông 
ñoøn laø 62,06 ± 7,93 mm, vaø töø choã noù hieän ra ôû bôø sau CÖÑC tôùi bôø ngoaøi choã baùm cuûa 
CÖÑC vaøo xöông ñoøn laø 31,61 ± 10 mm. Vôùi caùc nhaùnh treân ñoøn cuûa ÑRCT, thaàn kinh 
treân vai coù theå taùch sôùm töø C5 hoaëc muoän töø phaàn tröôùc thaân treân (5/60 phaãu tích). Vò 
trí nguyeân uûy cuûa noù thöôøng ôû treân xöông ñoøn nhöng coù theå ôû sau xöông ñoøn (3/60 
phaãu tích). Trung bình, noù rôøi thaân treân ôû caùch choã thaân treân hieän ra ôû bôø sau CÖÑC 
20,1 ± 8,12 mm.
Keát luaän: khoâng coù bieán ñoåi ñaùng keå aûnh höôûng tôùi vieäc tìm kieám caùc thaàn kinh lieân 
quan ñeán caùc phaãu thuaät chuyeån, gheùp, noái thaàn kinh. Khoaûng caùch caùc vò trí ñoái chieáu 
cuûa caùc thaàn kinh tôùi caùc moác giaûi phaãu coù theå ñöôïc coi nhö caùc soá lieäu tham chieáu khi 
phaãu thuaät.
Töø khoùa: Giaûi phaãu; Thaàn kinh; Ñaùm roái thaàn kinh caùnh tay
TÓM TẮT
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
269
Nguyen Viet Ngoc, 
Vu Thanh Trung, 
Le Manh Thuong, 
Che Dinh Nghia, 
Nguyen Van Huy 
surgical anantomy of cervical and brachial pleXus and 
cranial nerve Xi in adult vietnamese cadavers
AbstrAct
Background: In neurosurgery of nerve grafting, transfer and anastomosis to treat 
brachial plexus injuries, understanding on anatomical variations of the cervical and 
brachial plexuses and the cranial nerve XI (CN XI) are of clinical importance. The 
aim of this study was to (1) assess anatomical variations of the cervical and brachial 
plexuses and the CN XI. (2) and to identify the distances from these nerves to anatomical 
landmarks that are of surgical significance
Material and Methods: In this research, the cervical and brachial plexuses and the CN 
XI in 60 cervical and axillary regions of 30 formalin-fixed cadavers were exposed and 
described 
Results: (1). CN XI: In 75% of dissections, 1-3 collateral branches were sending off 
to the trapezoid muscle while the nerve was passing the posterior cervical triangle. 
The evarage distances from the emerging point of CN XI at the posterior border of the 
sternocleidomastoid muscle (SM) to the sternal end of clavicle, to the cutting points of 
clavicle with posterior border of the SM and anterior border of the trapezius muscle, and 
to the emerging point of the great auricular nerve were 114,91 ± 9,16 mm, 83,19± 10,83 
mm, 33,49 ± 8,55 mm and 10,38 ± 4,78 mm respectively. (2) Cervical plexus: Superficial 
branches emerging at posterior border of SM as almost at one point were observed only 
in 12/60 dissections; for the rest cases, they did not converge. Deep branches: There 
were variations (i) in origin of branches to the SM (may be from C2-4 or from C4); (ii) 
in formation of the phrenic nerve (no participation from C5 in 42 dissections); (iii) in 
anastomosis with CN XI (were observed only in one third of dissections). (3) Brachial 
plexus: There were not considerable variations on roots, trunks and cords of the brachial 
plexus. C4 joined the superior trunk in 9/60 dissections. C6 bifurcated in 3/60 dissection 
but these both united still with C5 as usual. C5 perforated the anterior scalene muscle 
in 9/60 dissections instead of travelling between it and the middle. The distance from 
the point where the superior trunk crosses the clavicle to the sternal end of this bone 
was 62,06 ± 7,93 mm, and from it’s emerging point at the posterior the SM to the lateral 
border of it’origin to the clavicle was 31,61 ± 10 mm. The most important supraclavicular 
branch – the suprascapular nerve – might origin from C5 or from anterior division of 
the superior trunk. It’s origin was often at supraclavicular level but might be posterior to 
the clavicle (3/60 dissections). In average, it leaved the superior trunk after this one had 
gone beyond the posterior border of the SM 20,1 ± 8,12 mm. 
Conclusions: There were no considerable variations that can cause difficulty for 
searching nerves related to transfer, grafting or anatomosing operations; measurements 
of correlative distances from the nerves to the anatomical landmarks can be used as 
reference data.
Keyword: Anatomy; Nerve, Brachial plexus
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
270
i. ĐặT vấN Đề
Cùng với sự gia tăng của tai nạn giao thông và tai 
nạn lao động, các tổn thương của đám rối TK cánh 
tay ở người trưởng thành ngày càng trở nên không 
hiếm gặp. Đặc biệt ở các chấn thương vùng cổ-vai 
gáy nhổ hoặc đứt hoàn toàn hay một phần các rễ của 
đám rối, điều trị ngoại khoa là phương pháp duy nhất 
có thể mang đến hi vọng cho người bệnh. Để chẩn 
đoán đúng, chỉ định điều trị và điều trị ngoại khoa 
hiệu quả, đòi hỏi phải nắm vững giải phẫu của đám 
rối TK cánh tay. Tuy nhiên, cấu trúc này thường có 
biến đổi về cấu tạo và các rễ tham gia. 
Vì vậy, cùng với đám rối TK cổ và TK XI là một 
trong số các cân nhắc về nguồn cho đối với phẫu thuật 
chuyển ghép, nối TK trong điều trị tổn thương đứt, 
nhổ các rễ đám rối TK cánh tay, chúng tôi thực hiện 
đề tài: “ Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng của đám rối 
TK cánh tay, ĐRC và TK sọ XI trên xác người Việt 
Nam trưởng thành” với mục tiêu:
1. Mô tả các dạng cấu tạo giải phẫu của đám rối 
TK cánh tay, ĐRC và TK sọ XI.
2. Các khoảng cách có ý nghĩa từ các TK tới các 
mốc giải phẫu giúp ích cho phẫu thuật phục hồi đám 
rối TK cánh tay.
ii. Đối TƯỢNG vÀ PHƯơNG PHáP 
NGHiêN cứU
- Nghiên cứu được tiến hành trên 60 vùng nách 
của 30 thi thể người Việt Nam trưởng thành, trong đó 
có 24 xác nam và 6 xác nữ được cố định bằng dung 
dịch formalin 4%, tại các bộ môn Giải phẫu trường 
Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
và trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
- Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang.
- Kỹ thuật nghiên cứu: kỹ thuật phẫu tích kinh điển.
Các kết quả nghiên cứu được xử lý trên máy vi 
tính theo chương trình phần mềm SPSS.
iii. KẾT qUả NGHiêN cứU
1. Thần kinh XI
Trên tất cả các tiêu bản phẫu tích (100%) chúng tôi 
đều gặp TK XI đi vào tam giác cổ sau (TGCS) bằng 
cách bắt chéo bờ sau của cơ ức đũn chũm (ƯĐC) và 
rời khỏi TGCS bằng cách bắt chéo bờ trước cơ thang 
rồi đi vào mặt sâu của cơ này. Trong đó, có 58/60 tiêu 
bản phẫu tích (96,67%), TK qua mặt sâu cơ ƯĐC rồi 
vào TGCS. Hai trường hợp còn lại (3,33%), TK XI 
xuyên qua cơ ƯĐC trước khi bắt chéo bờ sau của cơ.
Trong TGCS, TK XI thường cho nhánh bên 
(75%) tới cơ thang với số lượng thay đổi: 1 nhánh 
trên 17 tiêu bản phẫu tích (28,3%); 2 nhánh trên 22 
tiêu bản phẫu tích (36,7%); 3 nhánh trên 6 tiêu bản 
(10%). 15 tiêu bản còn lại (25%) TK XI không cho 
nhánh bên nào trong TGCS.
Khảo sát khoảng cách từ TK XI tới một số mốc 
giải phẫu:
Khoảng cách từ đầu ức xương đòn đến vị trí TK 
XI bắt chéo bờ sau cơ ức-đòn-chũm là: 114,91 ± 9,16 
mm. Lấy các tỉ lệ giữa khoảng cách này với khoảng 
cách từ đầu ức xương đòn tới mỏm chũm, chúng tôi 
có giá trị trung bình: 0,71 ± 0,05 (trong khoảng 0,6 
tới 0,8).
Khoảng cách giữa TK XI và TK tai lớn dọc bờ 
sau cơ ức-đòn-chũm là: 10,38 ± 4,78 mm. Trong 
đó, khoảng cách dưới 10 mm gặp ở 22/60 tiêu bản 
(36,67%). Khoảng cách từ 10-20 mm gặp ở 36/60 
tiêu bản (60%). Khoảng cách 20-25 mm gặp ở 2/60 
tiêu bản (3,33%). 
Trên tất cả các tiêu bản chúng tôi khảo sát (100%), 
thần TK XI đều đi vào TGCS ở vị trí cao hơn vị trí 
TK tai lớn bắt chéo bờ sau cơ ức-đòn chũm.
Khoảng cách từ xương đòn đến TK XI dọc bờ sau 
cơ ức-đòn-chũm: 83,19 ± 10,83mm. Giá trị hay gặp 
nhất là 75mm. Khoảng gặp là 63-106mm.
Xương đòn đến TK XI dọc bờ trước cơ thang: 
khoảng 15-67mm. Trung bình 33,49 ± 8,55mm. 
2. Đám rối cổ (ĐRC)
Chúng tôi tiến hành khảo sát các nhánh nông của 
đám rối TK cổ, kết quả:
Các nhánh này có thể tìm thấy ở bờ sau cơ ƯĐC, 
thường không nằm tập trung ở một vị trí (80%) mà 
tương đối tách biệt với nhau, tuy nhiên cũng có 12/60 
tiêu bản (20%) các nhánh nông của ĐRC gần nhau 
như thể cùng lộ ra ở một điểm tại bờ sau cơ ƯĐC.
Đối với các nhánh sâu của ĐRC:
Trong 15 tiêu bản (25%), ĐRC cho nhánh vào 
cơ ƯĐC, các nhánh này đến từ C2-3. Đồng thời ở 
19 tiêu bản (31,67%), ĐRC cho nhánh vào cơ ƯĐC 
bằng các nhánh đến từ C4.
Một nhánh sâu quan trọng của ĐRC là TK hoành 
cũng được khảo sát trong nghiên cứu của chúng tôi. 
Kết quả, trên 42 tiêu bản (70%), TK hoành được tạo 
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
271
bởi các nhánh đến từ C3, C4 và C5; trên 18 tiêu bản còn 
lại, nguyên ủy của nó là các nhánh từ C3 và C4, không có 
sự tham gia của các nhánh đến từ C5.
Có 20/60 (33,3%) tiêu bản có sự tiếp nối giữa TK XI 
và ĐRC; 40/60 (66,7%) tiêu bản còn lại không có sự tiếp 
nối này.
3. Đám rối TK cánh tay
3.1. Các rễ của đám rối cánh tay
Các rễ của ĐRCT ít có biến đổi về cấu trúc. Chúng tôi 
chỉ gặp biến đổi ở 3/60 tiêu bản (5%). Trên các tiêu bản 
này, rễ C6 của ĐRCT tách đôi. Cả hai phần tách đôi từ C6 
đều hợp với rễ C5 để trở thành thân trên của đám rối như 
các tài liệu kinh điển mô tả.
Tuy nhiên về liên quan, chúng tôi gặp tới 9/60 tiêu bản 
(15%) rễ C5 không đi vào TGCS bằng cách đi qua khe 
tạo bởi cơ bậc thang trước và cơ bậc thang giữa. Thay vào 
đó, nó đi xuyên từ mặt sâu ra mặt nông của cơ bậc thang 
trước, và bắt chéo bờ ngoài cơ này để vào TGCS; 3/9 tiêu 
bản cả rễ C5 và C6 cùng đi xuyên qua cơ bậc thang trước.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận nhánh trước 
C4 tham gia vào ĐRCT (nhánh nối từ nhánh trước C4 đến 
nhánh trước C5) trong 9 trường hợp (15%). 
3.2. Các thân của đám rối cánh tay
Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận một biến đổi 
quan trọng nào của ĐRCT. Những trường hợp rễ C6 của 
ĐRCT chia thành hai nhánh, chúng cũng lần lượt hợp với 
rễ C5 để tạo nên thân trên như cấu trúc kinh điển đã được 
mô tả.
Một số kết quả về vị trí của thân ĐRcT đối với các 
mốc giải phẫu:
Khoảng cách từ đầu ức xương đòn đến thân trên dọc 
bờ sau xương: từ 41 mm đến 81mm, trung bình 62,06 ± 
7,93 mm. Tỉ lệ giữa khoảng cách từ đầu ức xương đòn đến 
thân trên và khoảng cách đầu ức đến đầu cùng vai xương 
đòn là khoảng 0,32 - 0,53. 
Khoảng cách từ xương đòn tới thân trên dọc bờ sau cơ 
ƯĐC: 12-51 mm. Trung bình 31,61 ± 10 mm. Trung bình 
các tỉ lệ giữa khoảng cách này với khoảng cách từ đầu ức 
xương đòn tới mỏm chũm là 0,2 ± 0,06.
3.3. Các bó của đám rối cỏnh tay
- Các bó của ĐRCT ít biến đổi. Chúng tôi chỉ ghi nhận 
hai dạng biến đổi sau:
Trên 4 tiêu bản (6,67%) bó sau nhận thêm một nhánh 
đến từ nhánh trước của thân giữa (C7). 
Trên 5 tiêu bản, bó trong nhận thêm 1 nhánh từ bó 
ngoài (8,3%).
3.4. Các nhánh bên trên đòn của đám rối cánh tay
Trên tất cả các tiêu bản (100%), chúng tôi đều ghi nhận 
các nhánh bên trên đòn của ĐRC, bao gồm: TK lưng vai, 
TK ngực dài, TK trên vai.
- TK lưng vai: trên tất cả 60 tiêu bản phẫu tích (100%), 
nó tách từ C5, đi xuyên qua cơ bậc thang giữa để đến cơ 
quan đích.
- TK ngực dài: có nguyên ủy từ C5, C6 và C7 trong 
9/60 tiêu bản phẫu tích (15%); từ C5 và C6 trong 6 trường 
hợp (10%); từ C6 và C7 trong 39 trường hợp (65%); chỉ từ 
C6 trong 6 trường hợp (10%).
- TK trên vai là một trong các ưu tiên hồi phục cho 
bệnh nhân trong các tổn thương ĐRCT, vì thế chúng tôi 
khảo sát nhiều thông số hơn đối với TK này. Kết quả:
Về nguyên ủy: 
TK trên vai có nguyên ủy từ thân trên trong 52 trường 
hợp (86,67%); từ C5 trong 2 trường hợp (3,33%); từ phần 
trước thân trên trong 3 trường hợp (5%); trong 3 trường 
hợp rễ C6 tách đôi, TK trên vai có nguyên ủy từ nhánh tạo 
bởi C5 và phần trên C6 (5%).
Về đường đi và liên quan:
Trên tất cả các tiêu bản khảo sát, TK trên vai ban đầu 
cách xa động mạch trên vai, càng về gần khuyết trên vai 
chúng càng đi gần nhau để ra vùng sau vai.
Trong khi đó, so với xương đòn, TK trên vai thường 
có nguyên ủy ở vùng cổ, nằm trên xương đòn (gặp trong 
57 trường hợp, chiếm 95%), đặc biệt trong hai trường hợp 
(3,33%) TK trên vai có nguyên ủy từ C5, nó có nguyên ủy 
cao, nằm sau cơ ƯĐC. Ba trường hợp còn lại (5%), TK 
trên vai có nguyên ủy ở ngay sau xương đũn.
Về tương quan của TK trên vai với một vài mốc 
giải phẫu:
Khoảng cách từ vị trí thân trên hoặc C5 lộ ra ở bờ sau 
cơ ƯĐC tới nguyên ủy TK trên vai trong 59 tiêu bản: 20,1 
± 8,12 mm.
Khoảng cách từ đầu ức xương đòn tới vị trí TK trên 
vai bắt chéo bờ sau xương đòn ở 57 tiêu bản: 53-116 mm, 
trung bình 78,3 ± 12,94 mm.
iv. BÀN LUẬN
1. Thần kinh XI
Trên tất cả các tiêu bản phẫu tích, chúng tôi đều gặp 
TK XI bắt chéo bờ sau cơ ƯĐC để đi vào TGCS. Nó rời 
khỏi tam giác bằng cách bắt chéo bờ trước cơ thang, đi vào 
mặt sâu và tận hết ở cơ này. Điều này phù hợp với các mô 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
272
tả kinh điển, cũng như các nghiên cứu về TK XI của 
Kierner[1] và Assad[2]. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ ghi 
nhận 5% biến đổi về đường đi của TK XI, khi nó đi 
xuyên ra mặt nông của cơ ƯĐC rồi mới vào TGCS, 
trong khi theo Kierner [1] là 37% (cỡ mẫu 92), và 
Assad [2] là 30,2%. Điều này có thể vì lý do chủng 
tộc. Song cũng cần thiết để các phẫu thuật viên lưu 
ý khi phẫu tích lớp nông của vùng cổ có thể làm tổn 
thương hoặc đứt TK XI trước khi xác định được nó.
Về phân nhánh cho cơ thang của TK XI, trong 
nghiên cứu của chúng tôi, TK XI thường phân nhánh 
cho cơ thang (75% trường hợp; 28,3% có 01 nhánh; 
36,7% có 02 nhánh; 10% có 03 nhánh). Ngược lại, 
nghiên cứu của Assad [2] trên người Sudan, TK XI chủ 
yếu tận hết như một thân chung trong cơ thang. Thỉnh 
thoảng có thêm 1 nhánh bên tới cơ này. Có lẽ nghiên 
cứu của Kierner [1] có nhiều điểm tương đồng hơn 
với nghiên cứu của chúng tôi, khảo sát trên 44 tiêu bản 
phẫu tích tác giả này nhận thấy tất cả đều cho nhánh 
bên vào cơ thang. Tuy các nghiên cứu có kết quả khác 
nhau, song có thể thấy sự phân nhánh cho cơ thang của 
TK XI trong TGCS là khá thường xuyên. Điều này có 
ý nghĩa nhất định trong ngoại khoa, khi cần thiết phải 
cắt TK XI, thủ thuật diễn ra ở vị trí càng thấp càng có 
thể hạn chế đến tối thiểu vùng cơ bị ảnh hưởng.
Đối với tương quan vị trí của TK XI đối với các 
mốc giải phẫu
Trong một số tài liệu giải phẫu học kinh điển 
hiện nay [3; 4], vị trí TK XI đi vào TGCS, tại nơi nó 
bắt chéo bờ sau cơ ƯĐC, được mô tả là nằm ở chỗ 
gặp nhau của một phần ba trên và một phần ba giữa 
bờ sau cơ này. Tuy nhiên, trên giải phẫu bề mặt, 
mặc dù cơ ức-đòn-chũm là một mốc bề mặt, nhưng 
xác định bờ sau của nó không dễ, nhất là tại phần 
nguyên ủy ở mặt trên xương đòn và phần bám tận ở 
đường gáy trên.
Vì vậy, chúng tôi khảo sát khoảng cách từ đầu ức 
xương đòn tới mỏm chũm là hai mốc giải phẫu bề 
mặt dễ xác định nhất trong các điểm bám của cơ này.
Tiếp tục lấy trung bình các tỉ lệ giữa khoảng cách từ 
đầu ức xương đòn đến TK XI với khoảng cách từ đầu 
ức xương đòn tới mỏm chũm, chúng tôi có giá trị: 
0,71 ± 0,05 (trong khoảng 0,6 tới 0,8).
Dọc theo bờ sau cơ ƯĐC, TK XI chỉ cách TK tai 
lớn khoảng 10,38mm. Khoảng cách nói trên trong 
nghiên cứu của Chen[5] là trung bình 6,1 ± 3,5 mm. 
Tuy nhiên, cũng nghiên cứu trên người sống, Mirjalili 
[6] khảo sát TK XI ở 28 phụ nữ New Zealand bằng 
siêu âm, báo cáo khoảng cách từ TK tai lớn đến TK 
XI dọc bờ sau cơ ức-đòn-chũm là 1-21mm, trung 
bình 11 mm. Nghiên cứu của Hone và cộng sự [8] 
trên khoảng cách này cũng cho kết quả tương tự, 
trung bình 10,7 mm. 
Kết quả của chúng tôi cũng giống với nhiều 
nghiên cứu của các tác giả khác [Guo, Chen, Hone, 
Aramrattana] khi thấy rằng TK XI luôn nằm cao hơn 
TK tai lớn dọc bờ sau cơ ức-đòn-chũm một khoảng 
bé hơn 21 mm, trung bình 11 mm. 
Đồng thời, một điểm đáng chú ý là nhận định TK 
tai lớn rất dễ dàng, với hình ảnh đặc trưng là một TK 
lộ ra từ mặt sâu cơ ức-đòn-chũm, rồi bắt chéo bờ sau 
cơ này, đi ra mặt nông của cơ, hướng lên trên về phía 
tai. Điều này cho phép chúng tôi đề xuất một mốc 
giải phẫu đáng tin cậy là TK tai lớn khi cần tìm và 
xác định TK XI trong ngoại khoa.
Dọc bờ sau cơ ƯĐC, bổ sung cho mốc trên, còn 
thể tìm thấy TK XI cách xương đòn khoảng 83,19mm. 
Kết quả này không có sự khác biệt (với p=0,0005) so 
với nghiên cứu của Kierner [2] là 82 ± 10,1mm. 
Ngoài bờ sau cơ ƯĐC, dọc bờ trước cơ thang 
cũng có thể tìm thấy TK XI, nó thường đi vào mặt 
sâu cơ này ở vị trí cách xương đòn khoảng 33,49mm. 
Nghiên cứu của Lu [10] đề xuất khoảng cách này là 
49,8 ± 5,9mm. Của Aramrattana là 4,5cm. Trong khi 
kết quả của Mirjalili [6] là 54mm. 
Mặc dù các kết quả không thống nhất giữa các tác 
giả, chúng tôi vẫn thấy rằng TK XI đi vào mặt sâu cơ 
thang ở một vị trí khá gần với xương đòn, có thể dễ 
dàng tìm thấy nó bằng một đường rạch ngắn dọc theo 
bờ trước cơ thang. Các tác động đến TK XI ở vị trí 
này cũng có ưu điểm hạn chế vùng cơ tổn thương do 
TK XI chi phối. 
2. Đám rối cổ
ĐRC cho các nhánh nông và các nhánh sâu.
Số lượng và vùng chi phối của các nhánh nông 
ĐRC trong nghiên cứu của chúng tôi không có biến 
đổi so với các mô tả kinh điển. Tuy nhiên, về vị trí 
mà các nhánh này thoát ra ở bờ sau cơ ƯĐC, chúng 
tôi thấy rằng các nhánh này thường thoát ra một cách 
phân tán, giống với kết quả của Francia [11]. Như 
vậy, trong phẫu tích lớp nông TGCS, các phẫu thuật 
viên cần lưu ý đặc điểm này để tránh tổn thương mất 
cảm giác các vùng do nhánh nông ĐRC chi phối, 
cũng như các nhà gây mê có thể cân nhắc về liều 
lượng khi gây tê ĐRC.
Phần 4: Phẫu thuật vi phẫu
273
3. Đám rối TK cánh tay
Những biến đổi về rễ, thân và bó của ĐRCT được 
nhiều tác giả nước ngoài ghi nhận [12, 13, 14]. Ở Việt 
Nam, chúng tôi chư tìm thấy tài liệu nghiên cứu nào mô tả 
các biến đổi này.
Khảo sát sự liên quan của đám rối với một số mốc 
giải phẫu bề mặt, chúng tôi thấy: Dọc theo bờ sau xương 
đòn, cách đầu ức của xương này trung bình 62 mm, và 
dọc theo bờ sau cơ ƯĐC, cách xương đòn trung bình 32 
mm là vị trí thân trên ĐRCT đi vào TGCS. Đây là những 
mốc giải phẫu bề mặt có thể dễ dàng xác định để các nhà 
ngoại khoa thiết kế đường mổ, song cũng cần phải lưu ý 
rằng, các khoảng cách này rất thay đổi. Vì thế, chúng tôi 
khảo sát thêm tỉ lệ giữa khoảng cách từ xương đòn tới thân 
trên, dọc bờ sau cơ ƯĐC với khoảng cách từ đầu ức xương 
đòn tới mỏm chũm, thấy rằng tỉ lệ này ít thay đổi, trong 
khoảng 0,3-0,5; trung bình là 0,4 (độ lệch 0,04). Khá gần 
với điểm gây tê đám rối TK cánh tay tại vựng cổ mà các 
nhà gây mê thường sử dụng.
Kết quả của chúng tôi cũng ghi nhận sự có mặt các 
nhánh bên trên đòn của ĐRCT tại vựng cổ trước bên hoàn 
toàn giống với các tài liệu kinh điển mô tả. Ngoài ra, một 
số biển đổi về nguyên ủy của TK trên vai và TK ngực dài 
đóng góp thêm cho các giá trị hình thái của người Việt 
Nam trưởng thành.
v. KẾT LUẬN
Về mô tả các cấu trúc
Thần kinh XI:
Luôn có mặt trong TGCS và đi vào TGCS ở trên TK 
tai lớn(100%).
Đại đa số đi ở mặt sâu cơ ƯĐC (96,67%), rất ít khi đi 
xuyên qua cơ này (3,33%).
TK XI thường cho nhánh bên trong vùng TGCS (75%).
Đám rối cổ
Thường đi vào TGCS một cách phân tán (80%). Có thể 
cho nhánh đến cơ thang (25%), cơ ƯĐC (31,67%) hoặc 
nhánh nối với TK XI (33,33%).
Đám rối cánh tay
ĐRCT thường có ít biến đổi về nguyên ủy và cấu tạo 
trong TGCS (chỉ 15% cú sự tham gia của C4 vào ĐRCT 
và 5% rễ C6 tách đôi).
Các rễ của ĐRCT không phải luôn luôn đi qua khe giữa 
cơ bậc thang trước và cơ bậc thang giữa (15% rễ C5 xuyên 
qua cơ bậc thang trước, 5% cả rễ C5 và C6 xuyên qua cơ 
bậc thang trước để tham gia đám rối).
Đối với các nhánh bên trên đòn của ĐRCT: đa số TK 
trên vai có nguyên ủy từ thân trên (90%) và TK ngực dài 
chủ yếu có nguyên ủy từ C6 và C7 (67%).
Về một số kết quả đo đạc:
Dọc bờ sau cơ ƯĐC, TK XI cách đầu ức xương đòn 
114,91mm, cách TK tai lớn 10,38mm, cách xương đòn 
83,19mm.
Dọc bờ trước cơ thang, TK XI cách xương đòn 
33,49mm.
Dọc bờ sau cơ ƯĐC, thân trên cách xương đòn 
31,61mm. Vị trí nó bắt chéo bờ sau xương đòn cách đầu 
ức xương này 62,06mm.
Tại nguyên ủy, TK trên vai cách vị trí thân trên bắt 
chéo bờ sau cơ ƯĐC 20,06mm. Tại nơi bắt chéo bờ sau 
xương đòn, nó cách đầu ức xương này 78,3mm.
Tài liệu tham khảo
1. Kierner A.C., Zelenka I., Heller S., et al. Surgical anatomy of 
the spinal accessory nerve and the trapezius branches of the 
cervical plexus. Arch Surg. 2000, 135(12), 1428-31.
2. Assad A.R., Tahir O.A. and Qurashi M.A. Spinal Accessory 
Nerve in Sudanese Subjects; A Gross Morphological Study. 
Professional Med J. 2012. 19(6), 884-889.
3. Standring S., Gray's Anatomy: The Anatomical Basis of 
Clinical Practice. 40th Edition 2008, Edinburgh; Toronto: 
Elsevier Churchill Livingstone. 459-461.
4. Snell R.S., Clinical Neuroanatomy. 7th Edition, Philadenphia: 
Lippincott Williams & Wilkins. 2010, 354-355.
5. Chen F., Wang L.H., Liang C.Y., et al. [Clinical anatomy 
measurement of accessory nerve in neck dissection]. Zhonghua 
Er Bi Yan Hou Tou Jing Wai Ke Za Zhi. 2006, 41(2), 128-31.
6. Mirjalili S.A., Muirhead J.C. and Stringer M.D. Ultrasound 
visualization of the spinal accessory nerve in vivo. J Surg Res. 
2012, 175(1), e11-6.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
274
7. Guo C.B., Zhang Y., Zhang L., et al. [Surgical anatomy 
and preservation of the accessory nerve in radical 
functional neck dissection]. Zhonghua Kou Qiang Yi Xue 
Za Zhi. 2003, 38(1), 12-5.
8. Hone S.W., Ridha H., Rowley H., et al. Surgical 
landmarks of the spinal accessory nerve in modified 
radical neck dissection. Clin Otolaryngol Allied Sci. 2001, 
26(1), 16-8.
9.	 Aramrattana	A.,	Sittitrai	P.	and	Harnsiriwattanagit	K.	
Surgical anatomy of the spinal accessory nerve in the 
posterior triangle of the neck. Asian J Surg. 2005, 28(3), 
171-3.
10.	 Lu	L.,	Haman	S.P.	and	Ebraheim	N.A. Vulnerability of 
the spinal accessory nerve in the posterior triangle of the 
neck: a cadaveric study. Orthopedics. 2002, 25(1), 71-4.
11. Francia D.R., Papon X. and Mercier P. Anatomical 
study of the superficial cervical plexus: application to the 
prevention of the postoperative sensitive facial deficits]. 
Morphologie. 2011, 95(308), 3-9.
12.	 Fazan	V.P.S.,	Amadeu	A.d.S.,	Caleffi	A.L.,	et	al.	Brachial 
plexus variations in its formation and main branches. Acta 
Cirỳrgica Brasileira. 2003, 18, 14-18.
13. Matejcik V. Variations of nerve roots of the brachial 
plexus. Bratisl Lek Listy. 2005, 106(1), 34-6.
14. Rastogi R., Budhiraja V. and Bansal K. Posterior 
Cord of Brachial Plexus and Its Branches: Anatomical 
Variations and Clinical Implication. ISRN Anatomy. 
2013, 3.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
giai_phau_ung_dung_dam_roi_than_kinh_canh_tay_dam_roi_co_va.pdf