Giải quyết việc làm góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tang trưởng kinh tế bền vững

Thứ năm, việc làm trong xóa đói giảm nghèo bền vững là một nội dung hết sức quan trọng. Cần thống kê đầy đủ lực lượng lao động trong các hộ nghèo, sau đó phân tích kĩ lưỡng nguyên nhân đói nghèo để có giải pháp phù hợp với từng nguyên nhân, không thể để chung một giải pháp cho nhiều nguyên nhân đói nghèo. Nghèo do lười biếng, không biết làm ăn chiếm tỉ trọng khá lớn, không thể cứ cho vay và xóa nợ mãi như hiện nay. - Thứ sáu, điều tra, thống kê hàng năm hoặc định kì, theo dõi nắm chắc số lượng, chất lượng cung - cầu lao động là một việc làm vô cùng quan trọng trong phân bố, phân công sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động để phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước cần hết sức quan tâm, coi trọng từ nội dung hoạt động, quản lí đến bộ máy thực hiện công tác này. Bộ máy ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hiện tại phần lớn dành cho công tác bảo đảm chính sách người có công và an sinh xã hội với nhiệm vụ bảo đảm chi là chủ yếu, bộ phận còn lại không thể thực hiện được nhiệm vụ quản lý trên 55 triệu lao động của cả nước, lực lượng mà không có họ thì không có của cải vật chất, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần quan tâm tăng cường, củng cố đội ngũ người làm công tác lao động từ trung ương tới địa phương.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết việc làm góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tang trưởng kinh tế bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 43112009 GÓP PHẦN BẢO ĐẢM ỔN ĐỊNH XÃ HỘI VÀ TăNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG Việc làm có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sau 20 năm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động, song tại Đại hội lần thứ X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa và công nghiệp hóa Trong 5 năm, tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5% vào năm 2010”. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, ngày 6/72007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2005 - 2010 với: - Mục tiêu chung: tạo việc làm cho 8 triệu lao động trong 5 năm 2006 - 2010; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010. - Mục tiêu cụ thể: + Thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, tạo việc làm cho 2 - 2,2 triệu lao động, trong đó: thông qua các dự án vốn vay tạo việc làm từ Quỹ quốc gia tạo việc làm cho 1,7 - 1,8 triệu lao động; từ xuất khẩu lao động tạo việc làm cho 40 - 50 vạn lao động. + Thông qua các Trung tâm giới thiệu việc làm, tư vấn và giới thiệu cho 4 triệu lao động. 1. Dân số và lực lượng lao động a. Về dân số và lực lượng lao động Theo Niên giám thống kê năm 2008 của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) xuất bản năm 2009, dân số và lực lượng lao động (lao động đang làm việc, trừ lực lượng vũ trang) của Việt Nam từ năm 2006 đến 2008 như sau: Tuy nhiên, theo kết quả Tổng điều tra dân số, tính đến 0h ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người và tỷ lệ tăng dân số bình quân trong 10 năm (1999-2009) là 1,2%/năm. Nếu như theo tốc độ dân số năm 2009 chỉ tăng 1,17% so với 2008, năm 2008 tăng 1,18% so với năm 2007, năm 2007 tăng 1,18% so với năm 2006 và giữ nguyên cơ cấu lực lượng lao động như các năm theo số liệu thống kê thì dân số và lực lượng lao ĐặNG NHƯ LợI (*) (*) Phó chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội. CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009 CHÍNH SÁCH động của các năm sẽ có sự chênh lệch lớn: + Năm 2006, dân số chỉ còn 82.826 ngàn người, thấp hơn Niên giám thống kê 1.311 ngàn người; lực lượng lao động chỉ còn 42.664 ngàn người, thấp hơn Niên giám thống kê 675 ngàn người. + Năm 2007, dân số chỉ còn 83.803 ngàn người, thấp hơn Niên giám thống kê 1.364 ngàn người; lực lượng lao động chỉ còn 43.460 ngàn người, ít hơn Niên giám thống kê 714 ngàn người. + Năm 2008, dân số chỉ còn 84.797 ngàn người, thấp hơn Niên giám thống kê 1.414 ngàn người; lực lượng lao động chỉ còn 44.179 ngàn người, thấp hơn Niên giám thống kê 737 ngàn người. Sự sai lệch này có ảnh hưởng lớn đến phân bổ ngân sách, tính toán năng suất lao động bình quân xã hội, thu nhập quốc dân bình quân đầu người, đặc biệt là chính sách lao động, việc làm. b. Về chất lượng lực lượng lao động Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tuy Việt Nam có nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, năm 2006: 31,9%; năm 2007: 34,75% và năm 2008 gần 37%. Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu, lao động phổ thông chiếm phần lớn, thiếu lao động ở miền núi, thừa lao động ở đồng bằng. c. Về năng suất lao động xã hội Theo Niên giám thống kê 2008, năng suất lao động xã hội bình quân chung tính theo giá trị còn quá thấp: Năm 2006: 22,5 triệu đồng/ người.năm, trong đó, nông - lâm - ngư - diêm nghiệp là 8,33 triệu đồng/người.năm (bằng 37% năng suất lao động bình quân chung), tương tự, năm 2007: 25,9 triệu đồng/9,76 triệu đồng (37,7%) và năm 2008: 32,9 triệu đồng/13,8 triệu đồng (41,9%). 2. Tình hình thực hiện chính sách giải quyết việc làm từ năm 2006 đến nay Nhìn chung, giải quyết việc làm ở Việt Nam được thực hiện theo ba hướng chính: - Tạo hành lang pháp lý, bảo đảm môi trường thu hút đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế tạo thêm chỗ làm việc; - Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm thông qua các dự án cho vay từ Quỹ Quốc gia về việc làm (ưu tiên lao động thanh niên, lao động chính sách, lao động thiếu việc làm ở nông thôn) cùng với Chương trình xóa đói giảm nghèo cho vay vốn ưu đãi, tạo việc làm; - Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài Cѫ cҩu lao ÿӝng (%) Theo ngành kinh t͇ Theo khu v͹c Ngoài Nhà n˱ͣc Năm Dân sӕ (ngàn ngѭӡi) Lӵc lѭӧng lao ÿӝng (LLLĈ) (ngàn ngѭӡi) Tӹ lӋ LLLĈ so vӟi dân sӕ (%) Nhà n˱ͣc Chung Cá th͋ Nông - Lâm - Ng˱ - Diêm nghi͏p Công nghi͏p -Xây d͹ng D͓ch vͭ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 2006 84.137 43.339 51,51 9,11 90,89 80,81 55,37 19,23 25,4 2007 85.172 44.174 51,86 9,02 90,98 79,9 53,9 19,97 26,13 2008 86.211 44.916 52,1 9,07 90,93 78,37 52,62 20,83 26,55 Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 45112009 CHÍNH SÁCH theo hợp đồng (xuất khẩu lao động và chuyên gia) Theo báo cáo 8 tháng đầu năm 2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, giải quyết việc làm thông qua việc thu hút đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế năm 2006 tạo việc làm được 1,222 triệu lao động; năm 2007 cho 1,25 triệu lao động và năm 2008 khoảng 1,28 triệu lao động. Từ cuối năm 2008 đến tháng 8 năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, kinh tế suy giảm, số lao động mất việc làm tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ đến giải quyết việc làm. Ước 6 tháng đầu năm 2009 chỉ giải quyết việc làm cho khoảng 650.000 lao động. Cũng theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bằng việc đẩy mạnh hỗ trợ người lao động tự tạo việc làm thông qua chương trình, dự án cho vay từ Quỹ quốc gia hàng năm đã góp phần hỗ trợ quan trọng tự tạo việc làm cho 300 - 350 ngàn lao động, chủ yếu cho cá thể và hộ gia đình. Trong xuất khẩu lao động và chuyên gia, năm 2006 đưa được 78 ngàn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hai năm 2007 và 2008 mỗi năm có 85 ngàn lao động đi xuất khẩu. Năm 2009, do tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, 6 tháng đầu năm chỉ tạo được khoảng 35 ngàn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tính chung lại từ năm 2006 đến nay, đã tạo việc làm cho gần 5,6 triệu lao động (năm 2006: 1,65 triệu lao động, năm 2007: 1,68 triệu lao động, năm 2008: 1,615 triệu lao động và 6 tháng đầu năm 2009 ước khoảng 0,65 triệu lao động), đạt 70% mục tiêu chung giải quyết việc làm cho 5 năm 2006 – 2010 (8 triệu lao động), góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2008 chỉ còn 4,65%, vượt mục tiêu đề ra là dưới 5% vào năm 2010. Qua số liệu báo cáo trên cho thấy, chúng ta đã đạt được kết quả khả quan trong thực hiện chính sách giải quyết việc làm, góp phần ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, còn một số vấn đề trong giải quyết việc làm cần được xem xét, làm rõ để có thể thảo luận việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và định hướng cho năm 2010, đặc biệt là chỉ tiêu giải quyết việc làm. Thứ nhất, số liệu của Niên giám thống kê và số liệu Tổng điều tra dân số 2009 cho thấy, từ năm 2006 đến 2008 số liệu dân số Niên giám thống kê cao hơn Tổng điều tra dân số 1,311 triệu người đến 1,414 triệu người (1,58% - 1,67% tổng dân số) và lực lượng lao động cao hơn từ 675 ngàn người đến 737 ngàn người (1,58% - 1,67% tổng lực lượng lao động). Đây là số chênh lệch quá lớn, nếu đó là sự thật thì các năm gần đây chúng ta hoạch định phát triển kinh tế - xã hội nói chung và giải quyết việc làm nói riêng trên con số không thật. Thứ hai, trong hệ thống theo dõi lao động, chúng ta không có hệ thống thống kê hoặc báo cáo, hoặc có nhưng thực hiện không thường xuyên, không đầy đủ từ cấp xã lên huyện, từ doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động lên huyện hoặc cơ quan quản lý, từ cấp huyện lên cấp tỉnh, từ cấp tỉnh, Tập đoàn, Tổng công ty, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực đến ngành Lao động - Thương binh và Xã hội Nhưng chúng ta vẫn có đầy đủ số liệu lao động - việc làm. Không biết mức độ tin cậy của các số liệu này có bảo đảm việc hoạch định và thực hiện chính sách giải quyết việc làm một cách có hiệu quả để đưa vào chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm hay không. Thứ ba, năm 2006 ta giải quyết việc làm cho 1,65 triệu lao động, năm 2007: 1,68 triệu lao động và năm 2008: 1,615 triệu lao động (kế hoạch đặt ra là 1,7 triệu). Mục tiêu chung giải quyết việc làm trong 5 năm 2006 - 2010 là 8 triệu người, bình quân mỗi năm 1,6 triệu lao động. Với số lao động vào độ tuổi hàng năm hiện nay khoảng 1,1 - 1,2 triệu người và 46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009 CHÍNH SÁCH giả sử số lao động này đều có nhu cầu giải quyết việc làm thì để bảo đảm đủ số người giải quyết việc làm theo chỉ tiêu đặt ra (hàng năm 1,7 triệu lao động) thì số lao động mất việc hàng năm cũng phải từ 500 - 600 ngàn người, chiếm 30% - 37% tổng số lao động được giải quyết việc làm. Như vậy, số lao động giải quyết việc làm hàng năm càng lớn thì số mất việc làm cũng càng lớn, có nghĩa việc làm không ổn định, gây phức tạp cho công tác quản lí và lãng phí lớn trong xã hội. Phải chăng, cần tập trung vào chất lượng việc làm chứ không nên chạy theo số lượng việc làm. Thứ tư, mất việc làm, thất nghiệp là sản phẩm tất yếu của cơ chế thị trường. Năm 2009, kinh tế trong nước suy giảm, số lao động mất việc làm tăng lên, vậy chúng ta làm sao phân biệt được mất việc làm do suy giảm kinh tế và mất việc làm bình thường để áp dụng chính sách hỗ trợ của Chính phủ và tỉ lệ thất nghiệp có tăng lên không. Đây là vấn đề cần quan tâm vì từ 01/01/2009, chế độ bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu có hiệu lực. Thứ năm, theo Niên giám thống kê 2008, cơ cấu dân số sống ở thành thị thấp hơn nhiều so với dân số sống ở nông thôn (2006: 27,09%/72,91%; 2007: 27,47/72,53; 2008: 28,11/71,89 và 2009: 29,6%/70,4%) nhưng cơ cấu lực lượng lao động ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp lại thấp hơn và ngày càng giảm dần (2006: 55,37%; 2007: 53,9%; 2008: 52,62% và năm2009: trên 51%). Mất việc làm đưa đến thất nghiệp của lực lượng lao động xảy ra theo cơ cấu ngành kinh tế chứ không phải do họ sống ở đâu. Vậy sao chúng ta tính tỷ lệ thất nghiệp theo cơ cấu dân số thay vì theo cơ cấu lực lượng lao động? Thứ sáu, theo số liệu thống kê, năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp chung trong cả nước là 2,38%, trong đó, thành thị là 4,65%, nông thôn là 1,53%. So với các nước có thu nhập quốc dân bình quân cao hơn Việt Nam thì chúng ta có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất nhưng vẫn là một nước nghèo, năng suất lao động xã hội bình quân thấp nhất. Phải chăng việc làm của chúng ta chưa ổn định, chất lượng thấp và người được cho là có làm việc nhưng thu nhập thấp hơn trợ cấp xã hội, thấp hơn trợ cấp thất nghiệp, không đủ nuôi sống bản thân vẫn được coi là có việc làm là chưa phản ánh đúng thực chất tỉ lệ thất nghiệp. 3. Các biện pháp giải quyết việc làm góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển đổi sang cơ chế thị trường với nhiều yếu tố bất ổn từ nhận thức đến thể chế hóa quá trình thực hiện, bên cạnh lực lượng lao động dồi dào vừa là thế mạnh vừa là thách thức, thì giải quyết việc làm đầy đủ, giảm tỉ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong suốt quá trình xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với thế giới, việc làm cũng là vấn đề chung được chú trọng của các quốc gia. Còn nội tại của chủ nghĩa tư bản thì giải quyết mâu thuẫn việc làm và thất nghiệp, chống khủng hoảng kinh tế để tồn tại và tiếp tục phát triển đã là một học thuyết kinh tế được tồn tại nhiều năm. Vì vậy, xác định đúng đắn chủ trương, đường lối với các biện pháp giải quyết việc làm có hiệu quả, góp phần bảo đảm ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam là nỗi trăn trở lớn của Đảng và Nhà nước. Theo lẽ tự nhiên, tăng trưởng kinh tế chỉ ổn định khi xã hội, cuộc sống và việc làm của người dân nói chung và người lao động nói riêng ổn định; và việc làm chỉ ổn định khi sản xuất, kinh doanh và thị trường ổn định. Với thực tế của Việt Nam hiện nay, để bảo đảm tính ổn định cao của xã hội và tăng trưởng kinh tế thì định hướng giải quyết việc làm phải có cơ sở vững chắc, khoa học, biện pháp phải cụ thể, thực tế, hiệu quả trên nền tảng: - Thứ nhất, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có tầm nhìn xa trên Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 47112009 CHÍNH SÁCH cơ sở dự báo có căn cứ khoa học, thực tiễn, phù hợp với quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết phải đồng bộ, ăn khớp và ổn định. Quy hoạch hiện tại vẫn chưa trả lời chính xác được 20- 30 năm nữa định hướng phát triển hiện tại có còn phù hợp hay lại thay đổi, thậm chí làm lại từ đầu. 10 và 20 năm chỉ là kế hoạch dài hạn, còn chiến lược phải trên 20 năm đến 50 năm thì qui hoạch mới không manh mún, thay đổi nhiều, gây lãng phí lớn cho toàn xã hội. - Thứ hai, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lí vĩ mô là phải tìm, khai thác, dần hình thành một thị trường hàng hóa ổn định và chất lượng ngày một nâng cao, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, để định hướng cho người sản xuất, kinh doanh đầu tư, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Nền kinh tế của chúng ta hiện nay phần lớn được đóng góp từ người sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát, bị lệ thuộc, thiếu ổn định, hiệu quả thấp, không đủ lực và kinh nghiệm để tìm được thị trường hàng hóa ổn định, trong khi ở tầm quản lí vĩ mô, Nhà nước với quyền lực và sức mạnh của mình nhưng chưa chú trọng tìm và khai thác được thị trường hàng hóa ổn định, phù hợp với tiềm lực trong nước để lập quy hoạch, định hướng, chỉ dẫn đầu tư cho sản xuất trong nước, để nhà đầu tư lựa chọn sản phẩm, ổn định sản xuất, kinh doanh, nhất là khu vực ngoài Nhà nước, giảm dần mức độ tự bươn trải toàn diện như hiện nay. - Thứ ba, trong nhiều năm tới, phát triển kinh tế cá thể nằm ở nông thôn vẫn chiếm tỉ trọng cao, vì vậy, trên cơ sở quy hoạch lại vùng nông thôn có kế hoạch phù hợp với từng vùng để phát triển kinh tế nông thôn một cách đồng bộ, từ cơ cấu sản xuất đến cơ cấu xã hội, dân cư, phát triển làng nghề truyền thống, liên kết các cá thể kinh tế để tạo sức mạnh đầu tư vốn và khoa học, công nghệ vào nông thôn, không thể để ruộng, vườn bị băm nhỏ, đầu tư sản xuất, nuôi trồng cây, con nhỏ lẻ luôn thay đổi, bị động, gây lãng phí lớn như hiện nay. - Thứ tư, nhu cầu lao động của nhiều nước trên thế giới ngày một tăng cao, Nhà nước ta cần đặt vấn đề ở cấp quốc gia, kí kết các hiệp định hoặc thỏa thuận song phương để đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài một cách ổn định, có hiệu quả, bảo đảm được các mục đích đặt ra thay vì cho phép các doanh nghiệp lớn, nhỏ, có hoặc không có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, có tiềm lực hoặc không có tiềm lực tự tìm thị trường lao động ở nước ngoài, kí kết nhiều hợp đồng cung ứng lao động nhỏ lẻ, chất lượng và tính ổn định thấp, làm ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu lao động hiện nay. - Thứ năm, việc làm trong xóa đói giảm nghèo bền vững là một nội dung hết sức quan trọng. Cần thống kê đầy đủ lực lượng lao động trong các hộ nghèo, sau đó phân tích kĩ lưỡng nguyên nhân đói nghèo để có giải pháp phù hợp với từng nguyên nhân, không thể để chung một giải pháp cho nhiều nguyên nhân đói nghèo. Nghèo do lười biếng, không biết làm ăn chiếm tỉ trọng khá lớn, không thể cứ cho vay và xóa nợ mãi như hiện nay. - Thứ sáu, điều tra, thống kê hàng năm hoặc định kì, theo dõi nắm chắc số lượng, chất lượng cung - cầu lao động là một việc làm vô cùng quan trọng trong phân bố, phân công sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động để phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước cần hết sức quan tâm, coi trọng từ nội dung hoạt động, quản lí đến bộ máy thực hiện công tác này. Bộ máy ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hiện tại phần lớn dành cho công tác bảo đảm chính sách người có công và an sinh xã hội với nhiệm vụ bảo đảm chi là chủ yếu, bộ phận còn lại không thể thực hiện được nhiệm vụ quản lý trên 55 triệu lao động của cả nước, lực lượng mà không có họ thì không có của cải vật chất, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần quan tâm tăng cường, củng cố đội ngũ người làm công tác lao động từ trung ương tới địa phương. (Xem tiếp trang 56)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_quyet_viec_lam_gop_phan_bao_dam_on_dinh_xa_hoi_va_tang.pdf
Tài liệu liên quan