Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giám sát của Nhân dân đối với Ủy ban
nhân dân cấp xã
Để bảo đảm cho Nhân dân thực hiện
quyền giám sát đối với UBND cấp xã, theo
chúng tôi, cần thực hiện những giải pháp sau
đây:
Một là, cần cụ thể hóa các quy định
của Hiến pháp năm 2013 về quyền giám sát
của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói
chung, UBND cấp xã nói riêng. Theo đó,
cần nghiên cứu ban hành Luật Giám sát của
Nhân dân trên cơ sở pháp điển hóa các văn
bản pháp luật hiện hành. Luật Giám sát sẽ
quy định cụ thể phạm vi, nội dung, chủ thể,
trình tự, thủ tục các hình thức giám sát của
Nhân dân bao gồm giám sát của MTTQ và
các đoàn thể, giám sát của các tổ chức xã
hội, giám sát của báo chí và giám sát trực
tiếp của công dân; xác định cơ chế phối hợp
giữa các hình thức giám sát khác với giám
sát của Nhân dân; bảo đảm hiệu quả pháp lý
trong hoạt động giám sát của Nhân dân.
Hai là, cần sớm ban hành nghị định,
thông tư hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, trong đó
quy định cụ thể: trách nhiệm và chế tài đối
với UBND cấp xã, Chủ tịch UBND xã trong
việc không tổ chức, chậm tổ chức hội nghị
trao đổi, đối thoại với Nhân dân; định lượng
quy mô đơn vị hành chính cấp xã phải tổ
chức trao đổi, đối thoại với Nhân dân theo
từng cụm thôn, tổ dân phố; quyền hạn và
trách nhiệm giữa Chủ tịch UBND xã và
UBND xã; cơ chế phối hợp hoạt động giữa
UBND cấp xã với các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giám sát của nhân dân đối với ủy ban nhân dân cấp xã, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Quy định của pháp luật về giám sát của
Nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cấp xã
Thể chế hóa các quy định của Hiến
pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 (Luật năm 2015) quy
định quyền giám sát của Nhân dân đối với
tổ chức và hoạt động của bộ máy chính
quyền địa phương nói chung, UBND cấp xã
nói riêng. Khoản 2 Điều 5 Luật năm 2015
xác định nguyên tắc “Hiện đại, minh bạch,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân” trong tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương; khoản 1 Điều 8
quy định: UBND do Hội đồng nhân dân
(HĐND) cùng cấp bầu, là cơ quan chấp
hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Một trong những điểm mới của Luật
năm 2015 là quy định: UBND cấp xã có
trách nhiệm tổ chức một năm ít nhất một lần
hội nghị trao đổi, đối thoại với Nhân dân về
tình hình hoạt động của UBND và những
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
GIAÁM SAÁT CUÃA NHÊN DÊN ÀÖËI VÚÁI UÃY BAN NHÊN DÊN CÊËP XAÄ
Phí Minh Hải*
* ThS. Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Giám sát của
Nhân dân đối với UBND
cấp xã.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/02/2017
Biên tập: 03/03/2017
Duyệt bài: 17/03/2017
Article Infomation:
Keywords: People's
Supervision for People's
Committees.
Article History:
Received: 17 Feb. 2017
Edited: 03 Mar. 2017
Approved: 17 Mar. 2017
Tóm tắt:
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân.
Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung,
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nói riêng. Mục đích của hoạt động này
nhằm bảo đảm cho cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Quyền giám sát của Nhân dân được
thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau. Bài viết phân tích một số quy
định của pháp luật về giám sát của Nhân dân đối với UBND cấp xã, một
số hạn chế và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của Nhân dân
đối với UBND cấp xã.
Abstract:
Vietnam is a socialist-ruled-by-law state of the People, by the People, for
the People. All state power belongs to the People. The People have the right
to supervise the performance of the state administration in general and the
People's Committee at the commune level in particular. The purpose of
such activity is to ensure that the officials, public servants and the state
agencies perform their assigned functions and mandates. The People's
supervisory power is exercised in several different manners. This article
analyzes some provisions of the Law on People's Supervision for Commune
People's Committees, a number of limitations and solutions to improve
legislation on People's Supervision of Commune People's Committees.
vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
công dân ở địa phương; trường hợp quy mô
đơn vị hành chính cấp xã quá lớn, có thể tổ
chức trao đổi, đối thoại với Nhân dân theo
từng cụm thôn, tổ dân phố (Điều 125). Quy
định này đã tạo cơ sở cho việc nâng cao
trách nhiệm của UBND xã trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
đồng thời bảo đảm cho Nhân dân địa
phương khả năng kiểm tra, giám sát có hiệu
quả hoạt động của UBND xã.
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, hoạt động giám sát của Nhân dân đối
với UBND xã còn được thực hiện thông qua
thiết chế Thanh tra nhân dân. Thanh tra nhân
dân là một thiết chế thực hiện quyền giám
sát không mang tính quyền lực nhà
nước. Theo quy định tại Điều 68 Luật Thanh
tra năm 2010 thì Ban Thanh tra nhân dân ở
xã, phường, thị trấn do Hội nghị nhân dân
hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân tại thôn,
làng, ấp, bản, tổ dân phố bầu.
Điều 70 Luật Thanh tra năm 2010 quy
định cụ thể trách nhiệm của UBND xã đối
với hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân.
Theo đó, UBND cấp xã có trách nhiệm
thông báo cho Ban Thanh tra nhân dân
những chính sách, pháp luật chủ yếu liên
quan đến tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ của
HĐND, UBND cấp xã; các mục tiêu và
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng
năm của địa phương; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ
và kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết
cho Ban Thanh tra nhân dân; xem xét, giải
quyết kịp thời các kiến nghị của Ban Thanh
tra nhân dân, thông báo kết quả giải quyết
trong thời hạn chậm nhất không quá 15
ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị đó; hỗ
trợ kinh phí, phương tiện để Ban Thanh tra
nhân dân hoạt động theo quy định của pháp
luật. Quy định về Ban Thanh tra nhân dân ở
xã, phường, thị trấn trong Luật Thanh tra
năm 2010 đã tạo cơ sở cho Nhân dân tham
gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh đối với UBND cấp xã; góp
phần phát huy dân chủ, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngoài ra, hoạt động giám sát của
Nhân dân đối với UBND cấp xã còn được
quy định trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn năm 2007. Theo quy
định của Pháp lệnh, Nhân dân thực hiện hoạt
động giám sát chính quyền cấp xã thông qua
Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu
tư của cộng đồng. Nhân dân trực tiếp thực
hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam,
các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã,
Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu
tư của cộng đồng (khoản 2 Điều 24 Pháp
lệnh). Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có các
trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời các
thông tin, tài liệu cần thiết cho Ban Thanh
tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng
đồng; xem xét, giải quyết và trả lời kịp thời
các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân, kiến nghị của Ban Thanh tra nhân dân,
Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, của Uỷ
ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành
viên của MTTQ cấp xã hoặc báo cáo với cơ
quan có thẩm quyền về những vấn đề không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình (Điều
25 Pháp lệnh); hai năm một lần trong mỗi
nhiệm kỳ của HĐND cấp xã, Ban Thường
trực Uỷ ban MTTQ Việt Nam cùng cấp tổ
chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch,
Phó Chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó Chủ
tịch UBND cấp xã (Điều 26 Pháp lệnh).
Như vậy, pháp luật về giám sát của
Nhân dân đối với UBND cấp xã đã tạo cơ
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
sở pháp lý thuận lợi để Nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý
các công việc ở địa phương, giám sát và đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất
dân chủ; góp phần đảm bảo để UBND cấp
xã hoạt động hiệu quả. Pháp luật về giám sát
của Nhân dân đối với UBND cấp xã cũng
ngày càng được hoàn thiện hơn, mở ra nhiều
phương thức để Nhân dân thực hiện quyền
giám sát, nâng cao dân chủ, đảm bảo pháp
chế, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước,
xã hội, cá nhân, tổ chức.
2. Một số hạn chế của pháp luật về giám
sát của Nhân dân đối với Ủy ban nhân
dân cấp xã
Pháp luật về giám sát của Nhân dân
đối với UBND cấp xã hiện đang bộc lộ một
số hạn chế sau:
Thứ nhất, một số quy định về giám sát
của Nhân dân đối với UBND cấp xã trong
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 vẫn còn chung chung, thiếu cụ thể.
Chẳng hạn, Luật chưa quy định rõ chế tài và
trách nhiệm của UBND cấp xã, Chủ tịch
UBND xã trong việc không tổ chức, chậm
tổ chức hội nghị trao đổi, đối thoại với Nhân
dân; hay quy định về đơn vị hành chính cấp
xã có quy mô “quá lớn” là lớn đến mức nào
thì phải tổ chức trao đổi, đối thoại với Nhân
dân theo từng cụm thôn, tổ dân phố; chưa có
sự phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm
giữa Chủ tịch UBND xã và UBND xã; thiếu
cơ chế phối hợp hoạt động cụ thể giữa
UBND cấp xã với các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.
Thứ hai, quy định của Luật Thanh tra
năm 2010 về Ban Thanh tra nhân dân còn
có những điểm chưa hợp lý sau:
Một là, Ban Thanh tra nhân dân là thiết
chế bán chuyên trách thực hiện giám sát
mang tính xã hội nhưng lại được quy định
trong một văn bản pháp luật cùng với thanh
tra nhà nước. Điều này thể hiện sự lúng túng
trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp, bảo
đảm hiệu quả hoạt động giám sát của Nhân
dân đối với cơ quan chính quyền địa phương
nói chung, UBND cấp xã nói riêng;
Hai là, mặc dù được quy định trong
cùng một văn bản luật nhưng giữa thanh tra
nhà nước và thanh tra nhân dân ở cấp chính
quyền cơ sở không hề có sự liên hệ, hỗ trợ
nhau. Điều này tác động trực tiếp đến hiệu
quả hoạt động của Thanh tra nhân dân (thiết
chế không mang tính quyền lực nhà nước).
Ba là, việc quy định về thanh tra nhân
dân trong Luật Thanh tra năm 2010 dễ dẫn
đến sự nhầm lẫn giữa hoạt động giám sát
của tổ chức do nhân dân bầu ra với hoạt
động kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà
nước1.
Ngoài ra, Luật Thanh tra năm 2010
không quy định cụ thể chế tài đối với những
trường hợp cố tình không cung cấp thông tin
cho Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát
đầu tư cộng đồng. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt
động kém hiệu quả của Ban Thanh tra nhân
dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng2.
Những hạn chế nêu trên của Luật
Thanh tra năm 2010 đã làm hạn chế quyền
giám sát của Nhân dân đối với hoạt động
của UBND xã.
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Hoàng Minh Hội, “Thực trạng pháp luật về giám sát của Nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay và một số kiến nghị”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, tập 30, số 2/2014, tr. 46.
2 Lê Thị Thúy, “Một số vấn đề về tổ chức hoạt động giám sát đầu tư của cộng đồng trong giai đoạn hiện nay,
nay_t104c2714n1743tn.aspx, truy cập ngày 12/3/2017.
Thứ ba, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn năm 2007 cũng bộc lộ
những bất cập nhất định gây ảnh hưởng đến
việc thực hiện quyền giám sát của Nhân dân
đối với chính quyền cơ sở nói chung, UBND
cấp xã nói riêng. Mặc dù Pháp lệnh liệt kê
cụ thể các nội dung hoạt động của chính
quyền cấp xã cần được công khai cho Nhân
dân, tuy nhiên, do thiếu chế tài cụ thể nên
người dân rất khó khăn trong việc tiếp cận
để thực hiện quyền năng của mình.
Thứ tư, việc thực hiện pháp luật về
giám sát của Nhân dân đối với UBND cấp
xã còn những hạn chế, bất cập sau:
Một là, đa số người dân chưa nhận
thức đúng đắn về ý nghĩa, vai trò của việc
thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với
hoạt động của chính quyền. Tâm lý e ngại,
nể nang còn chi phối rất lớn đến tư tưởng,
tình cảm của người dân. Do việc thực hiện
quyền giám sát của Nhân dân không thường
xuyên và không hiệu quả nên những vi
phạm trong quản lý của chính quyền cấp xã,
nhất là lĩnh vực quản lý đất đai, giải phóng
mặt bằng, thực hiện chính sách xã hội, xây
dựng hạ tầng không được phát hiện kịp
thời đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân.
Hai là, ở một số nơi, chính quyền địa
phương, nhất là người đứng đầu chính
quyền cấp xã chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa
việc phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân
thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát đối
với công tác xây dựng chính quyền. Vì vậy,
họ chưa chủ động, tích cực trong xây dựng
và và tạo điều kiện cần thiết để động viên
Nhân dân thực hiện có hiệu quả hoạt động
kiểm tra, giám sát.
Ba là, tình trạng e ngại, né tránh và
hình thức trong thực hiện chức năng kiểm
tra, giám sát của HĐND chậm được khắc
phục. Bên cạnh đó, MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội là những thiết chế xã hội
có chức năng kiểm tra, giám sát và phản
biện xã hội đối với hoạt động của chính
quyền cơ sở, nhưng chưa thực sự làm tốt
chức năng của mình. Điều này cũng gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát của Nhân dân3.
Bốn là, chất lượng công tác tiếp nhận,
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
chính quyền cấp xã chưa đáp ứng được kỳ
vọng của người dân. Thông qua giám sát,
nhiều vụ việc được người dân phát hiện và
tố giác nhưng không được tiếp nhận và giải
quyết kịp thời, thỏa đáng, thậm chí có tình
trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm4.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giám sát của Nhân dân đối với Ủy ban
nhân dân cấp xã
Để bảo đảm cho Nhân dân thực hiện
quyền giám sát đối với UBND cấp xã, theo
chúng tôi, cần thực hiện những giải pháp sau
đây:
Một là, cần cụ thể hóa các quy định
của Hiến pháp năm 2013 về quyền giám sát
của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói
chung, UBND cấp xã nói riêng. Theo đó,
cần nghiên cứu ban hành Luật Giám sát của
Nhân dân trên cơ sở pháp điển hóa các văn
bản pháp luật hiện hành. Luật Giám sát sẽ
quy định cụ thể phạm vi, nội dung, chủ thể,
trình tự, thủ tục các hình thức giám sát của
Nhân dân bao gồm giám sát của MTTQ và
các đoàn thể, giám sát của các tổ chức xã
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Hoàng Đình Trung, “Kiểm tra, giám sát của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị ở cấp xã”,
inhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1656-kiem-tra-giam-sat-cua-nhan-dan-trong-xay-dung-he-thong-chinh-tri-
o-cap-xa.html, truy cập ngày 12/3/2017.
4 Hoàng Đình Trung, “Kiểm tra, giám sát của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị ở cấp xã”, Tlđd.
hội, giám sát của báo chí và giám sát trực
tiếp của công dân; xác định cơ chế phối hợp
giữa các hình thức giám sát khác với giám
sát của Nhân dân; bảo đảm hiệu quả pháp lý
trong hoạt động giám sát của Nhân dân.
Hai là, cần sớm ban hành nghị định,
thông tư hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, trong đó
quy định cụ thể: trách nhiệm và chế tài đối
với UBND cấp xã, Chủ tịch UBND xã trong
việc không tổ chức, chậm tổ chức hội nghị
trao đổi, đối thoại với Nhân dân; định lượng
quy mô đơn vị hành chính cấp xã phải tổ
chức trao đổi, đối thoại với Nhân dân theo
từng cụm thôn, tổ dân phố; quyền hạn và
trách nhiệm giữa Chủ tịch UBND xã và
UBND xã; cơ chế phối hợp hoạt động giữa
UBND cấp xã với các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.
Ba là, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về hoạt động thanh tra nhân dân theo hướng
thực chất, thực quyền, tăng quyền hạn, trách
nhiệm cho Ban Thanh tra nhân dân. Kiện
toàn về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh
tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư công để
các thiết chế này hoạt động hiệu quả.
Bốn là, Thủ tướng Chính phủ đã giao
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với cơ quan
liên quan nghiên cứu việc xây dựng Luật
Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Về vấn đề này,
chúng tôi nhận thấy việc xây dựng Luật
này cần được tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở
kế thừa các quy định của Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày
8/9/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày
19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
khoản 3 Điều 63 Bộ luật Lao động về thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm
việc; và đồng thời bảo đảm tính thống nhất,
tránh sự trùng lặp trong hệ thống pháp luật,
đặc biệt tránh sự trùng lặp với các quy định
có liên quan của Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015.
Năm là, cần tiếp tục hoàn thiện Luật
Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011,
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005,
Luật Thanh tra năm 2010 nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo, bảo đảm quyền giám sát của Nhân dân;
cần có các điều kiện bảo đảm, các phương
án bảo vệ cho những cá nhân mạnh dạn tố
cáo hành vi tham nhũng, đi đôi với chế độ
khen thưởng kịp thời.
Sáu là, triển khai thực hiện có hiệu
quả pháp luật về giám sát của Nhân dân đối
với UBND cấp xã. Theo đó, UBND cấp xã
cần thực hiện nghiêm túc pháp luật về giám
sát của Nhân dân, đặc biệt là thực hiện tốt
nội dung của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn năm 2007; tăng cường
công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
và động viên Nhân dân chủ động tham gia
công tác kiểm tra, giám sát hoạt động quản
lý nhà nước ở địa phương; đổi mới nội dung,
phương thức thực hiện công tác giám sát và
chất lượng các kỳ họp của HĐND cấp xã;
nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri
nhằm nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
Nhân dân, trên cơ sở đó thực hiện các cuộc
giám sát theo chuyên đề sát với tình hình
thực tế địa phương; thực hiện trách nhiệm
giải trình của Chủ tịch UBND xã đối với
hoạt động quản lý, điều hành. UBND cấp xã
cần tạo điều kiện để Nhân dân thực hiện
hiệu quả việc giám sát và đánh giá cán bộ,
đặc biệt là cán bộ giữ chức vụ quản lý ở địa
phương; tiếp tục cải cách hành chính, công
khai thủ tục hành chính để Nhân dân có điều
kiện giám sát hoạt động của UBND cấp xã;
nâng cao chất lượng giám sát và phản biện
xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị -
xã hội cấp xã đối với chính quyền n
24
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giam_sat_cua_nhan_dan_doi_voi_uy_ban_nhan_dan_cap_xa.pdf