Thứ nhất, bên cạnh thành tựu bước đầu
nêu trên, hoạt động giám sát, kiểm tra, xử lý
các văn bản hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước ban hành thời gian qua chưa
kịp thời, thiếu tính chủ động, đôi khi còn mang
tính hình thức nên chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Thứ hai, thực tế cho thấy, mặc dù thời
gian qua chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong
việc ban hành các văn bản pháp luật, quy
định về giám sát, kiểm tra, xử lý các văn bản
hành chính. Song các văn bản đó còn thiếu
tính thống nhất, chồng chéo, đồng bộ, kịp
thời, một số những văn bản còn quy định
thiếu tính cụ thể, đã dẫn đến tình trạng hiểu
khác nhau đối với vấn đề xử lý các văn bản
khiếm khuyết trong đời sống xã hội, tạo ra
nhiều ý kiến phản biện xã hội, đôi khi là ý
kiến trái chiều của các học giả, các nhà quản
lý và các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động
xây dựng pháp luật, hoạt động quản lý của
các cơ quan nhà nước trong thời gian qua.
Thứ ba, mặc dù qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, các văn bản hướng dẫn thi hành luật này,
song các quy định cụ thể về thời hạn, hình thức
giám sát, kiểm tra vẫn chưa được thực hiện
nghiêm túc nên các khiếm khuyết, những sai
trái hoặc những văn bản quy phạm (hoặc có
những quy phạm trong văn bản đó) không còn
phù hợp với thực tế nhưng đều rất chậm được
xử lý kịp thời.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
43
GIÁM SÁT, KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
THEO LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT NĂM 2015
Tạ Quang Ngọc1
Trong hoạt động quản lý nhà nước, để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, các chủ thể tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội đều sử dụng văn bản pháp luật
nói chung và văn bản quy phạm pháp luật nói
riêng làm phương tiện truyền đạt thông tin để
chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động quản lý
của mình. Các văn bản này có thể được thể
hiện ở những hình thức, tên gọi khác nhau song
chúng đều được hiểu là các văn bản, các quyết
định quản lý, nội dung chứa đựng các thông tin
phục vụ cho hoạt động quản lý của các cơ
quan, tổ chức trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vì vậy,
có thể hiểu văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước là các văn bản chứa đựng quy
tắc xử xự chung do chủ thể có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, hình thức, thủ tục luật định
để truyền đạt thông tin do cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành nhằm
phục vụ cho hoạt động chỉ đạo, chấp hành -
điều hành của nhà nước, thiết lập và duy trì trật
tự xã hội.
Xuất phát từ vị trí, tính chất, chức năng của
văn bản quy phạm pháp luật, nên khi các văn
bản này được sử dụng như một công cụ pháp
lý, để chỉ đạo, điều hành các công việc nhà
nước, giải quyết các mối quan hệ trong đời
sống xã hội thông qua những cơ chế điều chỉnh
nhất định, làm phát sinh kết quả pháp lý giữa
các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đó.
Vì vậy, khi ban hành các văn bản pháp luật này
phải bảo đảm các yêu cầu về tính hợp pháp,
tính hợp lý thì việc thi hành trong đời sống xã
hội mới bảo đảm hiệu quả cao. Ngược lại, nếu
không đáp ứng được các yêu cầu đó, văn bản
pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước
sẽ không phát huy hiệu lực, giá trị và hiệu quả,
tính khả thi thấp hoặc không bảo đảm về hiệu
lực pháp lý. Các văn bản này cần được xử lý
bằng hình thức sửa đổi, hủy hoặc đình chỉ việc
thi hành nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1. Cơ sở pháp lý
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
là mục tiêu được Đảng, Nhà nước ta xác định
1 Tiến Sỹ, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội
Tóm tắt tiếng Việt: Giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động quan
trọng của các chủ thể có thẩm quyền trong việc theo dõi, xem xét, đánh giá và kết luận về tính
hợp pháp, hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát,
kiểm tra có thể phát hiện những dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý để yêu cầu, đề nghị, kiến nghị
chủ thể có thẩm quyền xử lý kịp thời bằng các hình thức như đính chính, sửa đổi, bổ sung, thay
thế, bãi bỏ, hủy bỏ nhằm nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật.
Từ khóa: Giám sát, kiểm tra, xử lý, văn bản quy phạm pháp luật.
Nhận bài: 05/01/2017; Hoàn thành biên tập: 05/02/2017; Duyệt đăng: 30/02/2017
Tóm tắt tiếng Anh:
Abstract: Monitoring, inspecting, handling legal documents are important activities of
competent actors in monitoring, reviewing, evaluating and making conclusion on the legality and
reasonableness of legal documents. At the same time, through monitoring activities, illegal and
irrational signs can be detacted. To timely request, propose, suggest the authorities to handle
promptly in forms of correction, amendment, supplement, replacement, repeal, cancellation in
order to improve the quality of normative documents law.
Key words: Monitoring, inspecting, handling legal documents.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
44
là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện
nay. Điều này được thể hiện trong Nghị quyết
số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày
24/2/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Để thực hiện
thành công chiến lược đó, vấn đề giám sát,
kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật của nhà nước,
thời gian qua đã được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật như: Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002);
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm
2004 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008. Cùng với các luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật này, Chính phủ đã ban
hành nghị định số 135/2003/NĐ-CP để quy
định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm
pháp luật (sau này được thay thế bằng nghị
định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 và các
thông tư, thông tư liên tịch của các bộ hướng
dẫn thi hành một số nội dung liên quan đến
hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm
pháp luật. Gần đây, hoạt động giám sát, kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật được
quy định trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015; Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015; Luật tổ chức Chính phủ năm 2015;
Luật tổ chức chính quyền địa phương năm
2015; Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày
08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư;
Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08/02/2010
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP; Thông tư
số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn về thể thức và kỹ
thuật trình bày văn bản hành chính; Nghị định
số 34/2016 ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 Các văn bản pháp luật này là cơ
sở pháp lý quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với
việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật
hiện nay. Trên cơ sở quy định của pháp luật về
chủ thể có thẩm quyền, trình tự (quy trình), thủ
tục, hình thức, thời hiệu, thể thức, kỹ thuật
trình bày văn bản. Các chủ thể có thẩm quyền
giám sát, kiểm tra và xử lý đối với văn bản
hành chính được xác định cụ thể về thẩm
quyền, trách nhiệm của mình. Qua đó góp phần
không nhỏ vào hoạt động ban hành, tổ chức
thực hiện pháp luật, nâng cao kỹ năng xây
dựng, ban hành và hiệu lực, hiệu quả đối với
các văn bản này.
2. Về hoạt động giám sát và xử lý văn
bản quy phạm pháp luật
Hoạt động giám sát, xử lý văn bản pháp
luật trong đời sống xã hội là một trong các biện
pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mục
đích của hoạt động này là nhằm phát hiện
những vi phạm trong hoạt động xây dựng, ban
hành các văn bản pháp luật đó hoặc phát hiện
những bất cập, những quy định trong văn bản
pháp luật của nhà nước, những vấn đề không
còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước (không phù hợp với tình hình
thực tế quản lý) để xử lý kịp thời những vi
phạm, những hạn chế, bất cập đó. Có thể hiểu
các hoạt động này ở nội dung cụ thể sau:
Thẩm quyền giám sát được quy định đối
với các chủ thể gồm: Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các
ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội
đồng nhân dân2. Thông qua các hình thức giám
sát của cụ thể nhằm phát hiện những vi phạm
về tính hợp pháp, hợp lý hoặc không còn phù
hợp của văn bản để kịp thời bãi bỏ, đình chỉ
việc thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung một phần
hoặc toàn bộ văn bản hay kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền xử lý đối với văn bản pháp luật
hoặc xử lý chủ thể có thẩm quyền ban hành văn
bản pháp luật đó3.
Nội dung giám sát văn bản quy phạm pháp
luật được tập trung vào: Sự phù hợp của văn
bản bản với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ
quan quyền lực cùng cấp, cơ quan nhà nước
cấp trên đã ban hành; sự phù hợp về hình thức
2 Khoản 1, Điều 164 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
3 Điều 162 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
45
văn bản với nội dung của văn bản, sự phù hợp
của nội dung với thẩm quyền của củ thể ban
hành và sự thống nhất giữa văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành với văn bản mới được ban
hành của cùng một cơ quan4.
Trong quá trình giám sát, nếu chủ thể có
thẩm quyền giám sát phát hiện những nội dung
vi phạm, sai trái hoặc không còn phù hợp của
văn bản thì có quyền xử lý như sau:
Quốc hội bãi bỏ văn bản quy phạm pháp
luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm
toán nhà nước trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội5.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đình chỉ việc
thi hành văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà
nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội và trình Quốc hội việc bãi bỏ các văn
bỏ đó tại kỳ họp gần nhất6.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn
bản quy phạm pháp luật của Chính phủ Thủ
tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước trái với Pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp,
luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên
Hội đồng nhân dân bãi bỏ văn bản quy
phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp,
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân cấp dưới trái với nghị quyết của
mình, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên7.
Về trình tự, thủ tục giám sát và xử lý các
văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện
theo quy định của các văn bản pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân cũng như các cơ quan, tổ chức cá
nhân có thẩm quyền tham gia giám sát, xử lý
các văn bản trái pháp luật. Điều đó thể hiện vị
trí, vai trò và tầm quan trọng trong hoạt động
xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.
Như vậy, hoạt động giám sát, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước
được quy định cụ thể tại chương XV Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Những quy định này phù hợp với Hiến pháp
năm 2013 và cũng được quy định trong các văn
bản pháp luật khác có liên quan như Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Chính quyền
địa phương năm 2015
3. Về hoạt động kiểm tra và xử lý văn
bản quy phạm pháp luật
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có
thể được thực hiện bằng hai hình thức là do chủ
thể có thẩm quyền tự kiểm tra văn bản do mình
ban hành để phát hiện những sai trí, khiếm
khuyết để xử lý kịp thời những vấn đề đó và
hình thức kiểm tra của các cấp trên, của cơ
quan có thẩm quyền quản lý (theo chức năng).
Trên thực tế, pháp luật đã có quy định rõ đối
với các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản quy
phạm pháp luật phải có trách nhiệm tự mình
kiểm tra thường xuyên, phát hiện kịp thời
những sai trái hoặc sự không phù hợp của văn
bản do mình ban hành, tùy theo mức độ sai trái,
không phù hợp thực tế, quyết định hình thức
áp dụng xử lý đình chỉ, tạm đình chỉ việc thi
hành, bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 (Điều 165, 166
4 Điều 163 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
5 Khoản 2, Điều 164 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
6 Khoản 3 Điều 164 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
7 Khoản 4 Điều 164 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
46
và 167) quy định về kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật
của các chủ thể có thẩm quyền, trách nhiệm
của các chủ thể về kiểm tra, xử lý; trách nhiệm
tự kiểm tra, tự xử lý của các cơ quan, người có
thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước. Bên
cạnh đó, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày
14/5/2016 của Chính phủ đã cụ thể hóa các quy
định trong Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật về thẩm quyền kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật gồm: Chính phủ, Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Cụ thể là:
Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chính quyền địa
phương ở đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt
có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp, luật và văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên. Để giúp Chính phủ trong công tác kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan này, pháp luật quy định Bộ Tư pháp là cơ
quan giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ được
giao, có trách nhiệm kiểm tra các văn bản đó.
Đồng thời, pháp luật cũng quy định đối với văn
bản quy phạm Bộ Tư pháp ban hành hoặc phối
hợp ban hành thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn
phòng Chính phủ có nhiệm vụ giúp Chính phủ
kiểm tra để phát hiện kịp thời những sai trái,
khiếm khuyết và xử lý theo đúng quy định của
pháp luật hiện hành.
Đối với Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ, Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
ban hành đối với những vấn đề thuộc ngành,
lĩnh vực có liên quan do mình quản lý.
Ở địa phương, Hội đồng dân, Ủy ban nhân
dân cấp trên kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
cấp dưới ban hành. Cụ thể là Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh là chủ thể có thẩm quyền
kiểm tra văn bản quy phạm do Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền kiểm tra văn bản quy phạm do Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã ban
hành. Để bảo đảm việc kiểm tra thực hiện có
chất lượng và hiệu quả, pháp luật quy định rõ
ở cấp tỉnh do Giám đốc Sở tư pháp và ở cấp
huyện do Trưởng phòng tư pháp chịu trách
nhiệm giúp chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng
cấp thực hiện việc kiểm tra văn bản quy phạm
pháp luật theo thẩm quyền dược pháp luật
quy định.
Về nội dung kiểm tra văn bản bản quy
phạm được pháp luật xác định không hoàn
toàn giống nội dung giám sát, việc kiểm tra
được thực hiện ở các nội dung như: kiểm tra
về thẩm quyền nội dung và thẩm quyền hình
thức; kiểm tra nội dung của văn bản; kiểm tra
căn cứ ban hành; kỹ thuật trình bày, thể thức
văn bản; quy trình xây dựng và ban hành văn
bản quy phạm.
Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện văn
bản quy phạm có nội dung sai trái, hoặc khiếm
khuyết hay không phù hợp với thực tế thì chủ
thể kiểm tra có quyền xử lý theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý bằng
các hình thức như đình chỉ việc thi hành hoặc
bãi bỏ văn bản đó. Việc xử lý được tiến hành
như sau:
- Bộ Tư pháp là cơ quan được giao giúp
Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ ban hành. Khi phát hiện có vi phạm, Bộ Tư
pháp có quyền kiến nghị Bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ đình chỉ việc thi hành, bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp
luật đó; kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, xử lý
văn bản liên tịch có dấu hiệu trái pháp luật.
Trong trường hợp kiến nghị của Bộ Tư pháp
không được chấp thuận, Bộ Tư pháp sẽ trình
Thủ tướng Chính phủ xử lý theo quy định của
pháp luật.
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
trong phạm vi thẩm quyền của mình, có quyền
kiến nghị với Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ khác đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật
đã ban hành liên quan đến ngành, lĩnh vực do
mình quản lý, phụ trách. Nếu kiến nghị đó
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
47
không được chấp thuận thì có quyền trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét quyết định.
- Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính
phủ có thẩm quyền kiến nghị Bộ trưởng Bộ
Tư pháp đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một
phần hay toàn bộ văn bản trái pháp luật do
Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành. Trong
trường hợp kiến nghị không được Bộ trưởng
Bộ Tư pháp chấp thuận thì Bộ trưởng, Chủ
nhiệm văn phòng Chính phủ có quyền trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định;
Kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, xử lý văn
bản liên tịch với Bộ Tư pháp có dấu hiệu trái
pháp luật.
- Đối với việc xử lý văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền địa phương được
thực hiện như sau: Chủ tịch Ủy ban nhân dân
đình chỉ việc thi hành văn bản trái pháp luật
của Hội đồng nhân dân cấp dưới và đề nghị
Hội đồng nhân dân cùng cấp bãi bỏ; Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp trên đình chỉ việc thi
hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
trái pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp dưới
trực tiếp.
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục kiểm tra, xử
lý văn bản quy phạm pháp luật được quy định
tại chương VIII và chương IX của Nghị định
số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính
phủ. Trong đó, chương VIII từ điều 103 đến
điều 136 quy định các nội dung về kiểm tra, xử
lý như đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, đính
chính nội dung của văn bản quy phạm pháp
luật. Chương IX quy định về hoạt động rà soát,
hệ thống hóa với các nội dung về nghiệp vụ rà
soát và các hình thức xử lý văn bản được rà
soát. Các hình thức xử lý gồm có bãi bỏ toàn
bộ hoặc một phần văn bản; thay thế văn bản;
sửa đổi, bổ sung văn bản; ban hành văn bản
mới; đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn
bộ văn bản; ngưng hiệu lực thi hành một phần
hoặc toàn bộ văn bản trong một thời hạn nhất
định căn cứ vào điều kiện, tình hình phát triển
kinh tế - xã hội
4. Một số nhận xét về hoạt động giám
sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp
luật trong thời gian qua.
Thứ nhất, bên cạnh thành tựu bước đầu
nêu trên, hoạt động giám sát, kiểm tra, xử lý
các văn bản hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước ban hành thời gian qua chưa
kịp thời, thiếu tính chủ động, đôi khi còn mang
tính hình thức nên chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Thứ hai, thực tế cho thấy, mặc dù thời
gian qua chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong
việc ban hành các văn bản pháp luật, quy
định về giám sát, kiểm tra, xử lý các văn bản
hành chính. Song các văn bản đó còn thiếu
tính thống nhất, chồng chéo, đồng bộ, kịp
thời, một số những văn bản còn quy định
thiếu tính cụ thể, đã dẫn đến tình trạng hiểu
khác nhau đối với vấn đề xử lý các văn bản
khiếm khuyết trong đời sống xã hội, tạo ra
nhiều ý kiến phản biện xã hội, đôi khi là ý
kiến trái chiều của các học giả, các nhà quản
lý và các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động
xây dựng pháp luật, hoạt động quản lý của
các cơ quan nhà nước trong thời gian qua.
Thứ ba, mặc dù qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, các văn bản hướng dẫn thi hành luật này,
song các quy định cụ thể về thời hạn, hình thức
giám sát, kiểm tra vẫn chưa được thực hiện
nghiêm túc nên các khiếm khuyết, những sai
trái hoặc những văn bản quy phạm (hoặc có
những quy phạm trong văn bản đó) không còn
phù hợp với thực tế nhưng đều rất chậm được
xử lý kịp thời.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc
trong các cơ quan như Bộ Tư pháp, Sở Tư
pháp, phòng Tư pháp (kể cả các đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân) chưa
được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, tập huấn về kỹ năng giám sát,
kiểm tra nên khi thực hiện nhiệm vụ chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra.
Thứ năm, cơ sở vật chất, trang thiết bị
chưa bảo đảm, kinh phí còn thấp cũng là một
trong những nguyên nhân tạo ra những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động giám sát, kiểm tra và
xử lý văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.
(Xem tiếp trang 59)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giam_sat_kiem_tra_xu_ly_van_ban_quy_pham_phap_luat_theo_luat.pdf